“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”
Phạm Ngũ Lão
Đại công ngoài mãi tầm tay
Thẹn nghe lời nhắc rồng mây Vũ hầu
Non sông riêng họ Trần đâu
Mà trăm trận đánh công đầu về ai
Để ta thương một chàng trai
Giáo cầm ngang tiếng thở dài mấy thu
Kìa trên dòng sử hoang vu
Tầm tay ai vượt sương mù trỏ lên
Thẳng băng ngọn giáo mũi thuyền
Nuốt sao Ngưu lệnh còn xuyên trăng tà
Chàng trai cười ngất Đông A
Hơi văn nhọn mãi chính là đại công.
Vũ Hoàng Chương
II - Sự Kiện của thơ
Phần I và phần II tôi đã viết ở “Bàn Về Đọc Lại Người Xưa, Bài 1” đăng trên trang mạng nên nay xin lướt qua. Mời quý vị có thể đọc ở đường link sau đây:
https://phudoanlagi.blogspot.com/2020/11/ban-ve-oc-lai-nguoi-xua-bai-1-tho-vu.html
III - Tóm lược tiểu sử Phạm Ngũ Lão
“Đọc Lại Người Xưa, bài 2” nhà thơ Vũ Hoàng Chương viết về tướng Phạm Ngũ Lão.
Phạm Ngũ Lão, người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, Hải Dương (nay là làng Phù Ủng xã Phù Ủng huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên), Việt Nam
Trong hai cuộc chiến chống quân xâm lược nhà Nguyên (1285-1288) Phạm Ngũ Lão lập được nhiều chiến công. Năm 1285, trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai ông cùng với Trần Quang Khải tiến đánh Chương Dương, Hàm Tử, đập tan đội binh thuyền khổng lồ của giặc và diệt quân Nguyên chiếm đóng Thăng Long. Sau đó, Phạm Ngũ Lão được lệnh mang 3 vạn quân phục kích đánh địch ở Vạn Kiếp, chặn đường địch rút chạy lên biên giới phía bắc và diệt được hai phó tướng địch là Lý Quán và Lý Hằng.
Phạm Ngũ Lão đã ba lần cất quân đi trừng phạt sự xâm chiếm, quấy nhiễu của quân Ai Lao vào các năm 1294, 1297 và 1301; hai lần Nam chinh đánh thắng quân Chiêm Thành vào năm 1312, buộc vua Chiêm là Chế Chí phải xin hàng và 1318 vua Chế Năng phải bỏ chạy sang Java[.
Ngày 1 tháng 11 năm 1320, Phạm Ngũ Lão mất, hưởng thọ 66 tuổi. Vua Trần Minh Tông nghỉ chầu 5 ngày, đây là một đặc ân của nhà vua đối với ông. Nhân dân xã Phù Ủng dựng đền thờ ngay trên nền nhà cũ của ông. Ông cũng được phối thờ tại đền Kiếp Bạc, Chí Linh, Hải Dương tại đền thờ Trần Hưng Đạo.
Nhà sử học lỗi lạc của nước nhà ở thế kỉ XV là Tiến Sĩ Ngô Sĩ Liên đã đánh giá rất cao về tài năng phi thường của ông:
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
Cắp ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,
Ba quân như gấu hổ, át cả sao Ngưu Đẩu.
Thân nam nhi nếu chưa trả xong nợ công danh,
Ắt thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu.
Ba quân hùng khí át sao Ngưu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.
Trong bài thơ nầy có câu thơ “Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu” dịch là “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu” để nói thêm về chí lớn, về hoài bảo, về khát vọng của Phạm Ngũ Lão, muốn làm được việc lớn như Vũ Hầu mà thôi. Vũ Hầu tức Gia Cát Lượng (Khổng Minh), người giúp Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán, có nhiều công lao, được phong tước Vũ Vương Hầu gọi tắt là Vũ Hầu và có khi gọi là Gia Cát Vũ Hầu.
Thẹn nghe lời nhắc rồng mây Vũ hầu
Hai câu thơ thứ 3 và thứ tư như sau:
Mà trăm trận đánh công đầu về ai
Thật ra sử sách tìm không thấy nói điều nầy. Sử sách nói rằng:
“Có thể hiểu, sự xuất thân của Phạm Ngũ Lão không qua khoa cử mà đi bằng con đường đặc biệt là lọt vào con mắt xanh của vị thánh tướng triều Trần, đã cho thấy cách chiêu mộ hiền tài phong phú của vương triều bấy giờ, là phát huy sức mạnh toàn dân. “Phạm Ngũ Lão được Hưng Đạo Đại Vương gả con gái cho. Điều này rất hiếm xảy ra trong vương triều Trần. Để làm được điều đó một cách thuận tình đạt lý, Trần Quốc Tuấn đã phải giáng con gái Anh Nguyên xuống làm con nuôi”
Sử gia Phan Huy Chú trong Lịch triều Hiến chương loại chí, phần ghi chép và bàn về các vị tướng tài giỏi đã tôn vinh 16 vị tướng từ thời Lý đến thời Lê sơ, riêng triều Trần có 4 người là Trần Quốc Tuấn, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư và Phạm Ngũ Lão, điều đó cho thấy ngay cả sử quan thời phong kiến luôn bảo vệ tôn thất nhiều khi thiên lệch đã khách quan nhìn nhận tài năng quân sự của ông, xếp ông vào hàng danh tướng bậc nhất, đã khẳng định vai trò vị trí của ông trong các võ công hiển hách của vương triều Trần. Đến đời vua Trần Anh Tông, ông được thăng tới chức Điện súy Thượng tướng quân, tước Quan nội hầu. Điều đó chứng tỏ Vua nhà Tràn ban thưởng phân minh.
Hai câu thơ kế tiếp như sau:
Giáo cầm ngang tiếng thở dài mấy thu
Như đã nói ở trên, không có dấu hiệu nào chứng tỏ nhà Trần khen thưởng bất công đối với Phạm Ngũ Lão. Căn cứ theo bài thơ “Thuật Hoài” của Phạm Ngũ lão ta cũng thấy nhà Trần đã cho ông cơ hội để thỏa chí bình sinh: “Múa giáo non sông trải mấy thâu / Ba quân hùng khí át sao Ngưu”.
Tâm sự của Vũ Hoàng Chương là gì? Đó là sự bất đắc chí trong đời. “Vũ Hoàng Chương lớn lên gặp lúc nước nhà trải qua nhiều đổi thay lớn lao. Thanh niên thế hệ ông dùng nhiều các danh từ như: cách mạng, cao trào, tự do, dân chủ, đấu tranh, tiến bộ v.v... Còn ông Vũ thì ông hay nói đến chuyện ... làm vua. Vâng, chính ông làm vua. Tên ông lót chữ Hoàng, ông thường tự xưng là Hoàng (‘Tố của Hoàng ơi’). Hoàng, chiết tự thành ra Bạch Vương. Người yêu của ông có kẻ tên Khanh, ông xưng hô như thể là vua với hoàng hậu, nghe thích lắm”.
Từ đó ta có thể phỏng đoán ý nghĩa của hai câu thơ trên, Vũ Hoàng Chương mượn Phạm Ngũ Lão để bày tỏ sự bất bình của mình, vì cuộc đời không đãi ngộ một nhân tài như ông để có thể đạt cao trên con đường danh vọng.
“Nhận xét như vậy có lẽ do câu thơ sau gây ‘ấn tượng sâu sắc’: ‘Giáo cầm ngang tiếng thở dài mấy thu’. Thực ra, Phạm Ngũ Lão là một chàng trai thôn dã, qua những chiến công hiển hách BẢO VỆ NON SÔNG, TỔ QUỐC trước sự xâm lăng của giặc Mông Nguyên (không phải chỉ riêng vì bảo vệ lăng miếu, xã tắc của triều Trần), ông nhận những ưu đãi của nhà Trần:
- Khác với những gia tướng của Trần Hưng Đạo như Nguyễn Địa Lô, Yết Kiêu, Dã Tượng…, sau chiến thắng Mông Nguyên vẫn là gia tướng của Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão trở thành tướng lĩnh của nhà Trần. Ông được Trần Hưng Đạo gả con gái (giả làm con gái nuôi của Trần Hưng Đạo vì nhà Trần có quy định chỉ gả con gái trong dòng tộc) là quận chúa Anh Nguyên. Điều này rất hiếm xảy ra trong vương triều Trần. Để làm được điều đó một cách thuận tình đạt lý, Trần Quốc Tuấn đã phải giáng con gái Anh Nguyên xuống làm con nuôi. Chỉ riêng điều đó đã thấy sự nhìn xa trông rộng, phát hiện và trọng dụng hiền tài của Hưng Đạo Vương.
- Năm 1290, vua Trần Nhân Tông giao cho ông cai quản quân Thánh Dực, phong chức Hữu Kim ngô Đại tướng quân. Năm Giáp Ngọ (1294) nhờ lập công khi đi đánh ở Ai Lao, ông được ban Kim Phù (tức binh phù làm bằng vàng). Năm Đinh Dậu (1297) cũng nhờ lập công khi đi đánh trận ở Ai Lao, ông được ban Vân Phù (tức binh phù có khắc chạm hình mây). Năm Tân Sửu (1301), ông được phong làm Thân Vệ Đại tướng Quân và được ban Quy Phù (tức binh phù có chạm hình con rùa). Đến đời vua Trần Anh Tông, ông được thăng tới chức Điện súy Thượng tướng quân, tước Quan nội hầu. Một người con gái của Phạm Ngũ Lão hiệu là Tĩnh Huệ là thứ phi của vua Anh Tông
“Nỗi U HOÀI cũng là HOÀI BÃO của Phạm Ngũ Lão được THUẬT lại thông qua NỖI THẸN trong bài thơ THUẬT HOÀI... Chữ ‘thẹn’ thể hiện vẻ đẹp nhân cách của người anh hùng, nỗi thẹn của những con người có trách nhiệm với đất nước, non sông. Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão cũng là những day dứt của chí làm trai, biểu hiện một hoài bão lớn của người thanh niên yêu nước. Quan niệm ‘nợ công danh’ đã trở thành lí tưởng sống của người anh hùng trong xã hội xưa. Thời đại Phạm Ngũ Lão, chế độ phong kiến Việt Nam đang trên đà xây dựng lợi ích của giai cấp phong kiến, ‘công danh’ là một khát vọng lập công, lập danh, hoàn thành nghĩa vụ đối với đất nước là ‘tiếng thở dài mấy thu” như cách nói của Vũ Hoàng Chương ‘Nam nhi vị liễu công danh trái Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu’. ”
Phạm Ngũ Lão đã cầm ngang ngọn giáo bảo vệ non sông mấy thu rồi mà vẫn còn thấy mình chưa trả xong nợ công danh là bởi vì cái chí ông quá lớn và cái tâm ông đẹp quá. ‘Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu’ Phạm Ngũ Lão cảm thấy thẹn khi nhắc đến Vũ Hầu Gia Cát Lượng, vì chưa có tài mưu lược lớn như Gia Cát Lượng để trừ giặc, cứu nước, khôi phục giang sơn cũng có nghĩa là thấy mình chưa xứng đáng là một đấng nam nhi thời loạn.
Đó cũng là biểu hiện khát vọng muốn góp sức mình vào sự nghiệp chung. Hoài bão lớn của Phạm Ngũ Lão thông qua nỗi thẹn không chỉ thể hiện qua món nợ mà còn ở việc ông không hề nói suông, ông có ước mơ lớn và đã cố gắng thực hiện hoài bão ấy. Cho nên, từ một chàng trai không tiếng tăm nơi thôn xóm, ông trở thành một tướng tài, ông trả xong nợ công danh với lịch sử, lịch sử đã gọi tên ông. Thế hệ sau nhớ mãi đến ông cùng với THUẬT HOÀI . ‘Công danh nam tử còn vương nợ./ Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu’
(La Thụy)
(Ngọn giáo non sông trải mấy thâu)
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu
(Công danh nếu để còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe truyện Vũ hầu.)
Hiểu như nhà thơ La Thụy thì câu thơ “Giáo cầm ngang tiếng thở dài mấy thu” là nhà thơ Vũ Hoàng Chương mô tả tâm trạng của Phạm Ngũ Lão buồn vì chưa đạt ước mơ lớn của mình chớ không phải buồn vì bị nhà Trần ban thưởng chưa đúng công lao.
Bước qua 4 câu thơ kế tiếp của “Đọc Lại Người Xưa (2)” như sau:
Tầm tay ai vượt sương mù trỏ lên
Thẳng băng ngọn giáo mũi thuyền
Nuốt sao Ngưu lệnh còn xuyên trăng tà
Vậy xin bước qua hai câu thơ cuối của “Đọc Lại Người Xưa (2)”:
Hơi văn nhọn mãi chính là đại công.
Tóm lại, hào khí Đông A không chỉ là nét chữ, lỗi chiết tự mà còn là tinh thần bất khuất, dũng cảm, quyết chiến quyết thắng của trên dưới quân-thần-dân nhà Trần. Với họ, đầu có thể rơi, máu có thể chảy nhưng quyết không thể làm người mất nước! Thậm chí có những người như Trần Quốc Tuấn, vì ích nước mà sẵn sàng gạt thù nhà.
Hai câu thơ “Chàng trai cười ngất Đông A/ Hơi văn nhọn mãi chính là đại công” Vũ Hoàng Chương đề cập đên hào khí Đông A không những chỉ thể hiện ở chiến công hiền hách thời nhà Trần mà còn thể hiện ở hơi văn như “Hịch Tướng Sĩ” của Trần Quốc Tuấn hay “Thuật Hoài” của Phạm Ngũ Lão. Bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đã phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Bài “Thuật Hoài” của Phạm Ngũ Lão nói lên nỗi khát khao của chí làm trai mong ước vụ cho đất nước.
Châu Thạch