Nhà thơ Trần Thoại Nguyên
ĐÊM
TRĂNG LEO LÊN MÁI CHÙA
Ngồi trong vườn nguyệt lộ
Hôn một màu trăng non
Nghe lòng mình cười rộ
Chạy băng đồi vô ngôn
Ồ. Hồn tràn mộng trắng
Tôi ôm trăng không màu
Tôi ngút xuống biển dạng
Tôi dại khờ mắt nâu
Ngắt một bông trắng lau
Hương thắm giọt máu đào
Đêm bừng lên nguyệt thẹn
Tôi nằm dài xanh xao
Chim về ngủ ôm trăng,
Ngô đồng rơi chánh điện.
Tôi ngồi giữa Phật đàng
Làm thơ như thánh hiện.
Máu ràn rụa tây hiên
Ồ. Máu băng ngực điên!
Tôi tĩnh mịch trang thơ
Hồn bay theo nhang khói
Chim chết giữa điện thờ
Tôi rớt xuống điện thờ.
Trần Thoại Nguyên
(Chùa
Bảo Lộc, Thu 1970).
ĐỌC
“ĐÊM TRĂNG LEO LÊN MÁI CHÙA” THƠ TRẦN THOẠI NGUYÊN
Châu Thạch
Trước khi
đi vào bài thơ, xin vui lòng đọc những trích đoạn viết về nhà thơ Trần Thoại
Nguyên và hoàn cảnh tác giả sáng tác bài thơ:
“Năm 1970, khi còn ngồi ở giảng đường đại học
Vạn Hạnh, Trần Thoại Nguyên đã có một bài thơ được chọn đăng trong tạp chí Tư
Tưởng của đại học này. Đó là bài “Đêm trăng leo lên mái chùa”.
Từ đó, Trần Thoại Nguyên tiếp tục treo mình
trên những rung động đỉnh ngọn, như một kiếm tìm sự hiệp thông giữa thi ca và
trời đất, dù không nhiều.
Với
những bài thơ viết sau thời điểm này, dù dù ở hoàn cảnh hay tâm cảnh nào, họ Trần
luôn cho thấy ông không ngừng đạp cánh giữa những hư huyễn thực tại và mộng ảo.
Thơ treo ông trên những va động giữa ngã và vô ngã. Giữa kiếm tìm bản thể và sự
thất lạc, tựa như đó là một định-mệnh-đôi của một thi sĩ. Một cõi riêng tây mà,
đôi khi chính ông cũng thấy được dù chiếc bóng của hình tích mình.”
Trích (Trần Thoại Nguyên, định-mệnh-đôi của một thi sĩ
- Du Tử Lê)
“Đêm trăng leo lên mái chùa là định mệnh,
là cột mốc giữa đời sinh viên lang bạt, bằng một sự kiện hi hữu, TTN trở thành
thi sĩ.
Sau
khi bị té từ mái chùa xuống đất, đầu rướm máu, TTN xuất hồn viết bài thơ trên
giấy của bao thuốc Bastos xanh, bài thơ qua tay người ban đến với Thiền sư Tuệ
Sĩ, được chọn đăng trên Tập san TƯ TƯỞNG của Viện Đại Học Vạn Hạnh – Cơ quan
ngôn luận, dẫn đạo về tư tưởng, Triết lý, Giáo dục và Văn hóa rất uy tín của Phật
Giáo Việt Nam.
Hai mươi tuổi, chàng sinh viên Trần Thoại
Nguyên có thơ đăng trên tạp chí TƯ TƯỞNG là một vinh dự lớn. Chỗ đứng của một
bài thơ tự khắc xác định đảng cấp của một tác giả. Nhưng với người phê bình,
không thể vì “Bứt dây động rừng” mà né tránh những nhận thức của mình với “Đêm
trăng leo lên mái chùa”.
Đọc bài thơ, như tác giả thổ lộ với Lý Thừa
Nghiệp thì leo lên mái chùa là “định chơi ngông muốn thưởng trăng nơi cõi thượng
giới ” thưởng trăng cõi thượng giới là cách nói từ vô thức. Thượng giới thuộc về
trời cao, vô biên. Khoảng cách độ cao từ mái chùa đến mặt đất, đối với vô biên
chỉ là con số không, nghĩa là thưởng trăng dưới đất và trên mái chùa như nhau.
Do ý nghĩ sai lầm đó, TTN đem vào trong thơ những từ ngữ triết học và thiền
tông, bài thơ trở nên khó hiểu, nó chỉ phù hợp với một số đọc giả tin vào giá
trị và uy danh tạp chí Tư Tưởng của Đại học Vạn Hạnh. Bài thơ được đăng ở Tư Tưởng
số 16, trang 27, năm 1970. Tên tuổi Trần Thoại Nguyên đứng chung với những tác
giả lừng danh như Thích Minh Châu, Thích Nguyên Tánh, Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát, Kim
Định, Trúc Thiên, Lê Tôn Nghiêm, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư...
tự khắc, chỗ đứng của bài thơ mặc nhiên khẳng định TTN là một Thi Sĩ. Chàng Thi
Sĩ hai mươi tuổi từ đó sa đà vào dòng thơ mang tính cách bác học, ý niệm Thiền
và hơi hướng Phật giáo chi phối lổn ngổn trong nhiều bài thơ của TTN, nó hướng
tâm hồn của thi nhân vào chỗ đứng cao ngất ngưỡng, cần có một số vốn liếng triết
học và căn bản Phật học môn phái Thiền tông, mới hoà nhập vào hồn thơ và ý
nghĩa của “Đêm trăng leo lên mái chùa”.
Ngồi
trong vườn nguyệt lộ
Hôn
một màu trăng non.
Nghe
lòng mình cười rộ
Chạy
băng đồi vô ngôn.
Nguyệt lộ là trăng sáng, sương rơi, là cảnh
đẹp thiên nhiên. Vô ngôn trong Thiền tông diễn tả trạng thái tự chứng pháp, tức
là thâm mật, là bản trụ của pháp tính. Một khổ thơ rất đẹp, trong vườn sương
long lanh ánh trăng, chàng thanh niên ngồi hôn màu trăng non, lòng vui sướng tự
chứng cho mình một pháp tính, các khổ thơ tiếp theo diễn đạt thêm.”
Trích
“Thi sĩ Trần Thoại Nguyên, Đời thơ - Phận
người” Zulu DC)
Bây giờ xin hãy đi vào khổ thơ đầu:
Ngồi
trong vườn nguyệt lộ
Hôn
một màu trăng non
Nghe
lòng mình cười rộ
Chạy
băng đồi vô ngôn
“Ngồi trong vườn nguyệt lộ”: Theo định
nghĩa của từ điển, nguyệt lộ là trăng và sương. Hát nói của Nguyễn Công Trứ có
câu: “Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ,
rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà”. Vậy “Ngồi trong vườn nguyệt lộ” là ngồi trong vườn đầy trăng và sương
“Hồn một màu trăng non”: Tâm hồn đắm
chìm trong trăng thượng tuần
“Nghe lòng mình cười rộ”:
Trong lòng cảm thấy hứng khởi bất ngờ, cười lên sảng khoái
“Chạy băng đồi vô ngôn”: Chạy băng qua đồi
“không lời” là chạy qua ngọn đồi bình
tịnh, yên lặng, không tiếng động dưới trăng.
Khổ thơ nầy
cho ta nhận biết diễn biến trong tâm hồn khi tác giả thưởng ngoạn cảnh đẹp của
đêm trăng vể khuya. Chỉ vể khuya thì mới có sương rơi.
Như trên ta
biết nhà thơ đang ngồi trên nóc chùa trong đêm trăng. Vây “Chạy băng đồi vô ngôn” không phải là thể xác của tác giả chạy, mà
chính là linh hồn nhà thơ. Linh hồn nhà thơ đã “chứng pháp” theo như nhận định
của ZuLu DC ở trên. Vậy có thể nói ở thời điểm nầy Trần Thoại Nguyên đã ở trạng
thái kiến tánh, nghĩa là giác ngô được một điều gì đó, nghĩa là cái tâm đã thực
chứng điều cao siêu mầu nhiệm, khiến linh hồn ông vui mừng bay bổng trong không
gian, vào cõi vô ngôn. Điều nầy cũng giống như khi ta đọc một nhà thơ Thiên
Chúa giáo đi vào cõi im lặng:
Dáng
ngọc lượn về trong giấc êm
Nhẹ
tựa hoa bay chốn nguyệt thiềm
Đường
vào im lặng mê ly quá
Lót
toàn tơ lụa cõi thần tiên
Trăng
sao lịm ngủ từ muôn năm
Nhạc
hội xuân nào cũng lặng câm
Mà
đây sáng quá! Đây sáng quá!
Dào
dạt cung êm vạn nguyệt cầm
(Im Lặng – Xuân Ly Băng)
Đọc thơ, ta
thấy Trần Thoại Nguyên và Xuân Ly Băng cùng đi vào một cõi. Đó là cõi “hư không vắng lặng, vũ trụ muôn màu, trăng
rằm đỉnh núi, hoa hồng nở rộ, đại dương bát ngát, nhạc trời du duơng, bình minh
tỏ rạng, dị thảo kỳ hoa, là cái vui vĩ đại, là cái tịnh như nhiên, là tâm can
êm ả, là trí tuệ sáng soi... ”. Đó
là “đồi vô ngôn”, con đường dẫn đến
Thiên Đàng của Chúa và Niết Bàn của Phật.
Bây giờ
xin mời đọc tiếp khổ thơ thứ hai:
Ồ.
Hồn tràn mộng trắng
Tôi
ôm trăng không màu
Tôi
ngút xuống biển dạng
Tôi
dại khờ mắt nâu
“Ô. Hồn tràn mộng trắng”:
Màu trắng là màu tượng trưng cho sự tinh khiết, sự trong trắng và sự giản dị.
Trong ánh sáng, màu trắng là màu của tất cả các màu kết hợp lại mà thành. Vậy “mộng trắng” trên đồi “vô ngôn” nghĩa là không mộng, nghĩa là
thật mà như là mộng. Linh hồn tác gỉa đã
lọt vào nơi vô nhiểm, nên giấc mộng ở đây chỉ là sự tinh khôi tuyệt đối của linh hồn. Màu trắng của Phật
giáo còn tượng trưng cho “Tín Căn”,
là niềm tin đúng chân lý, phát sinh ra những hạnh lành.
“Tôi
ôm trăng không màu”: “Trăng không
màu” bây giờ, chính là trăng màu trắng nằm trong đôi mắt “Tràn mộng trắng” của thi nhân. Vậy nên
ánh sáng của trăng cũng là thứ ánh sáng do đủ màu hợp nhất lại. Trong đời Phật,
ta thấy ngài Đản sanh vào đêm trăng, xuất gia vào đêm trăng, thành đạo vào đêm
trăng và nhập Niết Bàn cũng vào đêm trăng. Vậy ánh trăng trong đạo Phật mang ý
nghĩa chân lý có giá trị thẩm mỹ, mang tính giải thoát, nhất là khi Phật chỉ
trăng mà nói ý nghĩa rằng : theo ngón tay
ta để thấy trăng, như theo lời dạy của ta mà thấy đạo.
Ôm trăng không màu tức là ôm được chân lý trong trẻo
vô biên, vắng lặng tinh khôi của tánh “không” trong giáo lý Phật.
“Tôi ngút xuống biến dạng”: Có thể là
nhà thơ đã rơi từ mái chùa xuống đất lúc nầy.
Sự rơi của Trần Thoại Nguyên lúc nầy như lọt vào một thạch động lưu ly
màu sắc. Nhà thơ thấy những sự huyền vi bằng con mắt dại khờ màu nâu của mình.
“Tôi dại khờ mắt nâu”: Vậy mắt nâu có ý
nghĩa gì trong câu thơ nầy? Mắt nâu có vẻ đẹp độc đáo và riêng biệt. Đó là màu
mắt ngây thơ, dịu dàng và dễ tính. Trong dôi mắt nâu, thường ẩn chưa những điều
kỳ bí. Đọng trong ánh mắt nâu thứ anh sáng của lý trí, được suy nghiệm nhưng lại
dấu kín trong lòng. Hãy đọc vài câu thơ tình yêu về mắt nâu của nhà thơ Du
Phong:
“Em
đã giấu điều gì vậy, em ơi,
Sau
đôi mắt nâu là những lời chưa nói?
Đến bao giờ em trả lời câu hỏi,
Chúng mình là gì đó của đời nhau?
Em giấu điều gì trong đôi mắt nâu?”
Đến bao giờ em trả lời câu hỏi,
Chúng mình là gì đó của đời nhau?
Em giấu điều gì trong đôi mắt nâu?”
(Em Dấu Điều Gì Trong Mắt
Nâu)
Đọc khổ thơ
thứ hai của bài thơ, ta có thể hình dung linh hồn nhà thơ đang bay qua đồi “Vô Ngôn”, thân thể liền rơi xuống trần.
Vậy nhưng khi rơi xuống trần, nhà thơ vẫn chưa tỉnh mộng, giấc thụy du vẫn còn
kéo dài qua những khổ thơ như sau:
Ngắt
một bông trắng lau
Hương
thắm giọt máu đào
Đêm
bừng lên nguyệt thẹn
Tôi
nằm dài xanh xao
Lúc nầy có
lẽ là lúc nhà thơ đã đập đầu xuống đất. Nhà thơ đã ngất đi và linh hồn bước qua
một cơn mơ khác. Có lẽ trong khi bất tỉnh, linh hồn nhà thơ vẫn chưa quay lại với
thân thể, nên nhà thơ thấy máu của mình trong bông lau màu trắng, thấy thân thể
mình nằm xanh xao, đó là giấc mơ pha trọn giữa mộng và thực.
Hoa cỏ lau
là loại hoa có những cánh hoa nhẹ nhàng và mềm mại đung đưa trong gió, tuy
nhiên chúng lại là loại hoa có sức sống rất kiên cường và mãnh liệt khi đứng
trước sóng to gió lớn. Vậy nên loại hoa này thường tượng trưng cho vẻ đẹp hoang
sơ cùng với sức sống mãnh liệt, nó làm biểu tượng cho những kí ức được khắc sâu
trong tâm trí của nhiều người.
Tác giả thấy
mình ngắt một bông hoa cỏ lau thắm giọt máu đào nhưng vẫn có hương thơm. Điều
đó thể hiện ký ức bừng trong linh hồn tác giả ngay giờ phút bị va đập mạnh. Bông
hoa lau thể hiện sự phất phới của kỷ niệm bay về trong bầu trời huyễn mộng mà
tác giả đang lơ mơ nửa tỉnh nửa mê. Đêm bây giờ không còn là “nguyệt lộ” mà đã trở thành “nguyệt thẹn” vì cái thân thể “Tôi nằm dài xanh xao” của tác giả dưới
trăng.
Dẫu thân thể
đã “Tôi nằm dài xanh xao” nhưng linh
hồn nhà thơ qua một cuộc “chạy băng đồi
vô ngôn” đã chứng ngộ được pháp tính, đã an trú trong niềm khoái lạc của đạo:
Chim
về ngủ ôm trăng,
Ngô
đồng rơi chánh điện.
Tôi
ngồi giữa Phật đàn
Làm
thơ như thánh hiện.
Máu
ràn rụa tây hiên
Ồ.
Máu băng ngực điên!
Tôi
tĩnh mịch trang thơ
Hồn
bay theo nhang khói
“Chim về ngủ trong trăng”:
là sự an trú trong thanh tịnh của linh hồn tác giả.
“Ngô đồng rơi chánh điện” :
Ngô Đồng là một loại cây quý, chim Phượng Hoàng đến đậu, thân cây làm nhạc khí.
Câu thơ tượng trưng cho một linh hồn tốt đẹp, quay về đúng nơi bệ thờ cao quý,
như chiếc lá Ngô Đồng rơi vào nơi chánh điện.
Đọc cả
hai khô thơ trên, cho ta nhận biết sự thanh thoát trong linh hồn tác giả. Tuy “Máu ràng rụa tây hiên/ Ôi. Máu băng ngực điên!”
nhưng người thơ vẫn tỉnh tọa “ngồi giữa
Phật đàn” để “tĩnh mịch trang thơ”.
cho hồn mình “bay theo nhang khói” là
một sư thăng hoa nhẹ bổng, êm đềm.
Cuối cùng
nhà thơ ví mình như con chim chết giữa điện thờ:
Chim
chết giữa điện thờ
Tôi
rớt xuống điện thờ.
Chim là
con vật yếu đuối, được chết giữa điện thờ là một vinh dự lớn lao. Trần Thoại
Nguyên xem sự rớt của mình như con chim chết giữa điện thơ là một hạnh duyên tốt
đẹp, như một cú đánh mạnh vào đầu cúa vị thiền sư trong lúc thiền sinh đang ngồi
viễn mộng, hồn thụy du về một cõi xa xăm.
Toàn bộ bài
thơ “Đêm Trăng Leo Lên Mái Chùa” tác
giả nói về trăng. Nhà thơ ngắm trăng, bay qua trăng, rơi trong trăng và ngộ ra
điều huyền nhiệm cũng ở trong trăng. Trăng là những điều huyền diệu soi khắp bản
thể của muôn vật trong trời đất. Mỗi con người trong linh hồn cũng có một vầng
trăng nội tại, nói xa xôi là một vị Phật còn ẩn trong lòng. Bài thơ như nói về
vầng trăng ngoại tại, vầng trăng thiên nhiên đã khai sáng, cho linh hồn thấy được
vầng trăng nội tại. Khi nhà thơ rơi từ cao xuống, cú va đập làm cho tóe máu
cũng chính là lúc hai vầng trăng hòa điệu cùng nhau, tánh Phật trong tâm lóe
sáng, hiển hiện khi nhà thơ ví mình như con “Chim
chết giữa điện thờ”.
Như nhà
thơ ZuLu DC đã viết ở trên: “TTN đem vào
trong thơ những từ ngữ triết học và thiền tông, bài thơ trở nên khó hiểu, nó chỉ
phù hợp với một số đọc giả tin vào giá trị và uy danh tạp chí Tư Tưởng của Đại
học Vạn Hạnh”. “Nó hướng tâm hồn của thi nhân vào chỗ đứng cao ngất ngưỡng, cần
có một số vốn liếng triết học và căn bản Phật học môn phái Thiền tông, mới hoà
nhập vào hồn thơ và ý nghĩa của “Đêm trăng leo lên mái chùa”.
Bởi vậy với
trí óc nông cạn của mình, Châu Thạch tôi viết bài nầy vì yêu bài thơ và tác giả
bài thơ, nên liều mạng múa rìu qua mắt vạn vạn thợ anh tài. Xin cúi đầu nhận những
lời phê phán trách chê. Bài viết khi sao lục, chép lại của giả khác, đều dược
đóngvào trong ngoặc kép.
Châu Thạch
No comments:
Post a Comment