Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Monday, May 4, 2020

KỈ NIỆM VỚI ĐẶNG XUÂN XUYẾN - Đoàn Mạnh Thế



                 Dịch giả Đoàn Mạnh Thế


KỈ NIỆM VỚI ĐẶNG XUÂN XUYẾN

(Trích từ: TÔI TRỞ THÀNH DỊCH GIẢ của Đoàn Mạnh Thế)

Giữa lúc chán nản nhất thì tôi nhận được điện thoại của nhà thơ Đoàn Mạnh Phương, anh báo tin: - “Sách đã về đến cửa hàng rồi. Anh đến Nhà sách Bảo Thắng, ở 276 phố Huế, gặp anh Đặng Xuân Xuyến để nhận sách biếu, rồi đến nhà xuất bản để nhận tiền nhuận bút.” Anh Phương còn dặn đi dặn lại: - “Anh đến nhận sách biếu, ký nhận rồi đến em nhận nhuận bút, không chuyện a chuyện b gì với Đặng Xuân Xuyến đấy.”. Tôi mừng quá, cám ơn Đoàn Mạnh Phương rồi vội đạp xe đạp đến gặp anh Đặng Xuân Xuyến.

Đó là vào giữa năm 1999, lần đầu tiên tôi gặp Đặng Xuân Xuyến tại Nhà sách Bảo Thắng ở 276 phố Huế, Hà Nội. Cảm giác ban đầu, đập ngay vào mắt tôi: Cửa hàng bày biện rất khang trang, rất nhiều sách, nhiều chủng loại... Và ông chủ Nhà sách là một chàng trai trẻ, điển trai, chỉ trạc tuổi con trai lớn của tôi, tiếp tôi rất niềm nở. Qua trò chuyện, tôi cảm nhận được sự trung thực, tử tế ở con người Đặng Xuân Xuyến.

Hơn một tiếng đồng hồ, ngồi đợi Đặng Xuân Xuyến tiếp khách: Nhà thơ Đoàn Thị Lam Luyến, nhà thơ Ý Lan, Đạo diễn Doãn Hoàng Giang, họa sỹ Trần Đại Thắng... tôi mới biết anh còn là tác giả của gần chục đầu sách nên tôi hy vọng anh có thể giúp đỡ tôi trong lĩnh vực xuất bản sách. Đối với tôi, đây là lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ và bỡ ngỡ. Tôi giở hết kinh nghiệm học được từ những bản dịch về tướng thuật mà tôi đã dịch cho khách, lặng lẽ ngồi “xem tướng” Đặng Xuân Xuyến. Và căn cứ vào những nét tướng của anh thì anh là người trọng tình trọng nghĩa, sống trung thực và tử tế. Tôi tin tôi đã tìm được người thực sự sẽ giúp đỡ mình. Quả nhiên, tôi dự đoán chính xác. Sau này, nhờ sự giúp đỡ của Đặng Xuân Xuyến, tôi đã ra khá nhiều đầu sách (27 đầu sách) và tiền nhuận bút trở thành nguồn sống khá sung túc của tôi ở đất Hà Thành.

Hôm đó, gặp nhà thơ Đoàn Thị Lam Luyến, tôi rất vui, nhất là khi biết chị cũng đang công tác ở nhà xuất bản Thanh Niên nên tôi mạnh dạn đến làm quen và nhờ chị giúp đỡ. Chị bảo tôi: - “Bên em chỉ cấp giấy phép, còn ra sách, phát hành sách... là bên đối tác nên bản thảo, anh chuyển đến nhờ cậu Xuyến ra sách là hợp lẽ nhất. Xuyến ít tuổi nhưng sống đàng hoàng với bạn bè lắm. Khi đã nhận lời giúp ai việc gì, cậu ấy sẽ tận tâm tận lực nên anh nhờ cậu ấy là đủ rồi.” Tôi thầm cám ơn cơ duyên trời đất đã cho tôi gặp Đặng Xuân Xuyến.

Ngồi nói chuyện với Đặng Xuân Xuyến, tôi càng cảm nhận được sự thẳng thắn ở con người anh. Không rào trước đón sau, Xuyến bảo: - “Cách đây ba tháng, anh Đoàn Mạnh Phương chuyển đến 4 bản thảo nhờ em ra sách nhưng em từ chối vì mảng đề tài này bên em ra nhiều rồi, e sách sẽ khó bán, nhưng anh Phương nói anh là người bà con của anh ấy nên em đành nhận lời. Nhuận bút em đã chuyển đủ 10 triệu theo đề nghị của anh Phương. Còn sách tác giả thì theo thỏa thuận, mỗi tác phẩm em gửi anh 10 cuốn nhưng đây là 4 tác phẩm đầu tay của anh nên em biếu thêm mỗi tác phẩm 15 cuốn để anh tặng bạn bè cho thoải mái. Nếu anh em mình có duyên cộng tác tiếp thì nhuận bút sẽ thỏa thuận cụ thể theo từng bản thảo”. Tôi cám ơn Đặng Xuân Xuyến rồi đạp xe đến nhà xuất bản Thanh Niên để nhận nhuận bút. Số tiền nhuận bút (10 triệu), tuy không lớn nhưng theo mệnh giá tiền lúc bấy giờ thì 10 triệu đó đủ cho tôi trang trải cuộc sống trong vòng 4 hoặc 5 tháng nên tôi rất phấn chấn.

Gặp nhà thơ Đoàn Mạnh Phương ở cổng nhà xuất bản, tôi mừng lắm, chưa kịp rủ anh đi ăn trưa để cám ơn thì nhà thơ đã nói: - “Giờ em có việc đột xuất nên không lên phòng làm việc với anh được. Anh ký xác nhận đã nhận đủ tiền nhuận bút vào tờ giấy biên nhận này. Khi khác rảnh, mời anh đến phòng em nói chuyện nhé”. Cầm 5 triệu Đoàn Mạnh Phương đưa, tôi thắc mắc: - “Anh thấy cậu Xuyến bảo đã chuyển cho Phương đủ 10 triệu nhuận bút rồi, sao Phương chỉ đưa anh có 5 triệu?”. Đoàn Mạnh Phương cười cười rồi vỗ vai tôi: - “Đúng là cậu ấy có đưa cho em 10 triệu nhưng tiền nhuận bút của anh chỉ có 5 triệu thôi. Còn 5 triệu, em chi cho biên tập viên đọc bài, sửa bài, nhiều khoản phải chi lắm...”. Cầm 5 triệu Đoàn Mạnh Phương đưa, tôi buồn vì niềm vui của mình bị giảm mất một nửa.

Mấy hôm sau, tôi mang tập bản thảo Thiên Nhiên Những Điều Kỳ Bí, số trang tương đương như các bản thảo trước, đến gặp Đặng Xuân Xuyến. Cầm bản thảo, anh cặm cụi đọc khoảng nửa tiếng rồi nhận lời sẽ ra sách giúp tôi. Anh hỏi tôi có cần ứng nhuận bút không? Hay đợi sách ra rồi nhận nhuận bút cả thể. Tôi thật thà hỏi: - “Cuốn này chú cũng lấy giấy phép xuất bản bên chỗ nhà thơ Đoàn Mạnh Phương à?”. Xuyến bảo: -“Vâng!”. Tôi mạnh dạn hỏi: - “Nhuận bút cuốn này anh được bao nhiêu?”. Xuyến cầm tập bản thảo, ngó số trang, bấm máy tính rồi trả lời: - “Cuốn này có thể em để giá bìa 30.000đ. Anh nhân 10% của 1.000 cuốn với giá bìa 30.000, là 3 triệu tiền nhuận bút. Ngoài tiền nhuận bút, anh nhận thêm 15 cuốn sách tác giả.”. Tôi vội hỏi: - “Mấy cuốn trước Xuyến trả nhuận bút cho anh bao nhiêu?”. Xuyến trả lời: - “Em đã chuyển đủ 10 triệu nhuận bút cho anh Đoàn Mạnh Phương khi nhận bản thảo. Anh chưa đến nhận nhuận bút chỗ anh Đoàn Mạnh Phương à?”. Tôi liền hỏi: - “Thế còn tiền chi cho biên tập viên đọc bài, sửa bài và các chi phí khác thì thế nào?”. Xuyến bảo: - “Đọc bài, sửa bài là công việc của biên tập viên, đã có nhà xuất bản trả lương. Còn chế bản, in ấn, nộp quản lý phí xuất bản, nộp lưu chiểu và phát hành là việc của bên em.”. Để chắc chắn, tôi hỏi lại Xuyến tiền nhuận bút 4 cuốn trước của tôi có đúng là 10 triệu không? Xuyến cười, bảo: - “Anh cứ đến gặp anh Đoàn Mạnh Phương. Anh ấy sẽ giao đủ cho anh 10 triệu.”. Cảm giác lúc bấy giờ của tôi thật hẫng hụt, chua xót. Tôi không ngờ Đoàn Mạnh Phương lại cư xử với tôi như thế. Tôi đã thật lòng kể gia cảnh của tôi và nhờ người anh em cùng họ giúp đỡ. Tôi cũng đã rất tin tưởng và cảm thấy mình thật may mắn khi gặp được người anh em cùng họ, sống tình cảm, chân thật và rất thương người như Đoàn Mạnh Phương đã nói, vậy mà sự thật lại bẽ bàng thế này... Thấy thái độ của tôi khác lạ, Xuyến ái ngại: - “Anh bị sao thế? Em thấy thần sắc anh lạ lắm, hình như là anh đang buồn phiền, bực tức một chuyện gì đó?”.
Tôi đành kể lại chuyện nhận nhuận bút chỗ nhà thơ Đoàn Mạnh Phương. Xuyến lặng người một lúc rồi hỏi: - “Em thấy anh Phương nói anh với anh ấy là anh em bà con mà?”. Tôi kể cho Xuyến nghe gia cảnh của tôi và mối quan hệ của tôi với Đoàn Mạnh Phương chỉ là người chung họ chứ không có họ hàng. Xuyến không nói gì. Một lúc sau, Xuyến bảo tôi: - “Theo em, chuyện của anh với anh Đoàn Mạnh Phương cũng không nên nhắc lại nữa. Bản thảo này và các bản thảo sau của anh, em sẽ đăng ký ở nhà xuất bản khác cho tiện.”. 

Khoảng tháng sau, tôi mang đống bản thảo đã dịch từ dưới Hải Phòng đến nhờ Xuyến ra sách. Nhìn đống bản thảo (15 cuốn), anh lắc đầu, nói mảng đề tài này bên anh ra sách đã nhiều nên giới thiệu tôi đến các nhà sách khác để chào bản thảo. Anh ghi rất cẩn thận địa chỉ, điện thoại từng nhà sách và mong tôi sẽ được những nhà sách đó cộng tác. Lần theo địa chỉ, tôi đến cô Mão ở Đinh Lễ, cô Miên ở Hàn Thuyên, anh Dũng ở Lý Thường Kiệt, anh Dương Tất Thắng ở Hàng Chuối, cô Chung ở Bà Triệu... ai xem bản thảo cũng khen hay nhưng đều lắc đầu vì không hợp với mảng sách nhà sách nên không giúp tôi được. Chán chường, tôi quay lại gặp Xuyến, nói thật sự việc để mong anh giúp ít nhiều. Có lẽ thấy bộ mặt tôi thiểu não quá nên Xuyến nhận lời giúp tôi 5 bản thảo. Anh khuyên tôi nên tóm tắt nội dung cuốn sách sẽ dịch đến chào các nhà sách, khi có khách hàng rồi thì hãy dịch để đỡ tốn công sức, vật chất. Tôi làm theo lời khuyên của anh, và đã dịch cho nhà xuất bản Giáo Dục được 5 bản thảo, dịch cho anh Dương Tất Thắng ở Hàng Chuối 6 bản thảo...

Sau nhiều năm làm việc với Đặng Xuân Xuyến, chúng tôi trở nên thân thiết như anh em. Tôi rất cám ơn Đặng Xuân Xuyến đã giúp tôi xuất bản nhiều (27) đầu sách: Có loại sách phổ biến kiến thức khoa học, sách tham khảo, sách chính trị, sách thâm cung bí sử... có loại sách về văn hóa tâm linh như phong thủy, tướng số... Càng làm việc với Xuyến, tôi càng khâm phục Xuyến. Anh thật sự là một người có vốn kiến thức sâu rộng. Có lần đọc bản thảo về phong thủy tôi soạn, anh góp ý: - “Chỉ vì hướng cửa phòng vệ sinh ở buồng ngủ không tốt cho cung Tử Tức mà anh tư vấn đập bỏ phòng vệ sinh là không ổn. Thứ nhất sẽ ảnh hưởng tới kết cấu ngôi nhà, thứ 2 sẽ gây lãng phí về vật chất, thứ ba sẽ bất tiện cho sinh hoạt hàng ngày. Trường hợp này, anh nên tư vấn treo một bức tranh phong cảnh, che kín phòng vệ sinh là được.”
Hay như khi đọc bản thảo về tướng thuật, anh góp ý: - “Theo năm tháng, con người sẽ thay đổi, già đi và khuôn mặt cũng khác đi nhiều nhưng ánh mắt, nụ cười, nhất là ánh mắt thì thay đổi rất ít, cực ít. Để nhận ra người lâu năm mới gặp lại thì phải căn cứ vào ánh mắt, nụ cười chứ không thể căn cứ vào khuôn mặt, giọng nói. Xem bàn tay cũng vậy. Dù có những điểm chung nhưng vẫn có sự khác biệt giữa tay con trai và tay con gái nên khi soạn, anh phải chỉ ra những khác biệt đó, cứ chung chung như thế này thì không được vì sẽ sai, sẽ không chính xác.”

Đáng tiếc, sau này công nghệ thông tin phát triển mạnh, điện thoại thông minh, Aipel, máy tính xách tay... ra đời. Văn hóa đọc bị lấn át, nhiều nhà sách, nhà xuất bản phải đóng cửa. Để bảo toàn đồng vốn, năm 2011, Xuyến quyết định sẽ giã từ nghề sách, từ đó, tôi mất đi nguồn thu “ngân sách” cho tuổi già.

Hà Nội, ngày 18 Tháng 11.2015
Dịch giả Đoàn Mạnh Thế
Địa chỉ: Số nhà 12 Ngách 32 Ngõ 133 phố Hồng Mai, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.

READ MORE - KỈ NIỆM VỚI ĐẶNG XUÂN XUYẾN - Đoàn Mạnh Thế

ĐỌC “ĐÊM TRĂNG LEO LÊN MÁI CHÙA” THƠ TRẦN THOẠI NGUYÊN - Châu Thạch


                         Nhà thơ Trần Thoại Nguyên


ĐÊM TRĂNG LEO LÊN MÁI CHÙA

Ngồi trong vườn nguyệt lộ
Hôn một màu trăng non
Nghe lòng mình cười rộ
Chạy băng đồi vô ngôn

Ồ. Hồn tràn mộng trắng
Tôi ôm trăng không màu
Tôi ngút xuống biển dạng
Tôi dại khờ mắt nâu

Ngắt một bông trắng lau
Hương thắm giọt máu đào
Đêm bừng lên nguyệt thẹn
Tôi nằm dài xanh xao

Chim về ngủ ôm trăng,
Ngô đồng rơi chánh điện.
Tôi ngồi giữa Phật đàng
Làm thơ như thánh hiện.

Máu ràn rụa tây hiên
Ồ. Máu băng ngực điên!
Tôi tĩnh mịch trang thơ
Hồn bay theo nhang khói

Chim chết giữa điện thờ
Tôi rớt xuống điện thờ.

Trần Thoại Nguyên
(Chùa Bảo Lộc, Thu 1970).


 


ĐỌC “ĐÊM TRĂNG LEO LÊN MÁI CHÙA” THƠ TRẦN THOẠI NGUYÊN
                                                                    Châu Thạch

     Trước khi đi vào bài thơ, xin vui lòng đọc những trích đoạn viết về nhà thơ Trần Thoại Nguyên và hoàn cảnh tác giả sáng tác bài thơ:
   
     “Năm 1970, khi còn ngồi ở giảng đường đại học Vạn Hạnh, Trần Thoại Nguyên đã có một bài thơ được chọn đăng trong tạp chí Tư Tưởng của đại học này. Đó là bài “Đêm trăng leo lên mái chùa”.

     Từ đó, Trần Thoại Nguyên tiếp tục treo mình trên những rung động đỉnh ngọn, như một kiếm tìm sự hiệp thông giữa thi ca và trời đất, dù không nhiều.

Với những bài thơ viết sau thời điểm này, dù dù ở hoàn cảnh hay tâm cảnh nào, họ Trần luôn cho thấy ông không ngừng đạp cánh giữa những hư huyễn thực tại và mộng ảo. Thơ treo ông trên những va động giữa ngã và vô ngã. Giữa kiếm tìm bản thể và sự thất lạc, tựa như đó là một định-mệnh-đôi của một thi sĩ. Một cõi riêng tây mà, đôi khi chính ông cũng thấy được dù chiếc bóng của hình tích mình.”

Trích (Trần Thoại Nguyên, định-mệnh-đôi của một thi sĩ - Du Tử Lê)

      “Đêm trăng leo lên mái chùa là định mệnh, là cột mốc giữa đời sinh viên lang bạt, bằng một sự kiện hi hữu, TTN trở thành thi sĩ.
Sau khi bị té từ mái chùa xuống đất, đầu rướm máu, TTN xuất hồn viết bài thơ trên giấy của bao thuốc Bastos xanh, bài thơ qua tay người ban đến với Thiền sư Tuệ Sĩ, được chọn đăng trên Tập san TƯ TƯỞNG của Viện Đại Học Vạn Hạnh – Cơ quan ngôn luận, dẫn đạo về tư tưởng, Triết lý, Giáo dục và Văn hóa rất uy tín của Phật Giáo Việt Nam.

     Hai mươi tuổi, chàng sinh viên Trần Thoại Nguyên có thơ đăng trên tạp chí TƯ TƯỞNG là một vinh dự lớn. Chỗ đứng của một bài thơ tự khắc xác định đảng cấp của một tác giả. Nhưng với người phê bình, không thể vì “Bứt dây động rừng” mà né tránh những nhận thức của mình với “Đêm trăng leo lên mái chùa”.

      Đọc bài thơ, như tác giả thổ lộ với Lý Thừa Nghiệp thì leo lên mái chùa là “định chơi ngông muốn thưởng trăng nơi cõi thượng giới ” thưởng trăng cõi thượng giới là cách nói từ vô thức. Thượng giới thuộc về trời cao, vô biên. Khoảng cách độ cao từ mái chùa đến mặt đất, đối với vô biên chỉ là con số không, nghĩa là thưởng trăng dưới đất và trên mái chùa như nhau. Do ý nghĩ sai lầm đó, TTN đem vào trong thơ những từ ngữ triết học và thiền tông, bài thơ trở nên khó hiểu, nó chỉ phù hợp với một số đọc giả tin vào giá trị và uy danh tạp chí Tư Tưởng của Đại học Vạn Hạnh. Bài thơ được đăng ở Tư Tưởng số 16, trang 27, năm 1970. Tên tuổi Trần Thoại Nguyên đứng chung với những tác giả lừng danh như Thích Minh Châu, Thích Nguyên Tánh, Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát, Kim Định, Trúc Thiên, Lê Tôn Nghiêm, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư... tự khắc, chỗ đứng của bài thơ mặc nhiên khẳng định TTN là một Thi Sĩ. Chàng Thi Sĩ hai mươi tuổi từ đó sa đà vào dòng thơ mang tính cách bác học, ý niệm Thiền và hơi hướng Phật giáo chi phối lổn ngổn trong nhiều bài thơ của TTN, nó hướng tâm hồn của thi nhân vào chỗ đứng cao ngất ngưỡng, cần có một số vốn liếng triết học và căn bản Phật học môn phái Thiền tông, mới hoà nhập vào hồn thơ và ý nghĩa của “Đêm trăng leo lên mái chùa”.                                         

Ngồi trong vườn nguyệt lộ                            
Hôn một màu trăng non.                           
Nghe lòng mình cười rộ                           
Chạy băng đồi vô ngôn.

     Nguyệt lộ là trăng sáng, sương rơi, là cảnh đẹp thiên nhiên. Vô ngôn trong Thiền tông diễn tả trạng thái tự chứng pháp, tức là thâm mật, là bản trụ của pháp tính. Một khổ thơ rất đẹp, trong vườn sương long lanh ánh trăng, chàng thanh niên ngồi hôn màu trăng non, lòng vui sướng tự chứng cho mình một pháp tính, các khổ thơ tiếp theo diễn đạt thêm.”

Trích “Thi sĩ Trần Thoại Nguyên, Đời thơ -  Phận người” Zulu DC)                                             

Bây giờ xin hãy đi vào khổ thơ đầu: 
                                                  
Ngồi trong vườn nguyệt lộ                         
Hôn một màu trăng non                          
Nghe lòng mình cười rộ                           
Chạy băng đồi vô ngôn

        “Ngồi trong vườn nguyệt lộ”: Theo định nghĩa của từ điển, nguyệt lộ là trăng và sương. Hát nói của Nguyễn Công Trứ có câu: “Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ, rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà”. Vậy “Ngồi trong vườn nguyệt lộ” là ngồi trong vườn đầy trăng và sương
      “Hồn một màu trăng non”: Tâm hồn đắm chìm trong trăng thượng tuần
       “Nghe lòng mình cười rộ”: Trong lòng cảm thấy hứng khởi bất ngờ, cười lên sảng khoái
       “Chạy băng đồi vô ngôn”: Chạy băng qua đồi “không lời” là chạy qua ngọn đồi bình tịnh, yên lặng, không tiếng động dưới trăng.
     Khổ thơ nầy cho ta nhận biết diễn biến trong tâm hồn khi tác giả thưởng ngoạn cảnh đẹp của đêm trăng vể khuya. Chỉ vể khuya thì mới có sương rơi.

     Như trên ta biết nhà thơ đang ngồi trên nóc chùa trong đêm trăng. Vây “Chạy băng đồi vô ngôn” không phải là thể xác của tác giả chạy, mà chính là linh hồn nhà thơ. Linh hồn nhà thơ đã “chứng pháp” theo như nhận định của ZuLu DC ở trên. Vậy có thể nói ở thời điểm nầy Trần Thoại Nguyên đã ở trạng thái kiến tánh, nghĩa là giác ngô được một điều gì đó, nghĩa là cái tâm đã thực chứng điều cao siêu mầu nhiệm, khiến linh hồn ông vui mừng bay bổng trong không gian, vào cõi vô ngôn. Điều nầy cũng giống như khi ta đọc một nhà thơ Thiên Chúa giáo đi vào cõi im lặng:               

Dáng ngọc lượn về trong giấc êm               
Nhẹ tựa hoa bay chốn nguyệt thiềm               
Đường vào im lặng mê ly quá                
Lót toàn tơ lụa cõi thần tiên               

Trăng sao lịm ngủ từ muôn năm               
Nhạc hội xuân nào cũng lặng câm               
Mà đây sáng quá! Đây sáng quá!               
Dào dạt cung êm vạn nguyệt cầm

          (Im Lặng – Xuân Ly Băng)

     Đọc thơ, ta thấy Trần Thoại Nguyên và Xuân Ly Băng cùng đi vào một cõi. Đó là cõi “hư không vắng lặng, vũ trụ muôn màu, trăng rằm đỉnh núi, hoa hồng nở rộ, đại dương bát ngát, nhạc trời du duơng, bình minh tỏ rạng, dị thảo kỳ hoa, là cái vui vĩ đại, là cái tịnh như nhiên, là tâm can êm ả, là trí tuệ sáng soi... ”.  Đó là “đồi vô ngôn”, con đường dẫn đến Thiên Đàng của Chúa và Niết Bàn của Phật.

      Bây giờ xin mời đọc tiếp khổ thơ thứ hai:

Ồ. Hồn tràn mộng trắng                             
Tôi ôm trăng không màu                             
Tôi ngút xuống biển dạng                             
Tôi dại khờ mắt nâu

     “Ô. Hồn tràn mộng trắng”: Màu trắng là màu tượng trưng cho sự tinh khiết, sự trong trắng và sự giản dị. Trong ánh sáng, màu trắng là màu của tất cả các màu kết hợp lại mà thành. Vậy “mộng trắng” trên đồi “vô ngôn” nghĩa là không mộng, nghĩa là thật mà như là mộng.  Linh hồn tác gỉa đã lọt vào nơi vô nhiểm, nên giấc mộng ở đây chỉ là sự tinh khôi  tuyệt đối của linh hồn. Màu trắng của Phật giáo còn tượng trưng cho “Tín Căn”, là niềm tin đúng chân lý, phát sinh ra những hạnh lành.

     “Tôi ôm trăng không màu”: “Trăng không màu” bây giờ, chính là trăng màu trắng nằm trong đôi mắt “Tràn mộng trắng” của thi nhân. Vậy nên ánh sáng của trăng cũng là thứ ánh sáng do đủ màu hợp nhất lại. Trong đời Phật, ta thấy ngài Đản sanh vào đêm trăng, xuất gia vào đêm trăng, thành đạo vào đêm trăng và nhập Niết Bàn cũng vào đêm trăng. Vậy ánh trăng trong đạo Phật mang ý nghĩa chân lý có giá trị thẩm mỹ, mang tính giải thoát, nhất là khi Phật chỉ trăng mà nói ý nghĩa rằng : theo ngón tay ta để thấy trăng, như theo lời dạy của ta mà thấy đạo.
Ôm trăng không màu tức là ôm được chân lý trong trẻo vô biên, vắng lặng tinh khôi của tánh “không” trong giáo lý Phật.

    “Tôi ngút xuống biến dạng”: Có thể là nhà thơ đã rơi từ mái chùa xuống đất lúc nầy.  Sự rơi của Trần Thoại Nguyên lúc nầy như lọt vào một thạch động lưu ly màu sắc. Nhà thơ thấy những sự huyền vi bằng con mắt dại khờ màu nâu của mình.

     “Tôi dại khờ mắt nâu”: Vậy mắt nâu có ý nghĩa gì trong câu thơ nầy? Mắt nâu có vẻ đẹp độc đáo và riêng biệt. Đó là màu mắt ngây thơ, dịu dàng và dễ tính. Trong dôi mắt nâu, thường ẩn chưa những điều kỳ bí. Đọng trong ánh mắt nâu thứ anh sáng của lý trí, được suy nghiệm nhưng lại dấu kín trong lòng. Hãy đọc vài câu thơ tình yêu về mắt nâu của nhà thơ Du Phong:                             

“Em đã giấu điều gì vậy, em ơi,                                
Sau đôi mắt nâu là những lời chưa nói?                                 
Đến bao giờ em trả lời câu hỏi,                                
Chúng mình là gì đó của đời nhau?                                     
Em giấu điều gì trong đôi mắt nâu?                                      

(Em Dấu Điều Gì Trong Mắt Nâu) 

     Đọc khổ thơ thứ hai của bài thơ, ta có thể hình dung linh hồn nhà thơ đang bay qua đồi “Vô Ngôn”, thân thể liền rơi xuống trần. Vậy nhưng khi rơi xuống trần, nhà thơ vẫn chưa tỉnh mộng, giấc thụy du vẫn còn kéo dài qua những khổ thơ như sau:                                                         

Ngắt một bông trắng lau                              
Hương thắm giọt máu đào                              
Đêm bừng lên nguyệt thẹn                              
Tôi nằm dài xanh xao

     Lúc nầy có lẽ là lúc nhà thơ đã đập đầu xuống đất. Nhà thơ đã ngất đi và linh hồn bước qua một cơn mơ khác. Có lẽ trong khi bất tỉnh, linh hồn nhà thơ vẫn chưa quay lại với thân thể, nên nhà thơ thấy máu của mình trong bông lau màu trắng, thấy thân thể mình nằm xanh xao, đó là giấc mơ pha trọn giữa mộng và thực.

     Hoa cỏ lau là loại hoa có những cánh hoa nhẹ nhàng và mềm mại đung đưa trong gió, tuy nhiên chúng lại là loại hoa có sức sống rất kiên cường và mãnh liệt khi đứng trước sóng to gió lớn. Vậy nên loại hoa này thường tượng trưng cho vẻ đẹp hoang sơ cùng với sức sống mãnh liệt, nó làm biểu tượng cho những kí ức được khắc sâu trong tâm trí của nhiều người.
     Tác giả thấy mình ngắt một bông hoa cỏ lau thắm giọt máu đào nhưng vẫn có hương thơm. Điều đó thể hiện ký ức bừng trong linh hồn tác giả ngay giờ phút bị va đập mạnh. Bông hoa lau thể hiện sự phất phới của kỷ niệm bay về trong bầu trời huyễn mộng mà tác giả đang lơ mơ nửa tỉnh nửa mê. Đêm bây giờ không còn là “nguyệt lộ” mà đã trở thành “nguyệt thẹn” vì cái thân thể “Tôi nằm dài xanh xao” của tác giả dưới trăng.

     Dẫu thân thể đã “Tôi nằm dài xanh xao” nhưng linh hồn nhà thơ qua một cuộc “chạy băng đồi vô ngôn” đã chứng ngộ được pháp tính, đã an trú trong niềm khoái lạc của đạo:                                

Chim về ngủ ôm trăng,                                
Ngô đồng rơi chánh điện.                                
Tôi ngồi giữa Phật đàn                                 
Làm thơ như thánh hiện.                                  

Máu ràn rụa tây hiên                                 
Ồ. Máu băng ngực điên!                                 
Tôi tĩnh mịch trang thơ                                 
Hồn bay theo nhang khói

       “Chim về ngủ trong trăng”: là sự an trú trong thanh tịnh của linh hồn tác giả.

    “Ngô đồng rơi chánh điện” : Ngô Đồng là một loại cây quý, chim Phượng Hoàng đến đậu, thân cây làm nhạc khí. Câu thơ tượng trưng cho một linh hồn tốt đẹp, quay về đúng nơi bệ thờ cao quý, như chiếc lá Ngô Đồng rơi vào nơi chánh điện.

       Đọc cả hai khô thơ trên, cho ta nhận biết sự thanh thoát trong linh hồn tác giả. Tuy “Máu ràng rụa tây hiên/ Ôi. Máu băng ngực điên!” nhưng người thơ vẫn tỉnh tọa “ngồi giữa Phật đàn” để “tĩnh mịch trang thơ”. cho hồn mình “bay theo nhang khói” là một sư thăng hoa nhẹ bổng, êm đềm.

     Cuối cùng nhà thơ ví mình như con chim chết giữa điện thờ:     
                             
Chim chết giữa điện thờ                                   
Tôi rớt xuống điện thờ.

      Chim là con vật yếu đuối, được chết giữa điện thờ là một vinh dự lớn lao. Trần Thoại Nguyên xem sự rớt của mình như con chim chết giữa điện thơ là một hạnh duyên tốt đẹp, như một cú đánh mạnh vào đầu cúa vị thiền sư trong lúc thiền sinh đang ngồi viễn mộng, hồn thụy du về một cõi xa xăm.

     Toàn bộ bài thơ “Đêm Trăng Leo Lên Mái Chùa” tác giả nói về trăng. Nhà thơ ngắm trăng, bay qua trăng, rơi trong trăng và ngộ ra điều huyền nhiệm cũng ở trong trăng. Trăng là những điều huyền diệu soi khắp bản thể của muôn vật trong trời đất. Mỗi con người trong linh hồn cũng có một vầng trăng nội tại, nói xa xôi là một vị Phật còn ẩn trong lòng. Bài thơ như nói về vầng trăng ngoại tại, vầng trăng thiên nhiên đã khai sáng, cho linh hồn thấy được vầng trăng nội tại. Khi nhà thơ rơi từ cao xuống, cú va đập làm cho tóe máu cũng chính là lúc hai vầng trăng hòa điệu cùng nhau, tánh Phật trong tâm lóe sáng, hiển hiện khi nhà thơ ví mình như con “Chim chết giữa điện thờ”.

       Như nhà thơ ZuLu DC đã viết ở trên: “TTN đem vào trong thơ những từ ngữ triết học và thiền tông, bài thơ trở nên khó hiểu, nó chỉ phù hợp với một số đọc giả tin vào giá trị và uy danh tạp chí Tư Tưởng của Đại học Vạn Hạnh”. “Nó hướng tâm hồn của thi nhân vào chỗ đứng cao ngất ngưỡng, cần có một số vốn liếng triết học và căn bản Phật học môn phái Thiền tông, mới hoà nhập vào hồn thơ và ý nghĩa của “Đêm trăng leo lên mái chùa”.

    Bởi vậy với trí óc nông cạn của mình, Châu Thạch tôi viết bài nầy vì yêu bài thơ và tác giả bài thơ, nên liều mạng múa rìu qua mắt vạn vạn thợ anh tài. Xin cúi đầu nhận những lời phê phán trách chê. Bài viết khi sao lục, chép lại của giả khác, đều dược đóngvào trong ngoặc kép.

                                                                        Châu Thạch

READ MORE - ĐỌC “ĐÊM TRĂNG LEO LÊN MÁI CHÙA” THƠ TRẦN THOẠI NGUYÊN - Châu Thạch