Tranh của Hà Huỳnh Mỹ
Trong kho tàng văn chương bình dân quê mình, hò đối đáp là thể loại thú vị nhất. Đó là những câu hò có vần, có điệu ngẫu hứng để ứng đối nhanh, câu hò nào thú vị thì được truyền khẩu nhiều trong dân gian. Chủ đạo vẫn hai thể loại hò: Hò ân tình và hò đâm bắt. Nếu hò ân tình thường làm xao xuyến lòng người thì hò đâm bắt khiến người nghe cười nôn ruột hoặc là tức ứ hơi. Mẹ tôi kể ngày xưa ấy bà có người anh con ông bác ruột tài hoa, học giỏi. Mới 15 tuổi mà cậu đã nức tiếng trong xứ về hò đối đáp. Nếp phong kiến gia đình khiến đấng thân sinh của cậu ra sức cấm đoán, song sự nghiêm khắc ấy không ngăn được niềm đam mê, cậu thường lén theo trai làng hò đối đáp để rồi sau đó về nhà chịu những trận phạt nặng nề. Tiếc rằng cậu qua đời sớm, song một số câu hò thông minh, dí dỏm của cậu đã lưu truyền qua nhiều địa phương trong tỉnh và cho đến nay mẹ tôi vẫn còn nhớ được một ít. Vậy xin mời bà con mình hãy tạm quên đi cuộc sống hiện tại trong giây lát để cùng trở về với Quảng Trị ngày xưa nhé
Một buổi chiều đẹp
trời, chàng trai rời trường học,
thả bộ trên hương lộ
để về nhà. Những hạt nắng
cuối ngày xuyên qua con
kênh tạo thành những tia sáng tựa ánh hào quang lấp loáng đủ màu sắc trên dòng nước
mát, qua chiếc cầu nhỏ có rặng
tre già gió đưa kẽo kẹt bỗng
một cô gái xuất hiện. Cô ấy
cố ý đi trước mặt chàng trai một
quãng ngắn, ỏng a ỏng ẹo
làm dáng, chàng đi nhanh thì cô bước
nhanh, chàng đi chậm thì
cô chậm lại như muốn
chàng ngắm nhìn dáng dấp ẻo lả
của mình hay là cái kiểu trêu ngươi. Chàng thư sinh làm thinh cố bước nhanh về
nhà nhưng trong lòng bực lắm, mãi khi đến
đoạn rẽ vào xóm nhà mình chàng mới thoát nạn. Hôm sau lại cảnh cũ màn hai, hôm sau nữa lại
màn ba cảnh cũ. Sự bất quá tam khiến
chàng trai hết nhịn nổi bèn cất
tiếng hò… đổng:
- Hò ơi! Con gái có duyên nép mình
bên song cửa. Con gái vô
duyên bước sấp bước ngửa
giữa đàng. Chân son em bước hai hàng. Sàng qua sàng lại “cực chẳng
đả” cho con mắt chàng lắm thay.
Hình như chỉ chờ
có thế, cô gái liền trả treo:
- Nghe đồn nức tiếng
văn chương. Mà chừ tận mặt
mới tường trắng đen.
Biết
mình gặp phải tay chẳng vừa nên chàng trai nín thở lắng
nghe. Cô gái cũng làm thinh một
chút như lấy hơi rồi
cất cao giọng hò tiếp:
- Hơ hơ… Văn chi anh chưa
đầy lá mít. Võ nghệ chi anh chưa khít lang rơm. Mang tiếng đấng nam nhi chi anh lưng dài vai rộng
mà tài năng chẳng qua được thằng cu Bờm.
Thiệt là uổng công thầy mẹ chọn
cá nuôi cơm tháng ngày.
A hà! Hạ đo ván nhé. Đừng hòng! Chàng trai đưa tay khoát vạt áo đánh soạt một cái rồi
hắng giọng trả lời
liền:
- Nàng ơi! Bước qua đây nhè nhẹ,
ngồi xuống sè sẹ cho anh phân. Thiệt
là tội nghiệp cho em cái phận gái đành hanh. Nên chi chưa tỏ ngọn
ngành đó thôi.
Đến phiên cô gái dừng chân, nín thở chờ đợi.
Chàng trai cũng dừng chân
rồi cất giọng kiêu hãnh:
- Hò hơ…
Văn anh đây không thua gì Đức
Khổng Phu Tử. Võ nghệ nầy há kém Đại
Thánh Tề Thiên? Vì chưng lệnh nhà nước
chưa truyền. Nên anh đành ôm lòng chờ đợi ưu
phiền tam khoa.
Trời ! Cái ba hoa của chàng trai khiến cô gái kênh kiệu muốn té nhào. Phải
một hồi lâu cô mới ú ớ đáp lời
được:
- Hơ hơ… Nếu
ai kia đúng là tài nghệ
vô song, thì xin mời vẽ lại cái dung mạo
của gái má hồng có được chăng?
Chữ "chăng" vừa dứt, cô gái đã xoay người lại
đối diện chàng trai và nhoẻn miệng cười
duyên dáng. Trời! Cô ta đẹp quá! Chàng trai chỉ có thể la thầm
được như thế. Một
nét đẹp sắc sảo và có phần
ngỗ ngáo - như những câu hò và cái thói trêu ngươi của cô ta. Có lẽ
cô ấy không phải người xứ
nầy. Đàn bà con gái gì mà
quá quắt, muốn vẽ dung nhan thì ta vẽ
dung nhan. Đúng là chưa
thấy quan tài chưa đổ lệ.
Phải cho cô ả kênh kiệu này một bài học
mới được. Nghĩ thế nên sau phút choáng váng,
chàng trai nhanh chóng lấy
lại thăng bằng và dõng dạc bảo “Được
rồi! Nếu nàng không chê thì hãy nghe
đây”. Và chàng cất giọng sang sảng ngâm:
Con gái nhà ai đẹp quá ma
Hình dung yểu
điệu giống ông già
Chân đi nhè nhẹ
như voi bước
Cất tiếng thanh thanh giống phèng la
Tóc thả
dài dài như đuôi cuốc
Miệng
nói phiêu phiêu giống mỏ gà
Da trắng
như ngà tựa da con cóc
Cổ cao
ba ngấn là cổ ba ba
…
Cô gái không còn đủ
can đảm để nghe tiếp nên dùng hai tay bịt chặt tai và chạy
vội về nhà. Thế mà cái giọng ngâm quái ác kia vẫn đuổi theo:
Con gái nhà ai đẹp quá yêu
Hình dung tha thướt
giống ông tiều
Gót son dời
bước như trâu phóng
Miệng
hoa chúm chím quá mỏ diều
…
Chàng trai về
nhà trong chiến thắng, lòng mở hội.
Nhưng
ngày sau và những ngày
sau nữa trên quãng đường đó chẳng còn ai bước trước mặt
để trêu ghẹo, bỗng dưng
chàng thấy buồn, rồi đâm ra nhớ
cô gái đanh đá ấy. Qua
tìm hiểu, chàng biết nàng ấy không phải
người ở vùng này. Nhân dịp về đây thăm bà cô lấy
chồng khác xứ, mỗi chiều
thấy chàng ngang qua nhà
trông phong thái tuấn tú,
nàng bèn hỏi người nhà và biết đó là người nổi tiếng
văn chương vùng nầy. Vốn là cô gái vừa
xinh đẹp lại vừa thông minh, đáo để
và có phần kiêu hãnh. Tự tin về tài trí và nhan sắc
của mình, nàng nẩy ý ghẹo thử
chơi, không dè gặp phải đối
thủ vừa thông minh vừa bản lãnh lại
chẳng bị sắc đẹp
hớp hồn tí nào. Đã thua đau lại còn lãnh một bài thơ tặng chí mạng
nên nàng đã trở về đất Huế
ngay sáng hôm sau với lời thề sẽ
không trở lại vùng nầy lần thứ
hai nữa. Nghe chuyện, chàng trai lấy làm hối tiếc
nhưng lỡ dĩ rồi: Xuất
ngôn như phá thạch, chẳng thể
cứu vãn được. Nếu không có bài thơ
quái ác kia hẳn hai người đã phục tài nhau rồi bén duyên cũng không chừng.
Thưa bà con! Chàng trai ngày xưa ấy chính là Lê Thanh Thảo - cậu họ của tôi.. Khi kháng chiến bùng nổ, cậu gia nhập Vệ Quốc Đoàn, mạ tôi kể hồi đó cậu làm chức gì to lắm. Mỗi lần cậu ghé thăm nhà, mạ tôi thấy cậu đeo vũ khí hai bên hông, một bên là khẩu súng ngắn, một bên là cây kiếm dài ngoằng, oai lắm. Mấy năm sau, cậu bị Tây phục kích bắn chết trên đường đi công tác tại rú Qua Lồ thuộc làng Văn Vận khi vừa bước vào tuổi 30.
Đó là chuyện
kể về một trong những
người dân Quảng Trị đã để
lại những câu hò đối đáp thú vị. Câu hò buột khỏi miệng
của họ bay đi theo gió là trở thành của chung. Người ta chỉ nhớ câu hò mà chẳng
cần quan tâm đến tác giả là ai vì nó đã thuộc về đại
chúng. Trở lại chuyện dân ca, tôi xin chuyển đến
bà con một số câu hò thuở ấy.
Những câu hò quen thuộc mà ai cũng biết thường nói lên tình cảm của con cái đối với cha mẹ. Ơn nghĩa sinh thành luôn là bài học đầu tiên từ khi ta còn nằm trong nôi. Những lời ru của mẹ đã thấm vào con và theo con đi suốt cả cuộc đời. Bởi vậy dù đi đâu, về đâu, người Việt Nam nói chung - người Quảng Trị nói riêng - luôn nhớ đến cha mẹ của mình dù còn hay mất.
Khi đấng sinh thành còn sống thì:
- Mẹ già là mẹ già chung. Anh lo cơm cháo em cùng thuốc thang.
- Biết răng chừ con cá gáy hoá rồng. Đền công ơn
thầy mẹ ẵm bồng
ngày xưa.
Và khi cha mẹ
qua đời:
- Công cha ba năm
lai láng. Nghĩa mẹ chín
tháng cưu mang. Bên ướt mẹ nằm
bên ráo con lăn. Biết lấy chi đền nghĩa khó khăn. Đôi đứa mình lên non gánh đá về xây lăng phụng
thờ.
- Mẹ anh khác thể mẹ nàng. Lẽ
thời tạc đá bia vàng thờ chung.
Tình cha mẹ, tình chị em huyết thống, tình làng nghĩa xóm, tình quê hương đất nước... Tình nào cũng nặng, cũng đầy ăm ắp qua điệu hò câu hát. Tuy nhiên đề tài tình yêu nam nữ vẫn là chuyện muôn thuở, muôn đời của nhân loại. Tình yêu còn là động lực giúp người lao động bình dân vượt qua những gian nan, vất vả trong cuộc mưu sinh. Bởi thế bạn đừng ngạc nhiên khi một chàng trai mở lời ởm ờ với người con gái vừa ý mình:
- Bây giờ mận mới
hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
Nếu
“tình trong như đã” thì
cô gái sẽ thẹn thùng mở lối:
- Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng
chưa ai vào.
Đó là chàng trai duy nhất
may mắn trong số ngàn lẻ một
chàng đấy nhé. Vì nếu chàng không lọt vào tầm ngắm
của cô gái thì sẽ có ngàn lẻ một câu trả
lời chua ngoa khiến chàng tức anh ách mà chả làm gì được.
Và cũng có ngàn lẻ
một cách ướm lời. Chàng trai "mận, đào" vừa
nói chắc có chút học hành, còn anh chàng nông dân
nầy thì thiệt thà đến mức:
- Vói tay vít ngọn
tre còng
Hỏi o
gánh nước muốn chồng hay chưa?
Và cái o ni cũng chả
thèm thưa gởi gì mà trả lời tức
khắc:
- Nghe hỏi
mà dạ muốn bưa
Muốn
tài muốn đức chứ chưa
muốn chồng.
Thôi rồi.
Cái kiểu nầy thì chàng ta phải mau mau thả cái cọng tre còng mà dọt
lẹ.
Thế đó. Cũng là cách ướm lời nhưng có câu hỏi kết nên duyên giai ngẫu mà cũng có câu chẳng làm nên cái tích sự gì - chưa nói là để lại ác cảm cho người nghe. Tuy nhiên thuở đó người ta vẫn dùng những câu hò vè để gởi gắm lòng mình. Văn chương bình dân của người Quảng Trị cũng không thoát ra ngoài khuôn mẫu ấy. Hò ân tình hay hò đâm bắt đôi khi không rạch ròi lắm. Vì có thể đang hò ân tình mà gặp phải những câu có ý châm chích là đối tượng chuyển qua hò đâm bắt ngay. Nhưng cũng có khi đang hò đâm bắt mà chợt được "rót" vài tiếng êm tai là người nghe thích thú và câu trả lời chuyển qua hò ân tình lúc nào không hay. Như đoạn hò sau đây.
Chàng trai cất
tiếng gạ gẫm:
- Đường
đi cà trúc cà trắc. Ngó
ra biển bắc viễn vọng
mù khơi. Cho dù đây đó
hai nơi. Rứa mà cá nước chim trời gặp nhau.
Bên nam mở
đầu bằng phương pháp lung khởi:
mượn đường, mượn biển
để dẫn chuyện. Bên nữ
cũng không vừa, nói vòng
vo: mượn núi, mượn trâu, mượn ngựa để
gởi ý mình:
- Núi cheo leo trâu trèo trâu trợt, ngựa
trèo ngựa bỗ (ngã, té). Chuyện duyên tình tự cổ chí kim. Biết
răng chừ cho đá nổi lông chìm, muối chua chanh mặn để mình nên đôi?
Khó đấy.
Chẳng lẽ cô gái tự ví mình là núi cheo leo còn
ta là trâu là ngựa sao? Lại còn nói những điều không thể
xảy ra? Được! Kiêu thế thì ta bỡn cho nàng biết tay nhé. Ý nghĩ đó làm chàng
trai đỏ phừng mặt hò lớn:
- Hơ hơ…Sông càng ngày càng rộng, núi càng ngày càng cao. Bởi gái thuyền quyên dĩ lỡ … với trai anh hào. Chừ
sự tình đã ra như rứa thì tính sao cũng đặng mà.
Thiệt
tức chết đi được. Nhưng
bị gán cho thế thì buộc phải
lên tiếng đính chính
thôi. Thế là cô gái hò rằng:
- Ơi bạn mới ơi!
Bạn mới mau đứng xa ra cho ngái. Ơi
bạn cũ ơi! Bạn cũ cũng dừng
lại cho xa xa. Bởi em đây đang còn mang thân
nghèo khó nên mô dám mặn
mà với ai.
Cái cách biện
hộ của nàng coi bộ cũng hiền thục, không chua ngoa. Được nước,
chàng liền cất tiếng … rao:
- Ngó lên trời
tàu bay đang liệng. Ngó
xuống quan lộ xe điện chạy
liên miên. Ơi tình! Ơi nợ! Ơi
duyên! Răng con mắt nớ không liếc qua đây mà kết vấn thề
nguyền? Chứ mơ cao chi mà ni chờ
mai đợi để lỡ duyên bạn
cười.
Có thế
chứ! Cô gái thầm đắc ý rồi
thả một câu hò trí tuệ mà cũng không kém phần tự kiêu:
- Trèo lên cây chanh, hái chanh, ăn chanh, ngả áo bọc chanh.
Khuyên chàng chớ
thấy chanh chua mà chép
miệng, chớ thấy con gái lành mà chết mê.
Chà! Ghê nhỉ!
Nàng ra câu đối chăng?
Nào là cây chanh, hái chanh, ăn chanh còn bọc
chanh trong áo. Đúng là chua thật.
Chàng trai đang còn vò đầu
bứt tóc tìm lời đáp thì cô gái lại lên tiếng:
- Chanh chua, chua trái chua cành. Xin anh đừng nếm mà thành khỉ
con.
Lại
thêm 1-0. Không biết nàng
ta nói ăn chua sẽ nhăn mặt như khỉ
hay chửi ta là đồ khỉ đây nhỉ.
Chẳng lẽ xếp giáo quy hàng? Đến
nước nầy thì đành phải gỡ gạc
thôi:
- Chanh chua anh bẻ
nguyên cành. Trái đem vắt
nước, cây để dành… nấu cám heo.
Đàn ông mà cũng trả treo ác hè? Không gian lắng đi một chốc
rồi giọng hò thánh thót lại trỗi lên:
- Hơ hơ…Gặp anh đây hỏi
chuyện anh đây. Sông sâu
hay cạn? Đò đầy hay lưng?
Gió đã xoay chiều.
Chàng gật gù. Thôi được! Nàng chuyển qua câu đố thì ta giải đố vậy:
- Hơ ơ… Một chuyến
đò đầy năm bảy chuyến đò lưng.
Sông có khúc sâu khúc cạn
ai từng dò mới hay. Đò anh ghé bến còn lưng. Ai nhanh chân thì xuống trước
ai lừng khừng thì xuống sau.
Câu hò đã chuyển
hướng coi bộ không còn gay gắt, cô gái sẻ sàng:
- May ai thì ai qua chuyến
đò trước. Rủi em thì em ngược chuyến đò sau. Nếu
hữu duyên thì cũng như nhau. Xuôi buồm thuận gió kịp
mau tới chàng.
Giọng
hò mới dễ thương làm sao! Nghe thế chàng trai liền
bày tỏ lòng mình:
- Ra đi mẹ
có dặn lòng. Cam chua mua
lấy ngọt bòng chớ tham. Cho dù cách trở quan san. Nàng đà hữu ý thì gian nan anh cũng chẳng sờn.
Cô gái cũng ý tứ
nhắn nhủ:
- Nói lời
xin giữ lấy lời. Đừng
vì sóng cả mà rời thuyền em.
Được lời như cởi
tấm lòng. Họ đã phục tài nhau. Thế
là bắt đầu cho những lời thề
nguyền, tình tự:
- Thiếp
với chàng keo sơn gắn bó như
ló (lúa) với chồ, như chày vồ với cối,
như lợi với răng. Trên có thiên tri thập đạo dưới
có đất bằng chứng minh.
Thế nhưng chàng vẫn dặn dò:
- Thiếp
gặp chàng như cá vàng gặp chậu, chàng gặp
thiếp như hạc đậu
lưng quy. Một lời giao nhận
như ri: Có nơi mô giàu sang cũng chớ chuộng mà anh có khốn
khó lâm nguy cũng chớ phụ tình.
Và lo ngại:
- E mai nước chảy phăng phăng
Bạn
tham chốn khác ai ngăn được chừ
Và:
- Ước
chi ngăn đón được ai
Sông sâu lấp
lại, đường dài bớt đi.
Để
chàng yên tâm, cô gái buộc
phải nói rõ lòng mình:
- Sóng xao bờ bãi khôn cùng
Dạ đây
thương đó ngàn trùng người ơi!
Dù thế, nỗi lo âu của
chàng trai vẫn canh cánh:
- E mai nói rứa không chờ
Cao tay tiền
bạc lấp bờ ngăn đôi
E mai nói rứa
rồi thôi
Giấy
đi đàng giấy hồ trôi đàng hồ
Để trấn áp nỗi nghi ngờ
của cái anh chàng Tào
Tháo nầy, nàng phải tự xem mình như
là cá chậu chim lồng:
- Khuyên chàng chớ ngại đừng
nghi. Sóng xao bởi gió em
thì không xao. Mặc ai đua
hội thuyền rồng. Em đây cá chậu
chim lồng nỏ lo.
Vậy mà
chưa yên tâm, chàng trai
còn dặn dò:
- Thương
thì đó đợi đây chờ. Có nơi mô đến
ngõ trao thơ cũng đừng cầm.
Và cô gái phải
khẳng định:
- Việc
gì đón ngõ nhận thơ. Biết đâu trao lộn
cái tờ giấy không. Trao thơ chắc chắn
chi thơ. Hai ta tốt đợi bền
chờ thì hơn.
Một
khi đã tin vào nhau thì chàng trai liền
trở về nhà để tính chuyện
trăm năm:
- Hò hơ… Khen ai tốt đợi bền
chờ. Anh về làm cầu bắc
sông rộng nối liền bờ
đến nhà em.
Và họ
cùng một lòng một dạ:
- Tay bưng
dĩa muối chắm gừng. Gừng
cay muối mặn xin đừng bỏ
nhau.
Còn đây là nỗi
tương tư khi xa ngái:
- Tay cầm trái cau vừa rọc vừa
bửa. Tay cầm ngọn trầu
vừa rọc vừa têm. Tưởng
là lời thuận lẽ êm. Chàng xa thiếp
cách dạ đêm âu sầu.
Hay:
- Thiếp
trông chàng như than
trông lửa. Chàng trông
thiếp như đại hạn
trông mưa. Dù nơi tê chẳng thiếu
gì duyên ái nợ ưa. Răng bằng tình cũ nghĩa xưa mặn mà. Ơi
người tình cũ nghĩa xưa. Nhớ răng mà nhớ
những lời ăn tiếng nói thốt
thưa dịu dàng.
Tình họ
thiết tha là thế. Hy vọng phơi
phới là thế nhưng chuyện
đời không đơn giản như
thế. Duyên không thành
khiến chàng trai trách
móc:
- Dạ đây thương đó chưa
nguôi. Đó răng như nước chảy xuôi ngoài bờ.
Khen ai tốt
đợi bền chờ. Trở
ra hội nớ ai ngờ rã duyên.
Cô gái biện
bạch:
- Mình thương nhau mà mà mụ o nói mần ri, mụ dì nói mần
khác, ông chú nói trâu bạc,
ông bác lại bảo trâu đen. Chồn đèn bao lăm thịt, con nít bao lăm hơi. Em đây chưa bao lăm tuổi mà phải chịu
lắm cái sự đời đắng
cay.
Rồi
nàng khóc:
- Em thương mà thầy mẹ khiến
đừng. Hai hàng nước mắt rưng
rưng ngắn dài
Chàng trai an ủi
và khuyên lơn người thương::
- Khóc lóc làm chi nín đi ơi
bạn. Tai nghe thầy mẹ bên nhà đành đoạn
không thương. Hai ta đang
vấn đang vương. Dù có nơi mô trong hơn nước sáng hơn
gương cũng đừng.
Nhưng
người phụ nữ thời
ấy đâu dám vượt qua lễ giáo phong kiến:
- Thương
không thương cũng quyền đương thầy
mẹ. Tấm thân nầy chỉ là cải
bẹ, nhánh dâu. Xa nhau
đêm thảm ngày sầu. Khác chi Thuý Kiều xa Kim Trọng vì mấy câu hiếu
tình.
Hay:
- Thầy
mẹ thương thì con mới dám thương theo. Chiếc tàu đang chạy mà thả neo cũng phải
dừng.
Và khi cất
bước sang ngang, nàng cất giọng hò ai oán:
- Em ở trắng tinh in tờ
giấy bạch. Cơ chi ăn ở
lau lách thì duyên đã bén duyên. Chỉ
vì chữ hiếu trinh nên thiếp muộn chàng phiền.
Ngậm chanh thì chua xót
mà ngậm riềng thì đắng cay.
Lễ giáo phong kiến ngày xưa khiến người phụ nữ không chỉ đau khổ vì tình duyên dang dỡ mà còn khổ sở vì cảnh lấy chồng xa xứ, cảnh làm dâu và cả cảnh phải làm nàng Tô Thị.
Hãy nghe người
con gái lấy chồng xa xứ than thở
để thương cho thân phận của người
phụ nữ thời ấy.
Khi theo chồng,
lòng cô gái khắc khoải trong tâm dạ bất an:
- Ra đi bỏ mẹ ở
nhà. Gối nghiêng ai sửa, chén trà ai bưng.
- Vai mang khăn gói
qua đèo. Ngó lui thấy mẹ cheo leo một mình.
Và cái quay lại
sau đây mới quá ư tội nghiệp:
- Vai mang khăn gói
lên non. Mẹ kêu một tiếng ới
con. Con quay lại cúi đầu lạy mẹ
136 lạy. Sự bất đắc
là dĩ sự bất đắc đành giã. Thầy
mẹ đã bán gã thì người ta dẫn con đi hang rắn
hang rồng cũng phải theo.
Đúng thế!
Chữ “tam tòng” khiến cô gái khi về nhà chồng thì suốt
đời cột mình ở đó, đến
nổi chồng đi hang rắn hang rồng cũng phải theo. Nghĩa là dù biết nguy hiểm, dù biết chết cũng phải
nhắm mắt tuân phục nhà chồng. Nàng chỉ còn cách ngậm đắng nuốt
cay mà gởi nỗi lòng vào giọng hò ai oán:
- Người
ta lấy chồng ở làng như
vàng treo cửa ngõ. Em đi
lấy chồng xa xứ như
mõ không quai. Việc nhà
làm quá canh hai. Cơm thừa canh cặn ai hoài anh ơi.
- Anh đến
nhà em làm rể ăn cơm với cá. Em về
làm dâu thầy mạ ăn rau má với rạm đồng.
Thậm ư chí khổ mà đạo
ngãi vợ chồng phải theo.
Công việc
nặng nhọc. Ăn uống kham khổ.
Lại thêm nỗi nhớ cha mẹ:
- Em đi lấy
chồng xa xứ khác gì con thuyền đậu giữa
vời. Đêm năm canh không
thấy thầy nỏ thấy
mẹ chỉ thấy biển
trời mênh mông.
Nhớ.
Nhưng việc về thăm cha mẹ
không phải là chuyện dễ:
- Đường
đi không tới một ngày. Xin chồng về thăm mẹ
mà cứ hẹn rày hẹn mai. Không theo anh thì lỗi đạo tam tòng. Theo anh thì bất hiếu
thất trung với mẹ già.
Rồi
thân cò vò võ lo gia nương
khi chồng đi xa:
- Anh ra đi đường xa dặm thẳm. Em ở
nhà lo tròn đạo hiếu với thầy
mẹ như bát nước đầy
không chọng nỏ chao. Đêm nằm mộng kiến
chiêm bao. Xót xa trong dạ
như ai bào lá gan.
Một
mình người phụ nữ phải
lo toan mọi việc:
- Ru hời
ru hỡi là ru. Bên cạn thì chống bên su (sâu) thì chèo. Mình
em cả chống cả chèo. Không ai tát nước đỡ
nghèo một phen.
Sự cô
đơn và vất vả làm nàng ước
ao:
- Bác mẹ già phơ phơ
đầu bạc, con chàng còn trứng nước thơ
ngây. Phải chi chàng ở đâu đây. Thiếp xin mượn cánh chắp
bay theo chàng.
Nỗi
mong đợi ngậm ngùi ấy đôi khi làm người
phụ nữ chạnh lòng:
- Chàng ơi phụ thiếp
làm chi. Thiếp là cơm nguội để
khi đói lòng. Đói lòng ăn nửa
trái sim. Uống lưng bát nước đi tìm người thương. Vì thương
anh nên bờ bụi cũng lòn. Chớ không thương thì đường thẳng trăng tròn cũng mặc trăng.
Sự hy
sinh, chịu thương chịu khó ấy
đôi khi lại bị đáp trả bằng
sự phụ bạc khiến
người phụ nữ đau khổ
chỉ biết gởi tâm sự
mình vào câu hò ru con trong đêm vắng:
- Ru con cho théc cho muồi.
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu.
Mua vôi chợ Quán chợ Cầu. Mua cau Nam Phổ,
mua trầu chợ Dinh. Chợ Dinh bán áo con trai. Chợ Sơn bán nón, chợ
Tài bán kim. Kim găm bâu áo mất
rồi. Tiếc công thầy mẹ đứng
ngồi chọn kim.
Hoặc
có khi không thèm ví von mà nói thẳng
tuột, gay gắt:
- Anh nói với
em như rìu sa xuống đá, như rạ (rựa)
chém xuống đất, như mật
rót vào tai. Mà chừ anh
đã nghe ai. Tranh mòn rui mọt,
mèn phai hỡi mèn. (tranh,
rui, mèn: Những thứ dùng để làm nhà).
Có một ngàn lẻ một câu hò tình tự thì cũng có một ngàn lẻ một câu hò than thân trách phận. Bởi vậy có dùng ngàn lẻ một trang giấy cũng chưa chắc đã ghi lại hết những câu hò của một thời Quảng Trị xưa. Bài viết xin tạm ngừng ở đây và trước khi chào tạm biệt, người viết xin chuyển đến quý vị vài câu hò đâm bắt đầy ẩn ý vừa nghịch ngợm, dung tục mà cũng không kém thông minh của những người thời xưa mà chưa thật là xưa ấy.
Đó là chuyện kể về anh thợ mộc láu cá. Một bữa kia có một họ tộc nọ thuê thợ mộc sửa nhà thờ họ. Biết tay thợ mộc vừa giỏi nghề lại vừa biết hò đối đáp nên một cô nàng trong đám phụ nữ giúp việc lo cơm nước muốn thử tài đã cất tiếng hò:
- Hò hơ … Thiếp xa chàng bơ
ngơ báo ngáo. Chàng xa
thiếp may áo quên bâu.
Đêm năm canh ngày sáu khắc
trong dạ sầu chứa chan.
Câu hò ân tình nhớ
nhung khắc khoải là thế mà anh chàng thơ
mộc lại nghịch ngợm
trả treo:
- Chàng xa thiếp tội đếch
chi mà sầu. Cơm ăn ba đọi canh bầu một tréc to.
Cái giọng
ngạo mạn kia làm cô gái nổi điên, cô dựa vào công việc thợ mộc
của đối phương để…
chửi một cách tinh quái:
- Làm thợ chi anh chưa đắn đã đo. Xuyên xà chưa lắp
đã lo đậy cù.
Câu hò đanh đá và dung tục
ấy làm bọn thợ giật
mình ngừng cả công việc nhưng đối
tượng thì cứ tỉnh bơ,
vừa tiếp tục làm việc,
anh ta vừa cất tiếng hò trả
lời:
- Thấy ta có dạy cho ta. Nắng thì đậy nắng mà mù sa thì đậy
mù.
Đúng là mướp
đắng mạt cưa, đám thợ
phá lên cười còn cô gái
thì đỏ mặt chết trân. Nhưng
là tay đáo để nên cô nàng
vớt vát … chửi tiếp:
- Con gà mái nằm
ngay trong tổ. Nó kêu mấy tiếng tổ
tổ anh tề.
Tay thợ
mộc cũng không vừa, anh ta chỉ ra hàng tre trước ngõ:
- Chim chàng làng đậu hàng tre họ. Hắn kêu ba tiếng
họ họ nàng tê.
Đến nước nầy thì cô gái đành rút lui về méc các bậc trưởng thượng trong họ rằng hắn ta chưởi cả họ nhà mình. Các cụ tức lắm bèn tìm cách trả đũa. Nhân thể một bữa người thợ mộc ấy giặt áo quần phơi trước hàng tre, họ liền bắt lỗi rằng phơi quần trước nhà thờ họ là thất lễ, phạt vạ. Anh ta chịu phạt liền. Ngày chịu phạt, các bậc trưởng thượng trong họ ngồi chờ đánh chén. Khi hai vợ chồng lễ mễ xách rượu thịt đến, anh thợ mộc dặn bà vợ xách bình rượu nán lại ngoài gốc tre. Xôi thịt đã bày lên mà chưa có rượu, chờ mãi làm các cụ nóng ruột hỏi rượu đâu. Thế là anh ta giả vờ khúm núm: Dạ thưa! Xin họ chờ một chút ạ. Chắc tại nhà con mắc đi đấy (đi tiểu) đó thôi. Vừa thưa xong anh ta liền cất tiếng gọi lớn: Mạ cu ơi! Đấy mau lên để đem vào cho các cụ uống.
Chưa hết, ngày sửa nhà thờ xong, họ làm lễ tế. Hương đèn vừa lên, cụ tộc trưởng vừa thắp nhang quỳ xuống thì tay thợ mộc liền la lên: Thôi chết! Cây đòn đôông (dông) có chỗ chưa xuyên kỹ. Xin phép họ cho tôi lên đóng chốt lại chứ không thôi nó rớt xuống thì bể óc cả họ. Nghe thế ai mà không sợ, mọi người vội tránh ra để anh ta lên sửa. Chỉ đợi có thế, anh thợ mộc liền tuột quần, cột túm chéo hai vạt áo dài lại để che của quý rồi trèo lên chỗ đòn dông, tuy nhiên che làm sao kín? Cả họ ngơ ngác mất một hồi rồi các cụ đồng loạt hét lớn: Anh tê làm cái quái chi lạ rứa hử? Vẫn khúm múm che trước dấu sau trên trần nhà, anh ta lễ phép trả lời: Dạ thưa họ! Hôm trước tôi lỡ dại phơi nó trước hàng tre đối diện nhà thờ còn bị họ phạt vạ nên nay đâu dám đưa nó lên trên bàn thờ họ của các cụ.
Thật là ác. Đuối lý, cả họ đành chịu thua, tức ói máu mà chẳng làm gì anh thợ mộc được. Đòn trả đũa đó quả là ghê gớm.
Lại có chuyện kể có lần nhà kia tổ chức hò đối đáp giữa sân, ông chồng vô tư cứ hết hò tình hò tứ với cô nầy lại hò đối hò đáp với cô kia. Bà vợ ở trong nhà bận dỗ con đã lên máu hoạn thư, thế mà cao hứng ông chồng còn kêu vợ ra hò cho vui. Thế là bà vợ ở trong nhà hò vọng ra:
- Vui chi mà
hát mà hò. Con thơ hai
nách đứa bò đứa đeo.
Ha ha ha… thế
là trăng chưa tàn, bóng
chưa xế bà con đã lục tục kéo nhau về
nhà … ngủ.
Thôi nhé. Tôi chỉ nên ghi lại chừng đó thôi. Sân chơi chữ nghĩa còn mênh mông, xin mời mọi người tham gia tiếp cho vườn dân ca Quảng Trị của quê mình thêm phần phong phú.
Chiều
thứ bảy, đầu mùa hạ
năm 2010
Nguyễn
Thị Liên Hưng