Xuân Di Lặc,
Cụm từ trên không biết
có tự bao giờ…? Thế nhưng từ lâu cho đến tận ngày hôm nay, thật sự đã đi sâu thẳm
vào dòng tâm tưởng của tuyệt đại đa số những người đệ tử Phật, và cả những con
người trong nhân gian một khi mưu cầu hạnh phúc, sự bình yên an lành trong cuộc
sống giữa đời thường nầy.
Điều mà mọi người chúng
ta có thể cảm nhận được rằng : mỗi lúc, mỗi nơi khắp cả hành tinh địa cầu mà
chúng ta đang có mặt, càng chuyên chở nhiều hơn, càng nặng nề hơn, phức tạp hơn…
từ số lượng dâng cao của con người, thì mọi nhu cầu cung ứng cho sự sống cũng
phải được lo toan dàn trải về mọi việc, mọi phía để nhằm phục vụ cho sự phát
triển mật độ ấy.
Thế nhưng, phải đâu chỉ
chừng bấy nhiêu chuyện, qua đó nó còn phát sinh không ít những nỗi bất an khác,
mà đầu nguồn do từ lòng gian tham, ích kỷ “ta và của ta” để rồi được thua, còn
mất, rồi bất mãn, ý tưởng đồng dị, rồi sân giận, phiền muộn, rồi cạnh tranh đưa
đến đấu tranh tàn hại khốc liệt… tạo nhiều nỗi quan tâm cho cả cộng đồng xã hội
con người như ngày hôm nay, phải chăng đó là một diễn biến hiện tượng tất yếu
đã hay sẽ phát sinh? Nhìn chung, mọi việc cũng không ngoài bao thủ đoạn thế lực,
và quyền lợi chính trị, chủ nghĩa, ý thức hệ tư tưởng, kinh tế kể cả những
manh nha khác biệt hình thức tôn giáo.v.v…
Trong thế giới bất an,
con người bất an, muôn thú bất an, cây cỏ bất an.v.v…, chính những nỗi bất an ấy,
đều được nói lên từ phía con người và do con người. Con người có khả năng làm
nên sự bình yên, an hòa, thịnh vượng, nhưng cũng từ phía con người lại gây ra
không biết bao đổ nát, thảm họa và khổ đau. Điều ấy đã cho chúng ta thấy, không
phải ngay bây giờ mà cả tự ngàn xưa, rồi dẫn đến tận ngàn sau. Nếu như nguồn mạch
đạo đức chơn thiện không được tuyên thuyết, giáo dục rộng rãi, tưới tẩm, thắp
sáng vào tâm trí con người từ phía đại nguyện Bi-Trí đã thị hiện vào đời của
những bậc Thánh Đức, những bậc đạo sư khả kính.
Do đó, Giáo lý hay Đạo
lý của bậc Thánh luôn được hiện hữu, lại còn siêu vượt và bất tận đến với thời
gian và không gian vô cùng. Từ ý nghĩa ấy, mà hình ảnh Đại bi Bồ tát Quán Thế
Âm, Đại nguyện Bồ tát Địa Tạng Vương, hùng lực Bồ tát Đại Thế Chí hay Bồ tát A
Dật Da Từ thị Di Lặc v.v… vẫn hằng cao
thượng, và giúp người hướng thượng, luôn được biểu thị sự hiện hóa đại hạnh
nguyện vào mọi lúc, mọi nơi trong thế giới loài người.
Năm nào, lại không bắt
đầu từ tháng 1, tháng nào lại không bắt đầu từ ngày mùng 1, và ngày nào lại
không bắt đầu từ lúc sơ bình minh? Thế nên, sự giao tiếp giữa thời khắc, của
tiết mùa, của sự chuyển mình trong đất trời muôn trùng, vẫn luôn ấn vào tâm lý
con người một cảm nhận sâu sắc trước đây và bây giờ.
Như vậy, năm mới, tháng
mới, ngày mới, giờ phút mới, mùa tiết mới, ước nguyện mới v.v… Sự đổi thay “cũ,
mới” ấy, vẫn không ngừng luân chuyển, tuần tự tiếp nối liên tục của mọi sự vật
hiện tượng trong không gian và thời gian. Phải chăng, đó là những khái niệm lâu
nay của con người? Và cứ như thế, ý niệm ấy nó vẫn mãi mãi duy trì, truyền đi
truyền lại từ thế hệ nầy đến thế hệ
khác, ngàn đời không thay đổi.
Thế nên, Thi sĩ Xuân Diệu
lại một phen than thở :
“ Xuân đang đến, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân
còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Mà
Xuân hết, thì đời tôi cũng hết”.
Nhưng rồi thi nhân cũng
kịp thấy ra rằng :
“Xuân
của đất trời nay mới đến,
Trong
tôi xuân đến đã lâu rồi…”
Mùa xuân nào lại có ở
trong tôi, sự vận hành lưu xuất của nó như thế nào, phải chăng đó là mùa xuân
Di Lặc? mà lâu nay trong nhân gian đã được truyền tụng, đã được ca ngợi giữa
cuộc tang điền thương hải nầy!
Trở lại vấn đề “Mùa
Xuân Di Lặc”, một pháp ý được chuyển tải từ nguồn mạch đạo lý uyên áo thâm diệu
tự ngàn xưa. Qua cụm từ “Từ Thị Di Lặc” nghĩa là : người mang chủng tánh Từ Bi,
rộng đức bao dung, hòa ái, êm dịu, luôn đem lại sự an lành hạnh phúc cho mọi
người và cho cả cuộc đời. Cùng khi ấy, mùa xuân là sự báo hiệu thanh khí của đất
trời, với bao hình ảnh xinh đẹp, tươi mát, dâng đầy nhựa sống của muôn cây và
hoa cỏ… Nếu như có sự kết hợp qua hai nội dung, tính chất ấy, thì mùa xuân đó mới
thật đến trong tôi!
Với con người ấy, phải
đâu chỉ ở một nơi, đến một chỗ hay một hình thức xơ cứng nào đó thôi. Bao nhiêu
đặc thù chủng tánh tốt đẹp thanh cao ấy,
nó được biến hiện mầu nhiệm muôn trùng vào trong cuộc sống, và sự sống vô cùng
của thế giới bao la nầy, với bao nhiêu việc làm, tư duy để đem lại nhiều lợi lạc
cho số đông con người, nếu không phải đó là sự hóa thân của “Từ
thị Di Lặc? hay “Mùa Xuân Di Lặc” trong mỗi tâm hồn
lành mạnh trong sáng, đích thực của con người.
Phải đâu chỉ ngang qua
từng ấy lời chúc tụng suông trong 3 ngày Tết, hay chỉ được mươi bữa trong mùa
xuân, rồi lại bị quên lãng bởi theo bao việc: cơm áo, còn mất, thị phi, tranh
chấp, phải quấy, hơn thua… thì có gì là mùa xuân Di Lặc, mùa xuân đến tự trong
tôi!? Thế nhưng, nghĩ cho cùng, dù chừng ấy việc làm, chừng ấy nghĩ suy một
thoáng đến sự ước mơ, cầu nguyện, cho dù chỉ là một thoáng thôi, nó cũng đem
lại một ít bình an, lắng đọng một ít trần tâm giữa thế đời vui ít, khổ nhiều, mà sự hiểm
nguy lại càng nhiều hơn của dòng chảy vui buồn, thành bại của thời gian, từ sự cảm nhận ấy, có một nhà tu
thi sĩ đã mô tả nỗi niềm:
“…Tâm
linh một thoáng bừng giao cảm,
lặng
hết bao nhiêu lớp sóng cồn”.
Đến đây, chúng ta cùng
chiêm nghiệm qua lời của Đức Phật:
“…Đối kẻ sống thanh tịnh, ngày nào cũng ngày tốt.
Với
kẻ sống thanh tịnh, ngày nào cũng ngày lành.
Các
tịnh nghiệp thanh tịnh, luôn thành tựu thiện hạnh…”.
Đồng thời, Đức Phật
cũng cho biết thêm về tính nhân bản trong giáo nghĩa của Ngài, như, với ai:
“… Khiến mọi loài chúng sanh,
Được
sống trong an ổn,
nếu
không nói dối trá,
nếu
không hại chúng sanh,
không
lấy của không cho,
có
lòng tin, không tham…”
(Majjhima Nikaya 1, 7).
Thiển nghĩ, đây mới là
mùa Xuân Di Lặc, thật sự xuân đến trong tôi, và ngoài kia xuân đã về…!
CHÙA KỲ VIÊN,
South Dakota 2018.
MẶC
PHƯƠNG TỬ