I - THƠ ĐỌC NHIỀU CÁCH
1. Đọc theo 2 cách:
1. Đọc theo 2 cách:
ĐỀ TRANH MỸ NỮ
(Thuận nghịch độc)
Đọc ngược (theo âm Hán Việt):
Thanh xuân toả liễu lãnh tiêu phòng
Cẩm trục đình châm ngại điểm trang.
Thanh rạng độ liên phi phất lục,
Đạm hi tan cúc thát sơ hoàng.
Tình si dị tố liêm biên nguyệt,
Mộng xúc tằng liêu trướng đỉnh sương.
Tranh khúc cưỡng khiêu sầu mỗi bận,
Oanh ca nhật vĩnh các tiên hương
PHẠM THÁI
2. Đọc theo 6 cách:
CỬA SỔ ĐÊM KHUYA
Hoa cười nguyệt rọi cửa lồng gương
Lạ cảnh thêm buồn nợ vấn vương
Tha thiết liễu in hồ gợn bóng
Hững hờ mai thoáng gió đưa hương
Xa người nhớ cảnh tình lai láng
Vắng bạn ngâm thơ rượu bẽ bàng
Qua lại yến ngàn dâu ủ lá
Hòa đàn sẵn có dế bên tường
HÀN MẶC TỬ
Cách đọc 1: Đọc xuôi
Đọc xuôi:
Hương tiên gác vắng nhặt ca oanh
Bận mối sầu khêu gượng khúc tranh
Sương đỉnh trướng gieo từng dục mộng,
Nguyệt bên rèm tỏ dễ si tình.
Vàng thưa thớt cúc tan hơi dạm,
Lục phất phơ sen đọ rạng thanh
Trang điểm ngại chăm dừng trục gấm
Phòng tiêu lạnh lẽo khoá xuân xanh.
Hương tiên gác vắng nhặt ca oanh
Bận mối sầu khêu gượng khúc tranh
Sương đỉnh trướng gieo từng dục mộng,
Nguyệt bên rèm tỏ dễ si tình.
Vàng thưa thớt cúc tan hơi dạm,
Lục phất phơ sen đọ rạng thanh
Trang điểm ngại chăm dừng trục gấm
Phòng tiêu lạnh lẽo khoá xuân xanh.
Đọc ngược (theo âm Hán Việt):
Thanh xuân toả liễu lãnh tiêu phòng
Cẩm trục đình châm ngại điểm trang.
Thanh rạng độ liên phi phất lục,
Đạm hi tan cúc thát sơ hoàng.
Tình si dị tố liêm biên nguyệt,
Mộng xúc tằng liêu trướng đỉnh sương.
Tranh khúc cưỡng khiêu sầu mỗi bận,
Oanh ca nhật vĩnh các tiên hương
PHẠM THÁI
2. Đọc theo 6 cách:
CỬA SỔ ĐÊM KHUYA
Hoa cười nguyệt rọi cửa lồng gương
Lạ cảnh thêm buồn nợ vấn vương
Tha thiết liễu in hồ gợn bóng
Hững hờ mai thoáng gió đưa hương
Xa người nhớ cảnh tình lai láng
Vắng bạn ngâm thơ rượu bẽ bàng
Qua lại yến ngàn dâu ủ lá
Hòa đàn sẵn có dế bên tường
HÀN MẶC TỬ
Cách đọc 1: Đọc xuôi
Cách đọc 2 : Đọc ngược
Cách đọc 3 : Bỏ 2 chữ đầu ở mỗi câu đọc xuôi
Cách đọc 4: Bỏ 2 chữ sau ở mỗi câu đọc xuôi
Cách đọc 4: Bỏ 2 chữ sau ở mỗi câu đọc xuôi
Cách đọc 5 : Bỏ 2 chữ đầu ở mỗi câu đọc ngược
Cách đọc 6 : Bỏ 2 chữ sau ở mỗi câu đọc ngược
3. Đọc theo 8 cách:
CẢNH XUÂN
Ta mến cảnh xuân ánh sáng ngời
Thú vui thơ rượu chén đầy vơi
Hoa cài dậu trúc cành xanh biếc
Lá quyện hương xuân sắc thắm tươi
Qua lại khách chờ sông lặng sóng
Ngược xuôi thuyền đợi bến đông người
Xa ngân tiếng hát , đàn trầm bổng
Tha thướt bóng ai mắt mỉm cười
KHUYẾT DANH
Cách đọc 1: Đọc xuôi
Cách đọc 2: Đọc ngược
Cách đọc 3: Bỏ 2 chữ đầu ở mỗi câu, đọc xuôi
Cách đọc 4: Bỏ 2 chữ cuối ở mỗi câu, đọc ngược
Cách đọc 5: Bỏ 3 chữ đầu ở mỗi câu, đọc xuôi
Cách đọc 6: Bỏ 3 chữ cuối ở mỗi câu, đọc ngược
Cách đọc 7: Bỏ 4 chữ đầu ở mỗi câu, đọc xuôi
Cách đọc 8: Bỏ 4 chữ cuối ở mỗi câu, đọc ngược
3. Đọc theo 8 cách:
CẢNH XUÂN
Ta mến cảnh xuân ánh sáng ngời
Thú vui thơ rượu chén đầy vơi
Hoa cài dậu trúc cành xanh biếc
Lá quyện hương xuân sắc thắm tươi
Qua lại khách chờ sông lặng sóng
Ngược xuôi thuyền đợi bến đông người
Xa ngân tiếng hát , đàn trầm bổng
Tha thướt bóng ai mắt mỉm cười
KHUYẾT DANH
Cách đọc 1: Đọc xuôi
Cách đọc 2: Đọc ngược
Cách đọc 3: Bỏ 2 chữ đầu ở mỗi câu, đọc xuôi
Cách đọc 4: Bỏ 2 chữ cuối ở mỗi câu, đọc ngược
Cách đọc 5: Bỏ 3 chữ đầu ở mỗi câu, đọc xuôi
Cách đọc 6: Bỏ 3 chữ cuối ở mỗi câu, đọc ngược
Cách đọc 7: Bỏ 4 chữ đầu ở mỗi câu, đọc xuôi
Cách đọc 8: Bỏ 4 chữ cuối ở mỗi câu, đọc ngược
4. Đọc theo 10 cách :
Đó là bài thơ LỆ CÁT ĐẰNG của Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân
1.- Đọc xuôi:
Trăng buồn khóc liễu rũ tàn thu,
Giá lạnh trời sương gió mịt mù.
Cằn cỗi sắc hương mùi nhạt tẻ,
Võ vàng son phấn nét mờ lu.
Băng thanh lỡ phận vùi hoa gấm,
Ngọc khiết thương đời thẹn tóc tơ.
Đằng cát lệ rơi tình rẽ lối.
Giăng sầu chuốc hận tủi hờn thơ
2.- Đọc ngược:
Thơ hờn tủi hận chuốc sầu giăng,
Lối rẽ tình rơi lệ cát đằng.
Tơ tóc thẹn đời thương khiết ngọc,
Gấm hoa vùi phận lỡ thanh băng.
Lu mờ nét phấn son vàng võ,
Tẻ nhạt mùi hương sắc cỗi cằn.
Mù mịt gió sương trời lạnh giá,
Thu tàn rũ liễu khóc buồn trăng.
3.- Bỏ 2 chữ đầu mỗi câu bài xuôi:
Khóc liễu rũ tàn thu,
Trời sương gió mịt mù.
Sắc hương mùi nhạt tẻ,
Son phấn nét mờ lu.
Lỡ phận vùi hoa gấm,
Thương đời thẹn tóc tơ.
Lệ rơi tình rẽ lối,
Chuốc hận tủi hờn thơ.
4.- Bỏ 2 chữ đầu mỗi câu bài ngược:
Tủi hận chuốc sầu giăng,
Tình rơi lệ cát đằng.
Thẹn đời thương khiết ngọc,
Vùi phận lỡ thanh băng.
Nét phấn son vàng võ,
Mùi hương sắc cỗi cằn.
Gió sương trời lạnh giá,
Rũ liễu khóc buồn trăng.
5.- Bỏ 3 chữ đầu mỗi câu bài xuôi:
Liễu rũ tàn thu,
Sương gió mịt mù.
Hương mùi nhạt tẻ,
Phấn nét mờ lu.
Phận vùi hoa gấm,
Đời thẹn tóc tơ.
Rơi tình rẽ lối,
Hận tủi hờn thơ.
6.- Bỏ 3 chữ đầu mỗi câu bài ngược:
Hận chuốc sầu giăng,
Rơi lệ cát đằng.
Đời thương khiết ngọc,
Phận lỡ thanh băng.
Phấn son vàng võ,
Hương sắc cỗi cằn.
Sương trời lạnh giá,
Liễu khóc buồn trăng.
7.- Bỏ 3 chữ cuối mỗi câu bài xuôi:
Trăng buồn khóc liễu,
Giá lạnh trời sương.
Cằn cỗi sắc hương,
Võ vàng son phấn.
Băng thanh lỡ phận,
Ngọc khiết thương đời.
Đằng cát lệ rơi,
Giăng sầu chuốc hận.
8.- Bỏ 3 chữ cuối mỗi câu bài ngược:
Thơ hờn tủi hận,
Lối rẽ tình rơi.
Tơ tóc thẹn đời,
Gấm hoa vùi phận.
Lu mờ nét phấn,
Tẻ nhạt mùi hương.
Mù mịt gió sương,
Thu tàn rũ liễu.
9.- Đọc như thơ tự do bài xuôi:
Trăng buồn…
Khóc liễu…
Rũ tàn thu…
Giá lạnh…
Trời sương…
Gió mịt mù…
Cằn cỗi…
Sắc hương…
Mùi nhạt tẻ…
Võ vàng…
Son phấn…
Nét mờ lu…
Băng thanh…
Lỡ phận…
Vùi hoa gấm…
Ngọc khiết…
Thương đời…
Thẹn tóc tơ…
Đằng cát…
Lệ rơi…
Tình rẽ lối…
Giăng sầu…
Chuốc hận…
Tủi hờn thơ…
10.- Đọc như thơ tự do bài ngược:
Thơ hờn…
Tủi hận..
Chuốc sầu giăng…
Lối rẽ…
Tình rơi…
Lệ cát đằng…
Tơ tóc…
Thẹn đời…
Thương khiết ngọc…
Gấm hoa…
Vùi phận…
Lỡ thanh băng…
Lu mờ…
Nét phấn…
Son vàng võ…
Tẻ nhạt…
Mùi hương…
Sắc cỗi cằn…
Mù mịt..
Gió sương…
Trời lạnh giá…
Thu tàn…
Rũ liễu…
Khóc buồn trăng…
Đó là bài thơ LỆ CÁT ĐẰNG của Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân
1.- Đọc xuôi:
Trăng buồn khóc liễu rũ tàn thu,
Giá lạnh trời sương gió mịt mù.
Cằn cỗi sắc hương mùi nhạt tẻ,
Võ vàng son phấn nét mờ lu.
Băng thanh lỡ phận vùi hoa gấm,
Ngọc khiết thương đời thẹn tóc tơ.
Đằng cát lệ rơi tình rẽ lối.
Giăng sầu chuốc hận tủi hờn thơ
2.- Đọc ngược:
Thơ hờn tủi hận chuốc sầu giăng,
Lối rẽ tình rơi lệ cát đằng.
Tơ tóc thẹn đời thương khiết ngọc,
Gấm hoa vùi phận lỡ thanh băng.
Lu mờ nét phấn son vàng võ,
Tẻ nhạt mùi hương sắc cỗi cằn.
Mù mịt gió sương trời lạnh giá,
Thu tàn rũ liễu khóc buồn trăng.
3.- Bỏ 2 chữ đầu mỗi câu bài xuôi:
Khóc liễu rũ tàn thu,
Trời sương gió mịt mù.
Sắc hương mùi nhạt tẻ,
Son phấn nét mờ lu.
Lỡ phận vùi hoa gấm,
Thương đời thẹn tóc tơ.
Lệ rơi tình rẽ lối,
Chuốc hận tủi hờn thơ.
4.- Bỏ 2 chữ đầu mỗi câu bài ngược:
Tủi hận chuốc sầu giăng,
Tình rơi lệ cát đằng.
Thẹn đời thương khiết ngọc,
Vùi phận lỡ thanh băng.
Nét phấn son vàng võ,
Mùi hương sắc cỗi cằn.
Gió sương trời lạnh giá,
Rũ liễu khóc buồn trăng.
5.- Bỏ 3 chữ đầu mỗi câu bài xuôi:
Liễu rũ tàn thu,
Sương gió mịt mù.
Hương mùi nhạt tẻ,
Phấn nét mờ lu.
Phận vùi hoa gấm,
Đời thẹn tóc tơ.
Rơi tình rẽ lối,
Hận tủi hờn thơ.
6.- Bỏ 3 chữ đầu mỗi câu bài ngược:
Hận chuốc sầu giăng,
Rơi lệ cát đằng.
Đời thương khiết ngọc,
Phận lỡ thanh băng.
Phấn son vàng võ,
Hương sắc cỗi cằn.
Sương trời lạnh giá,
Liễu khóc buồn trăng.
7.- Bỏ 3 chữ cuối mỗi câu bài xuôi:
Trăng buồn khóc liễu,
Giá lạnh trời sương.
Cằn cỗi sắc hương,
Võ vàng son phấn.
Băng thanh lỡ phận,
Ngọc khiết thương đời.
Đằng cát lệ rơi,
Giăng sầu chuốc hận.
8.- Bỏ 3 chữ cuối mỗi câu bài ngược:
Thơ hờn tủi hận,
Lối rẽ tình rơi.
Tơ tóc thẹn đời,
Gấm hoa vùi phận.
Lu mờ nét phấn,
Tẻ nhạt mùi hương.
Mù mịt gió sương,
Thu tàn rũ liễu.
9.- Đọc như thơ tự do bài xuôi:
Trăng buồn…
Khóc liễu…
Rũ tàn thu…
Giá lạnh…
Trời sương…
Gió mịt mù…
Cằn cỗi…
Sắc hương…
Mùi nhạt tẻ…
Võ vàng…
Son phấn…
Nét mờ lu…
Băng thanh…
Lỡ phận…
Vùi hoa gấm…
Ngọc khiết…
Thương đời…
Thẹn tóc tơ…
Đằng cát…
Lệ rơi…
Tình rẽ lối…
Giăng sầu…
Chuốc hận…
Tủi hờn thơ…
10.- Đọc như thơ tự do bài ngược:
Thơ hờn…
Tủi hận..
Chuốc sầu giăng…
Lối rẽ…
Tình rơi…
Lệ cát đằng…
Tơ tóc…
Thẹn đời…
Thương khiết ngọc…
Gấm hoa…
Vùi phận…
Lỡ thanh băng…
Lu mờ…
Nét phấn…
Son vàng võ…
Tẻ nhạt…
Mùi hương…
Sắc cỗi cằn…
Mù mịt..
Gió sương…
Trời lạnh giá…
Thu tàn…
Rũ liễu…
Khóc buồn trăng…
II. THƠ VIỆT ĐỆM NGOẠI NGỮ
Người VN có tài "thi hoá" bài học ngoại ngữ. Thời xưa đã có người “nôm hoá” chữ Hán để học trò học dễ thuộc, một dạng như tam tự kinh rất đặc thù VN, chẳng hạn :
"Thiên: trời, địa: đất
Cử: cất, tồn: còn
Tử : con, tôn: cháu
Lục: sáu, tam: ba
Gia: nhà, quốc: nước
Tiền: trước, hậu: sau
Ngưu: trâu, mã: ngựa...”
Tới thời học Pháp ngữ, cũng được Việt hoá để dễ nhớ, dễ thuộc, chẳng hạn :
“Bớp: bò, sư tử: li-ông
Sơ - van: con ngựa, me - dông: cái nhà
Ma - pham chính thật bà nhà
Mông - xơ đích thị chỉ là thưa ông”
Anh Nguyễn Văn Quang có phổ biến cách học Pháp văn (trích trong cuốn “Trường NH chân dung và Kỷ niệm I ” do Võ Thị Quỳnh chủ biên ) nghe thật ngộ nghĩnh :
Người VN có tài "thi hoá" bài học ngoại ngữ. Thời xưa đã có người “nôm hoá” chữ Hán để học trò học dễ thuộc, một dạng như tam tự kinh rất đặc thù VN, chẳng hạn :
"Thiên: trời, địa: đất
Cử: cất, tồn: còn
Tử : con, tôn: cháu
Lục: sáu, tam: ba
Gia: nhà, quốc: nước
Tiền: trước, hậu: sau
Ngưu: trâu, mã: ngựa...”
Tới thời học Pháp ngữ, cũng được Việt hoá để dễ nhớ, dễ thuộc, chẳng hạn :
“Bớp: bò, sư tử: li-ông
Sơ - van: con ngựa, me - dông: cái nhà
Ma - pham chính thật bà nhà
Mông - xơ đích thị chỉ là thưa ông”
Anh Nguyễn Văn Quang có phổ biến cách học Pháp văn (trích trong cuốn “Trường NH chân dung và Kỷ niệm I ” do Võ Thị Quỳnh chủ biên ) nghe thật ngộ nghĩnh :
“ma soeur: chị tôi, mou: mềm, long: dài ”
Và đây bài học Anh ngữ bằng thơ rất dễ thuộc :
Long: dài, short: ngắn, tall: cao
Here: đây, there: đó, which: nào, where: đâu
Sentence có nghĩa là câu
Lesson: bài học, rainbow: cầu vồng
Husband là đức ông chồng
Daddy: cha bố, please don’t: xin đừng
Darling tiếng gọi em cưng
Merry: vui thích, cái sừng là horn
“Rách” rồi xài đỡ chữ “torn”
“To sing” là “hát”, a song: một bài
Nói sai sự thật: to lie
Go: đi, come: đến, “một vài” là “some”
…
Có giai thoại được truyền tụng rằng:
Vua Tự Đức – vị vua giỏi văn thơ triều Nguyễn, một hôm khi lâm triều, trước bách quan ngài hí hửng cho biết tối qua được thần mộng báo hai câu thơ hay và lạ, thơ Hán nhưng có chen lẫn từ Nôm:
“Viên trung oanh truyện khề khà ngữ
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai”
Cao Bá Quát tâu rằng:
“Hai câu thơ trên có trong một bài thơ do thần làm hồi còn nhỏ”.
Ông liền đọc một mạch bài thơ:
“Bảo mã tây phương huếch hoác lai,
Huênh hoang nhân tự thác đề hồi.
Viên trung oanh chuyện khề khà ngữ,
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai.
Xuân nhật bất văn sương lộp bộp,
Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài.
Khù khờ thi tứ đa nhân thức,
Khệnh khạng tương lai vấn tú tài”.
CAO BÁ QUÁT
Tú Xương nhà thơ «xuất khẩu thành thi» chỉ với hai câu thơ thôi mà nói được ba thứ tiếng Hán,Việt, Pháp :
«Cống hỉ», «mẹc – xì», đây thuộc cả
Chẳng sang Tàu, tớ cũng sang Tây
( TÚ XƯƠNG)
Và đây bài học Anh ngữ bằng thơ rất dễ thuộc :
Long: dài, short: ngắn, tall: cao
Here: đây, there: đó, which: nào, where: đâu
Sentence có nghĩa là câu
Lesson: bài học, rainbow: cầu vồng
Husband là đức ông chồng
Daddy: cha bố, please don’t: xin đừng
Darling tiếng gọi em cưng
Merry: vui thích, cái sừng là horn
“Rách” rồi xài đỡ chữ “torn”
“To sing” là “hát”, a song: một bài
Nói sai sự thật: to lie
Go: đi, come: đến, “một vài” là “some”
…
Có giai thoại được truyền tụng rằng:
Vua Tự Đức – vị vua giỏi văn thơ triều Nguyễn, một hôm khi lâm triều, trước bách quan ngài hí hửng cho biết tối qua được thần mộng báo hai câu thơ hay và lạ, thơ Hán nhưng có chen lẫn từ Nôm:
“Viên trung oanh truyện khề khà ngữ
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai”
Cao Bá Quát tâu rằng:
“Hai câu thơ trên có trong một bài thơ do thần làm hồi còn nhỏ”.
Ông liền đọc một mạch bài thơ:
“Bảo mã tây phương huếch hoác lai,
Huênh hoang nhân tự thác đề hồi.
Viên trung oanh chuyện khề khà ngữ,
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai.
Xuân nhật bất văn sương lộp bộp,
Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài.
Khù khờ thi tứ đa nhân thức,
Khệnh khạng tương lai vấn tú tài”.
CAO BÁ QUÁT
Tú Xương nhà thơ «xuất khẩu thành thi» chỉ với hai câu thơ thôi mà nói được ba thứ tiếng Hán,Việt, Pháp :
«Cống hỉ», «mẹc – xì», đây thuộc cả
Chẳng sang Tàu, tớ cũng sang Tây
( TÚ XƯƠNG)
Ghi chú :
Cống hỉ: cung hỉ = chúc mừng
Mẹc-xì: merci = cám ơn
Cống hỉ: cung hỉ = chúc mừng
Mẹc-xì: merci = cám ơn
*MỘT SỐ BÀI THƠ VIỆT CHEN NGOẠI NGỮ
GÁI QUÊ
Trèo lên mười bậc đít mông - tê (monter = trèo)
Tiên cùng không rượu, chẳng cà - phê (fée = tiên)
Chín lầu cửa khoá, lo nơm nớp (neuf = chín)
Nằm tính thâu đêm chuyện cút – sê (coucher = nằm)
Nguyễn Thanh Nhung
PHÚT CHIA LY
Nói mãi nàng vẫn đi (dit = nói)
Sét đánh rền một phút (foudre = sét)
Giường ngập lệ chia ly (lit = giường)
Tràn sâu vào nửa mét (mettre = tràn ngập)
GÁI QUÊ
Trèo lên mười bậc đít mông - tê (monter = trèo)
Tiên cùng không rượu, chẳng cà - phê (fée = tiên)
Chín lầu cửa khoá, lo nơm nớp (neuf = chín)
Nằm tính thâu đêm chuyện cút – sê (coucher = nằm)
Nguyễn Thanh Nhung
PHÚT CHIA LY
Nói mãi nàng vẫn đi (dit = nói)
Sét đánh rền một phút (foudre = sét)
Giường ngập lệ chia ly (lit = giường)
Tràn sâu vào nửa mét (mettre = tràn ngập)
Kiều Phong
GIŨ LỤA
Tay nâng dải lụa mong manh (main = tay)
Gái quê mà lại như hình cung phi (fille = gái)
Đời còn bao nỗi vân vi (vie = đời)
Làm sao trả nổi những gì ta vay (travail = làm)
GIŨ LỤA
Tay nâng dải lụa mong manh (main = tay)
Gái quê mà lại như hình cung phi (fille = gái)
Đời còn bao nỗi vân vi (vie = đời)
Làm sao trả nổi những gì ta vay (travail = làm)
Võ Viết Quân
HOA TƯƠNG TƯ
Yêu em , cũng biết được em mê (aimmer = yêu)
Câm nín chi cho dạ tái tê (taire = câm)
Hồ mộng đôi phen tha thiết lắc (lac = hồ)
Tiên bồng một cõi thảnh thơi phê (fée = tiên)
Đường mây chưa phỉ can chi rút ( route = đường)
Mũi sóng cao đành quá chấp nê (nez = mũi)
Đò đến cầu lam mong được bắc (bac =đò)
Tương tư hoài một đoá « păng- sê» (pensée = tương tư)
HOA TƯƠNG TƯ
Yêu em , cũng biết được em mê (aimmer = yêu)
Câm nín chi cho dạ tái tê (taire = câm)
Hồ mộng đôi phen tha thiết lắc (lac = hồ)
Tiên bồng một cõi thảnh thơi phê (fée = tiên)
Đường mây chưa phỉ can chi rút ( route = đường)
Mũi sóng cao đành quá chấp nê (nez = mũi)
Đò đến cầu lam mong được bắc (bac =đò)
Tương tư hoài một đoá « păng- sê» (pensée = tương tư)
Thân Trọng Thuỳ Như
(Quận 3 – TP HCM)
CỨ MƠ
Tôi thức sao mà tôi cứ mơ (me = tôi)
Lửa tình âm ỉ cháy lơ phơ (feu = lửa)
Bốn phương ngóng bóng trời mù cát (quatre = bốn)
Hai ngựa đưa tin vô cùng đơ (deux =hai)
Đầu bạc lại xanh màu lễ tết (tête = đầu)
Tim hồng thêm thắm nhịp thời cơ (coeur =tim)
Cả toà thiên phú mà nuy tú (tout = tất cả)
Cầu ước chuyện kia chẳng vẩn vơ (voeux = cầu ước)
Võ Viết Doãn
Tôi thức sao mà tôi cứ mơ (me = tôi)
Lửa tình âm ỉ cháy lơ phơ (feu = lửa)
Bốn phương ngóng bóng trời mù cát (quatre = bốn)
Hai ngựa đưa tin vô cùng đơ (deux =hai)
Đầu bạc lại xanh màu lễ tết (tête = đầu)
Tim hồng thêm thắm nhịp thời cơ (coeur =tim)
Cả toà thiên phú mà nuy tú (tout = tất cả)
Cầu ước chuyện kia chẳng vẩn vơ (voeux = cầu ước)
Võ Viết Doãn
Bài thơ nói lên tâm sự một phụ nữ VN lấy chồng là một viên công sứ Pháp mãn nhiệm trở về nước
J’ écris (tôi viết) tình thư une lettre (một lá)
Envoie (gửi) thăm hỏi me-sừ Le Résident (ông công sứ)
Toute seul (một mình) gạt nước mắt than rằng :
Cochon (con lợn) long đong lỡ làng,
Từ khi thiếp bén duyên chàng
La noce (đám cưới) chưa đặng một bàn tiệc vui
Éloigner (xa cách) ai khéo dục xui
Couteau (con dao) sao nỡ cắt mùi nguyệt hoa
La cour (sân nhà) mousse (cỏ) mọc lune (trăng) tà
La chambre (buồng ngủ) biết lấy ai làm ami (bạn)
Lạnh lùng chiếc chemise (áo) lấp ló,
Ta figure (khuôn mặt anh) thấy đó mà mong
Bây giờ tình biết comment (làm sao) bây giờ
Pourqoi (tại sao) nỡ để silent (im lặng) cho đành
J’ écris (tôi viết) tình thư une lettre (một lá)
Envoie (gửi) thăm hỏi me-sừ Le Résident (ông công sứ)
Toute seul (một mình) gạt nước mắt than rằng :
Cochon (con lợn) long đong lỡ làng,
Từ khi thiếp bén duyên chàng
La noce (đám cưới) chưa đặng một bàn tiệc vui
Éloigner (xa cách) ai khéo dục xui
Couteau (con dao) sao nỡ cắt mùi nguyệt hoa
La cour (sân nhà) mousse (cỏ) mọc lune (trăng) tà
La chambre (buồng ngủ) biết lấy ai làm ami (bạn)
Lạnh lùng chiếc chemise (áo) lấp ló,
Ta figure (khuôn mặt anh) thấy đó mà mong
Bây giờ tình biết comment (làm sao) bây giờ
Pourqoi (tại sao) nỡ để silent (im lặng) cho đành
(Ông Đinh Hương Sơn sưu tầm và đăng trên tạp chí "Xưa và Nay" số 257 (Tháng 4/1946)
ĐÒI LẠI NHÀ TỰ BỊ NGƯỜI Ở NHỜ CHIẾM
Nhà moa bị cướp (moi = tôi)
Nhà moa cho ở, luý tăng-pi (lui =anh ta ; tant pis = cóc cần)
Cướp của mà không tiếng mẹc-xì (merci = cám ơn)
Mặc kệ moa kêu vang pạc- tú (partout = khắp nơi)
Ung dung luý vẫn sống i-xi (ici = ở đây)
Ái tình nhân nghĩa nơ vô riêng (ne vaut rien = không có giá trị gì)
Móc ngoặc ô dù xà súp phi (cà suffi = đã đủ rồi)
Nên đành chịu lép tút la vi (tout la vie = suốt cả đời)
Chỉ tội lơ duýt quên tat-chơ
(le judge =quan toà; tâche = trách nhiệm)
Giáo sư Dương Thiệu Tống
( Do mình dùng chương trình bàn phím tiếng Việt Unikey, một số mẫu tự tiếng Pháp không có trong Unikey nên gõ không được chuẩn lắm )
MỘT THẾ - KỶ MẤY VẦN THƠ
*Tiễn chân quân viễn chinh Pháp
*Kỷ niệm 100 năm Việt Nam đau khổ
Ánh hồng chói rạng chân trời mới
Ngọn lửa đao binh tắt lịm rồi.
Có kẻ chiều nay về cố quán,
Âm thầm, không biết hận hay vui ?!
Chiều nay,
Kèn kêu tức tưởi nghẹn lời
Tiếng ngân xúc động dạ người viễn chinh !
Chiều nay trên nghĩa địa
Có một đoàn tinh binh
Cờ rủ và súng xếp
Cúi đầu và lặng thinh.
Nghẹn ngào giã biệt người thiên cổ
Đất lạ trời xa sớm bỏ mình.
Thịt nát, xương tan, hồn thảm bại
Nghìn năm ôm hận cõi u minh !
Những ai làm lính viễn chinh,
Chiều nay bước xuống tàu binh trở về.
Tàu xúp - lê !
Tàu xúp - lê !
Cửa Hàm Tử lao xao sóng gợn
Bến Bạch Đằng lởn vởn hồn quê …
Bước đi những bước nặng nề
Ngày đi chẳng biết, ngày về chẳng hay !
Một ngàn chín trăm năm sáu (1956)
Một ngàn tám trăm sáu hai (1862)
Giật mình bấm đốt ngón tay,
Trăm năm một giấc mộng dài hãi kinh !
Ngày anh đến đây :
Thành Đà Nẵng tan hoang vì đại bác
Xác anh hùng Đinh Lý hóa tro bay !
Giữ Gia Định, Duy Ninh liều mạng thác
Ôm quốc kỳ tuẩn tiết giữa trùng vây !
Phan Thanh Giản nuốt hờn pha thuốc độc
Bởi xâm lăng bắt nhượng nước non nầy !
Và Thăng Long máu hòa ba lớp đất
Thất KinhThành, Hoàng Diệu ngã trên thây ! …
Hỡi ơi ! Xương máu dẫy đầy,
Chân anh dẫm tới, đất nầy tóc tang !
Tay gươm, tay súng
Bước nghinh, bước ngang
Anh bắn !
Anh giết !
Anh đâm !
Anh dầm !
Anh đày Bà Rá , Côn Lôn,
Anh đọa Sơn La , Lao Bảo …
Anh đoạt hết cơm hết áo,
Anh giựt hết bạc hết vàng …
Chặt đầu ông lão treo hàng thịt,
Mổ mật thanh niên giữa chiến tràng.
Cối quết trẻ thơ văng nát óc,
Phanh thây sản phụ đốt thành than ! …
Con lìa mẹ,
Vợ xa chồng,
Cây rụi lá,
Nhà trống không …
Người chìm đáy biển
Người tấp ven sông
Người ngã trên núi
Người gục trong rừng …
Đây Cà Mau, đó Nam Quan,
Hung hăng anh bóp trong bàn tay tanh !
Nước tôi đang độ yên vui sống
Mít ngát hương mùa, bưởi ngọt thanh
Lúa nặng tình quê, khoai luyến đất,
Không thương nhau, lại giết nhau đành !
Cắn răng tôi chịu cực hình
Vuốt râu anh hưởng công linh đồng bào.
Anh phân ly Nam , Bắc
Anh chia rẻ nghèo, giàu.
Nước non anh quậy tan tành hết
Cho oán hờn nhau, giết lẫn nhau ,
Người chết thì dại,
Người sống thì ngu.
Dân ngu vì bị làm ngu
Đặng dân làm ngựa, làm trâu suốt đời !
Nhưng, thôi !
Bao năm khói lửa
Ta hiểu nhau rồi !
Cái gì bạo ngược là phi nghĩa
Là trái lòng dân, nghịch ý trời.
Sắt thép tinh ròng, binh tướng dữ
Không sao thắng được trái tim người !
Anh về là phải, anh ơi !
Về bây giờ, để còn đời nhớ anh.
Những cái gì tôi hận
Những cái gì tôi khinh,
Bây giờ anh xuống tàu binh
Trăm năm chuyện cũ, thôi mình bỏ qua !
Bao giờ tôi chẳng nhớ
Nước Pháp rộng bao la,
Thành Paris rực-rỡ
Ánh văn minh chói lòa …
“Cốt Đa-duya” (Côte d’Azur ) người thanh và cảnh lịch
Bờ “Mạc-xây”(Marseille) xinh đẹp nhất sơn hà.
Khí sông núi đúc nên trang tuấn kiệt
Bực anh hùng cứu quốc “RỐP” (Job), “RĂNG-ĐA” (Jean D'arc)
Tôi nhớ lắm, một ngày năm “tám chín” (1789)
Anh vùng lên phá ngục “BÁT-TI ” (Bastille) nhà,
Anh giải-phóng cho giống nòi được sống
Được vinh quang trong “Đệ Tứ Cộng Hòa” !
Anh vui, anh sướng,
Anh hát, anh ca …
Tôi là người ở phương xa
Ngày anh sáng lạn (xán lạn) cũng hòa niềm vui !
Anh về nước Pháp xa xôi
Chắc anh bao giờ quên được,
Những là đường đi nước bước
Những là tên tuổi Việt Nam :
Suối Yên Thế tuôn tràn hậm hực,
Đất Thái Nguyên căm tức nổi vồng,
Tháp Mười hận nước mênh mông
U Minh mấy trận bão lòng chưa nguôi ! …
Việt Nam, nước của tôi :
Sông sâu, đồng rộng,
Trái tốt, hoa tươi …
Hà Nội kinh thành trang chiến sử
Sài Côn đô thị rạng anh tài.
Phú Xuân bừng chói gương ưu quốc
Nghĩa nặng tình thâm vạn thưở nay !
Việt Nam , nước của tôi :
Già như trẻ
Gái như trai
Chết thì chịu chết
Không cúi lòn ai !
Tham lam ai muốn vô xâm chiếm,
Thì “giặc vào đây, chết ở đây” !
Việt Nam, nước của tôi :
Ruộng dâu hóa bể
Lòng chẳng đổi thay.
Dầu ai cắt đất chia hai
Cho trong đau khổ, cho ngoài thở than.
Dầu ai banh ruột xé gan,
Cho tim xa óc, cho nàng lìa tôi.
Đinh ninh anh nhớ một lời :
“Ngày mai thống nhất liền đôi bến bờ” !
Đã đến giờ
Chia tay cách biệt
Anh lìa nước Việt
Vừa tủi vừa mừng.
Bên nhà vợ đợi con trông,
Vắng anh, tình mặn nghĩa nồng cũng phai.
Tàu xúp - lê một !
Tàu xúp - lê hai !
Siết tay anh nhé, anh về nước,
Biển lặng trời êm nhớ lấy ngày.
Và chẳng bao giờ quên nhắc nhở
Cho ai đừng đến đọa đày ai !
Tự vấn lương tâm rồi tự đáp :
- Đánh cho ai, và chết cho ai ???
Bóng ngả trời tây
Gió lồng biển cả ,
Phút giây từ giã
Trang sử trăm năm !
Tàu anh rời bến Việt Nam ,
Hãy xuôi một ngả, một đường mà đi.
Xin tàu đừng ghé Bắc Phi,
Sóng to gió lớn, chắc gì đến nơi .
Đừng gây oan trái, tàu ơi,
Hãy xuôi về Pháp cho người hát ca !
Tàu xúp - lê hai !!
Tàu xúp - lê ba !!!
Anh về mạnh giỏi
- Ô - rờ - voa ! (Aurevoir)
TRUY PHONG
(1956)
* Còn nhiều DẠNG THƠ VIỆT NAM ĐẶC BIỆT khác nữa, như DẠNG THƠ NÓI LÁI, DẠNG THƠ HÌNH ... Do bài đã khá dài và do khó định dạng, xếp chữ cho loại THƠ HÌNH trên trang blogspot này, nên chúng tôi chỉ đăng một phần thôi trong bài viết trên.
Kính mời quý bạn click chuột vào đường link sau để đọc thêm :
http://phudoanlagi.blogspot.com/search/label/LA%20TH%E1%BB%A4Y?updated-max=2011-11-13T13:52:00%2B07:00&max-results=20&start=54&by-date=false
ĐÒI LẠI NHÀ TỰ BỊ NGƯỜI Ở NHỜ CHIẾM
Nhà moa bị cướp (moi = tôi)
Nhà moa cho ở, luý tăng-pi (lui =anh ta ; tant pis = cóc cần)
Cướp của mà không tiếng mẹc-xì (merci = cám ơn)
Mặc kệ moa kêu vang pạc- tú (partout = khắp nơi)
Ung dung luý vẫn sống i-xi (ici = ở đây)
Ái tình nhân nghĩa nơ vô riêng (ne vaut rien = không có giá trị gì)
Móc ngoặc ô dù xà súp phi (cà suffi = đã đủ rồi)
Nên đành chịu lép tút la vi (tout la vie = suốt cả đời)
Chỉ tội lơ duýt quên tat-chơ
(le judge =quan toà; tâche = trách nhiệm)
Giáo sư Dương Thiệu Tống
( Do mình dùng chương trình bàn phím tiếng Việt Unikey, một số mẫu tự tiếng Pháp không có trong Unikey nên gõ không được chuẩn lắm )
MỘT THẾ - KỶ MẤY VẦN THƠ
*Tiễn chân quân viễn chinh Pháp
*Kỷ niệm 100 năm Việt Nam đau khổ
Ánh hồng chói rạng chân trời mới
Ngọn lửa đao binh tắt lịm rồi.
Có kẻ chiều nay về cố quán,
Âm thầm, không biết hận hay vui ?!
Chiều nay,
Kèn kêu tức tưởi nghẹn lời
Tiếng ngân xúc động dạ người viễn chinh !
Chiều nay trên nghĩa địa
Có một đoàn tinh binh
Cờ rủ và súng xếp
Cúi đầu và lặng thinh.
Nghẹn ngào giã biệt người thiên cổ
Đất lạ trời xa sớm bỏ mình.
Thịt nát, xương tan, hồn thảm bại
Nghìn năm ôm hận cõi u minh !
Những ai làm lính viễn chinh,
Chiều nay bước xuống tàu binh trở về.
Tàu xúp - lê !
Tàu xúp - lê !
Cửa Hàm Tử lao xao sóng gợn
Bến Bạch Đằng lởn vởn hồn quê …
Bước đi những bước nặng nề
Ngày đi chẳng biết, ngày về chẳng hay !
Một ngàn chín trăm năm sáu (1956)
Một ngàn tám trăm sáu hai (1862)
Giật mình bấm đốt ngón tay,
Trăm năm một giấc mộng dài hãi kinh !
Ngày anh đến đây :
Thành Đà Nẵng tan hoang vì đại bác
Xác anh hùng Đinh Lý hóa tro bay !
Giữ Gia Định, Duy Ninh liều mạng thác
Ôm quốc kỳ tuẩn tiết giữa trùng vây !
Phan Thanh Giản nuốt hờn pha thuốc độc
Bởi xâm lăng bắt nhượng nước non nầy !
Và Thăng Long máu hòa ba lớp đất
Thất KinhThành, Hoàng Diệu ngã trên thây ! …
Hỡi ơi ! Xương máu dẫy đầy,
Chân anh dẫm tới, đất nầy tóc tang !
Tay gươm, tay súng
Bước nghinh, bước ngang
Anh bắn !
Anh giết !
Anh đâm !
Anh dầm !
Anh đày Bà Rá , Côn Lôn,
Anh đọa Sơn La , Lao Bảo …
Anh đoạt hết cơm hết áo,
Anh giựt hết bạc hết vàng …
Chặt đầu ông lão treo hàng thịt,
Mổ mật thanh niên giữa chiến tràng.
Cối quết trẻ thơ văng nát óc,
Phanh thây sản phụ đốt thành than ! …
Con lìa mẹ,
Vợ xa chồng,
Cây rụi lá,
Nhà trống không …
Người chìm đáy biển
Người tấp ven sông
Người ngã trên núi
Người gục trong rừng …
Đây Cà Mau, đó Nam Quan,
Hung hăng anh bóp trong bàn tay tanh !
Nước tôi đang độ yên vui sống
Mít ngát hương mùa, bưởi ngọt thanh
Lúa nặng tình quê, khoai luyến đất,
Không thương nhau, lại giết nhau đành !
Cắn răng tôi chịu cực hình
Vuốt râu anh hưởng công linh đồng bào.
Anh phân ly Nam , Bắc
Anh chia rẻ nghèo, giàu.
Nước non anh quậy tan tành hết
Cho oán hờn nhau, giết lẫn nhau ,
Người chết thì dại,
Người sống thì ngu.
Dân ngu vì bị làm ngu
Đặng dân làm ngựa, làm trâu suốt đời !
Nhưng, thôi !
Bao năm khói lửa
Ta hiểu nhau rồi !
Cái gì bạo ngược là phi nghĩa
Là trái lòng dân, nghịch ý trời.
Sắt thép tinh ròng, binh tướng dữ
Không sao thắng được trái tim người !
Anh về là phải, anh ơi !
Về bây giờ, để còn đời nhớ anh.
Những cái gì tôi hận
Những cái gì tôi khinh,
Bây giờ anh xuống tàu binh
Trăm năm chuyện cũ, thôi mình bỏ qua !
Bao giờ tôi chẳng nhớ
Nước Pháp rộng bao la,
Thành Paris rực-rỡ
Ánh văn minh chói lòa …
“Cốt Đa-duya” (Côte d’Azur ) người thanh và cảnh lịch
Bờ “Mạc-xây”(Marseille) xinh đẹp nhất sơn hà.
Khí sông núi đúc nên trang tuấn kiệt
Bực anh hùng cứu quốc “RỐP” (Job), “RĂNG-ĐA” (Jean D'arc)
Tôi nhớ lắm, một ngày năm “tám chín” (1789)
Anh vùng lên phá ngục “BÁT-TI ” (Bastille) nhà,
Anh giải-phóng cho giống nòi được sống
Được vinh quang trong “Đệ Tứ Cộng Hòa” !
Anh vui, anh sướng,
Anh hát, anh ca …
Tôi là người ở phương xa
Ngày anh sáng lạn (xán lạn) cũng hòa niềm vui !
Anh về nước Pháp xa xôi
Chắc anh bao giờ quên được,
Những là đường đi nước bước
Những là tên tuổi Việt Nam :
Suối Yên Thế tuôn tràn hậm hực,
Đất Thái Nguyên căm tức nổi vồng,
Tháp Mười hận nước mênh mông
U Minh mấy trận bão lòng chưa nguôi ! …
Việt Nam, nước của tôi :
Sông sâu, đồng rộng,
Trái tốt, hoa tươi …
Hà Nội kinh thành trang chiến sử
Sài Côn đô thị rạng anh tài.
Phú Xuân bừng chói gương ưu quốc
Nghĩa nặng tình thâm vạn thưở nay !
Việt Nam , nước của tôi :
Già như trẻ
Gái như trai
Chết thì chịu chết
Không cúi lòn ai !
Tham lam ai muốn vô xâm chiếm,
Thì “giặc vào đây, chết ở đây” !
Việt Nam, nước của tôi :
Ruộng dâu hóa bể
Lòng chẳng đổi thay.
Dầu ai cắt đất chia hai
Cho trong đau khổ, cho ngoài thở than.
Dầu ai banh ruột xé gan,
Cho tim xa óc, cho nàng lìa tôi.
Đinh ninh anh nhớ một lời :
“Ngày mai thống nhất liền đôi bến bờ” !
Đã đến giờ
Chia tay cách biệt
Anh lìa nước Việt
Vừa tủi vừa mừng.
Bên nhà vợ đợi con trông,
Vắng anh, tình mặn nghĩa nồng cũng phai.
Tàu xúp - lê một !
Tàu xúp - lê hai !
Siết tay anh nhé, anh về nước,
Biển lặng trời êm nhớ lấy ngày.
Và chẳng bao giờ quên nhắc nhở
Cho ai đừng đến đọa đày ai !
Tự vấn lương tâm rồi tự đáp :
- Đánh cho ai, và chết cho ai ???
Bóng ngả trời tây
Gió lồng biển cả ,
Phút giây từ giã
Trang sử trăm năm !
Tàu anh rời bến Việt Nam ,
Hãy xuôi một ngả, một đường mà đi.
Xin tàu đừng ghé Bắc Phi,
Sóng to gió lớn, chắc gì đến nơi .
Đừng gây oan trái, tàu ơi,
Hãy xuôi về Pháp cho người hát ca !
Tàu xúp - lê hai !!
Tàu xúp - lê ba !!!
Anh về mạnh giỏi
- Ô - rờ - voa ! (Aurevoir)
TRUY PHONG
(1956)
* Còn nhiều DẠNG THƠ VIỆT NAM ĐẶC BIỆT khác nữa, như DẠNG THƠ NÓI LÁI, DẠNG THƠ HÌNH ... Do bài đã khá dài và do khó định dạng, xếp chữ cho loại THƠ HÌNH trên trang blogspot này, nên chúng tôi chỉ đăng một phần thôi trong bài viết trên.
Kính mời quý bạn click chuột vào đường link sau để đọc thêm :
http://phudoanlagi.blogspot.com/search/label/LA%20TH%E1%BB%A4Y?updated-max=2011-11-13T13:52:00%2B07:00&max-results=20&start=54&by-date=false
La Thuỵ sưu tầm và biên tập