Tác giả TRẦN HỮU THUẦN |
- Nhận định tổng
quát:
Chuyên môn như Từ điển bách khoa toàn thư phổ biến trên mạng (http://www.bachkhoatoanthu.gov.vn/) trong bài Quy tắc chính tả tiếng Việt và phiên chuyển tiếng nước ngoài đưa ra đơn giản như sau:
Dùng i thay cho y ở cuối âm tiết mở. Ví dụ: hi sinh, hi vọng, biệt li. Trừ trong các âm tiết uy và các trường hợp sau qu hoặc y đứng một mình hoặc đứng đầu âm tiết. Ví dụ: ý nghĩa, ý chí, yêu mến.
Một số từ có i làm thành tố thì vẫn
viết theo thói quen: ỉ eo, ầm ĩ; hoặc i đứng đầu một số âm tiết:
in, im, inh, ít ỏi, ụt ịt, ỉu xìu.
Ngoại lệ: trong cách viết tên riêng (tên người,
tên đất), tên các triều đại đã quen dùng y thì vẫn viết theo
truyền thống. Ví dụ: triều Lý, Lý Bôn, Lý Thường Kiệt,
xã Lý Nhân, Nguyễn Thị Lý, vv.
Trong tập san Ðịnh Hướng 21 (1998), đăng lại trên dunglac.org (http://www. dunglac.org/index.php tác giả Đoàn Xuân Kiên viết bài Chữ I và Y trong chính tả tiếng
Việt và bài Nói thêm về
chữ I và Y trong chính tả tiếng Việt, sau khi đã phân tích quá trình hình
thành cách kí âm tiếng Việt xưa và nay, công nhận quyết định trên đây là hữu lí
khi ông viết:
Sau 1975, một công trình làm từ điển tiếng Việt do Viện
Ngôn Ngữ chủ quản đã tạo một bước tiến rõ rệt về các
mặt của phương pháp từ điển ngôn ngữ: số lượng các mục
từ và các từ và ngữ phái sinh, cách định nghĩa,
chú thích, thí dụ. Về mặt chính tả thì ban chủ
biên nêu rõ là họ theo đúng các Quy định về chính
tả tiếng Việt và về thuật ngữ tiếng Việt trong các sách giáo
khoa, được ban hành theo Quyết định số 240/QÐ Ngày 5.3.1984 của
Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục. Nguyên âm i cuối âm tiết được viết thống nhất
bằng -I (viết hi, ki, li, mi, ti, thay cho hy, ky, ly, my, ty), trừ -uy (/ -wi
/) vẫn viết -uy ( luy, tuy...) để giữ sự thống nhất với với uyên, uyết, uyt.
Trong tình trạng chính tả tiếng Việt hiện nay thì đây là một bước cải tiến hợp
lí, nên tránh được tối đa những bất nhất về phương pháp chính tả. Vì đây chính
là nguyên tắc (a) trong chính tả của chữ i và y mà đã từ quá lâu phải chịu
những xáo trộn do ảnh hưởng của những pho từ điển soạn rải rác từ sau de
Rhodes.
Tác giả Trần Vinh trong bài Viết I hay Y: Chia sẻ
với Lm. Nguyễn Ngọc Huỳnh phổ biến trên dunglac.org http:// www. dunglac.org/index.php?m=home&v=detail&ia=1652 cũng
nhận định tương tự:
Tới đây, mong rằng tác giả Quốc Thái và quý độc giả hiểu
việc viết I hay Y không phải là vấn đề chính trị, cũng không phải là chuyện lố
lăng hay lập dị, mà là chuyện ngữ học, chuyện thống nhất chính tả Việt ngữ.
Muốn thống nhất thì phải dựa trên những nguyên tắc hợp lí, phải được Quốc hội
chấp thuận và chính phủ ban hành thành luật. Lúc đó mới có thể bắt buộc mọi công
dân phải tuân thủ một cách viết chính tả duy nhất đúng.
Quy định trên không chú ý tới một quy tắc bất thành văn về
tính thẩm mỹ trong chữ quốc ngữ: hình chữ phải đẹp, nghĩa là có sự cân đối về
độ cao giữa các con chữ trong từ ngữ.
Trong tiếng Việt có những biến thể trong cách viết
i/y. Một từ mĩ là đẹp, mọi người quen viết nước Mỹ, châu
Mỹ nhưng lại viết mĩ mãn. Những biến thể như vậy gặp rất nhiều.
Điều đó là bình thường, không có gì đáng tranh cãi.
Trong hai
bài trích dẫn trước, tác giả Đoàn Xuân Kiên có thêm nhận xét rằng Giáo sư Lê
Ngọc Trụ đã không có chủ định rõ rệt về khi nào viết I khi nào viết Y:
Có thể nói là về mặt chính tả
chữ i và y thì Lê Ngọc Trụ không phân minh nên đã
tự mâu thuẫn với chính mình: cùng một khuôn âm mà ông viết hai
cách khác nhau: lý, vĩ ; thậm chí cùng một chữ hán việt (sic)
chỉ cái mũi, ông viết tỵ (tr. V) và tị (tr. XIX).
Giáo
sư Lê Ngọc Trụ trong bài nghiên cứu Hệ
thống tiếng Việt và nguyên tắc chính tả, đăng
lại trên Việt Nam thư quán (http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=409301)
cũng không thấy đề cập đến qui định về chữ I và Y.
Ở đây,
chúng tôi không chủ định nhận xét phải trái các ý kiến nêu trên của các
giáo sư và các tác giả, cũng như vấn đề chính trị hay không chính trị, vấn đề
công nhận hay không công nhận một quyết định “phải được [Quốc hội] chấp
thuận và chính phủ ban hành thành luật” như nhận xét của tác giả Trần Vinh. Chúng
tôi, một người không chuyên môn và không kiến thức dù là cơ bản về ngôn ngữ
học, chỉ xin lạm bàn một vài suy tư riêng tư. Khi đi vào một lãnh vực không
phải chuyên môn của bản thân, chắc chắn chúng tôi không tránh khỏi các điều thô
thiển. Tuy vậy, cũng xin được phép lấy hết can đảm để lạm bàn, để nói lên được
suy tư của bản thân.
- Kí âm ngôn ngữ:
Chúng tôi
cho rằng, chữ viết là kí hiệu
qui ước để kí âm một tiếng
nói, một ngôn ngữ. Các chữ tượng hình (hyeroglyphic) hoặc kí tự kiểu chữ Hán,
chữ Nôm, chữ Nhật, chữ Đại hàn đều chỉ là các kí
hiệu qui ước để theo đó khi
đọc ngược trở lại, chúng sẽ phát ra âm thanh của một tiếng nói. Chúng ta may
mắn có được lối kí âm theo kí hiệu gọi là mẫu tự Latin, và ai cũng đã biết kí
âm này do các nhà truyền giáo ngoại quốc sử dụng các mẫu tự đã có, noi theo các
cách kí âm trong các ngôn ngữ họ đã biết đến như tiếng Latin, tiếng Tây ban
nha, tiếng Bổ đào nha, tiếng Ý, tiếng Pháp vv. rồi áp dụng vào cho tiếng Việt.
Việc noi theo này để lại một vài dấu ấn, và thành thói quen, nhiều khi gây khó
khăn rất nhiều cho người mới học đọc học viết học ráp vần, nhất là các em bé.
Ai trong chúng ta khi học đọc, học ráp vần không gặp khó khăn khi ráp cờ-a-ca-sắc-cá nhưng không thể ráp cờ-e-ke-sắc-ké mà phải ráp với chữ K? Nhưng đã thành một thói quen nên
nếu có ai đưa ra đề nghị sửa đổi, phản ứng sẽ rất mạnh mẽ.
Xin đan
cử vài nhận xét: Cái cây và cái ke. Xin quí vị nhắm mắt lại, và
đọc lên cây và ke để nghe hai âm đầu của hai từ này có
gì khác biệt nhau chăng? Chúng tôi cho là không. Thế nhưng, mở mắt ra, chúng ta
có hai cách kí âm khác nhau, nghĩa là hai kí
hiệu qui ước khác nhau, để kí
lại cùng một âm thanh. Thử đi xa hơn một chút, loại kí âm dùng cho âm thanh
nhiều nhất chính là âm nhạc.
Chẳng thể nào trong âm nhạc dùng hai loại kí hiệu qui ước khác nhau để kí lại cùng một âm thanh.
Nốt do cao với khóa Sol trên dòng nhạc năm đường kẻ chỉ có thể
kí vào giữa hai đường kẻ thứ tư và thứ năm từ dưới lên trên bằng một chấm lớn
tô kín hoặc để trống bên trong, không thể có một qui ước thứ hai cho loại dòng nhạc này. Thế tại
sao chúng ta lại có hai qui ước cho cùng một âm trong trường hợp này của tiếng
Việt chúng ta?
Một
lí giải là vì khi các nhà truyền giáo ngoại quốc kí âm
ngôn ngữ Việt, một số trong các vị đó đã quen thuộc với qui ước của tiếng Pháp. Kí hiệu C khi đi với kí hiệu E trong tiếng Pháp được qui ước không thể phát âm là KE mà là XƠ. Chữ C không còn âm cứng mà
thành âm mềm. Cũng cặp kí hiệu CE trong qui ước tiếng Latin thì lại phải
đọc như âm được kí bằng chữ S của tiếng Việt với cách đọc miền
Trung, không phải miền Bắc hoặc miền Nam, ví như, benedicere đọc theo âm tiếng Việt là bê nê đi sê rê. Vì
vậy không thể kí âm là “cáice,” mà
phải là “cái ke” để tránh
đọc nhầm CE thành xơ hoặc sê. Nếu ce là không được, tại sao co lại được? Hai âm có khác gì nhau đâu?
Đó chỉ là một ví dụ. Còn biết bao nhiêu ví dụ khác có thể nêu lên như vậy.
Cùng
một áp dụng, khi kí âm từ ngữ mà hiện giờ ta đọc
là qua, các vị đó đã bê ngay tiếng Latin qua vào, trong khi cùng một âm, người
Trung hoa chẳng hạn lại kí bằng kwa.
Tiếng Latin, và từ đó tiếng Tây ban nha, tiếng Bồ đào nha, tiếng Ý đọc rất gần
với tiếng Việt. Giả dụ chúng ta chưa từng học tiếng Latin, nhưng biết rằng kí
hiệu tiếng Latin đọc gần tiếng Việt, chúng ta có thể đọc ngày từ vitare thành giống tiếng Việt vi ta re, chỉ khác là âm e tiếng
Latin đọc là ê tiếng Việt. Cũng vậy với tiếng Tây ban
nha vitado, chỉ khác âm o đọc
thành ô tiếng Việt. Giả sử, thay vì kí âm qua, các vị sáng lập đã kí âm
là kwa thì có phải chúng ta đã có một hệ
thống phụ âm đầu cứng với ka,
ke, kê, ki, ko, kô, kơ, ku, kư rồi kwa, kwe, kwê, kwi, kwơ không?
Ngay lúc
ban đầu, các nhà truyền giáo cũng đã lúng túng trong việc đem qui ước
nước ngoài áp dụng vào cho tiếng chúng ta như vậy. Từ cùng (Ta cầu cùng), câu đầu trong Phép giảng tám ngày của Cha Alexandre de Rhodes, một
trong các vị truyền giáo được ghi công nhiều nhất cho việc kí âm tiếng Việt
bằng mẫu tự Latin mà ta gọi là Chữ Quốc ngữ, đã được kí âm là cũ, có lẽ sử dụng kí hiệu như
là dấu ngã để chỉ phụ âm kép NG theo kiểu tiếng Tây ban nha Bồ đào nha
chăng? Chúng tôi nói theo kiểu, vì dấu ngã này trong tiếng Tây ban nha đặt trên phụ âm n để đọc thành NH, ví dụ mañana đọc theo tiếng Việt là ma nha na nghĩa là ngày mai.
Điểm nhận
xét này muốn nói rằng, từ ban đầu, các vị tạo ra kí âm tiếng Việt đã đem các kí hiệu qui ước của các ngôn ngữ khác vào thành kí
hiệu qui ước để kí âm ngôn ngữ Việt.Từ đó suy ra, việc kí âm tiếng Việt
ngay từ ban đầu không phải là một qui luật kí âm từ cách phát âm tiếng Việt mà
có. Xin được nói rõ, chúng tôi hoàn toàn không có ý nói rằng các vị sáng lập ra
cách kí âm tiếng Việt đã không sáng tạo. Các vị đó rất sáng tạo khi áp dụng các cách kí âm khác nhau
vào tiếng Việt, và tạo ra các kí hiệu mới khi không có, ví dụ chữ Ơ, Ư. Đặc điểm của
tiếng Việt chúng ta là có nhiều thanh khác nhau đi với một âm để tạo ra một âm
mới. Các vị đó đã sử dụng các kí
hiệu dấu có sẵn nhưng cho
chúng các qui ước mới dùng vào tiếng Việt. Ba kí hiệu huyền, sắc, và mũ đã có trong tiếng Pháp, dấu ngã trong tiếng Tây ban nha, nhưng tất cả
được dùng với qui ước khác. Dấu hỏi trong các ngôn ngữ khác, được sử dụng
trong tiếng Việt với qui ước vốn có khi ở cuối câu để chỉ một câu hỏi, câu tra
vấn (khi đọc phải nâng giọng lên), và đồng thời sáng tạo khi đưa dấu đó lên
trên nguyên âm với một qui ước mới nhưng cũng tương tự trong cách đọc là nâng
giọng từ dưới lên trên. Riêng dấu nặng,
chúng tôi cho là một sáng tạo hoàn toàn mới vì chưa thấy có trong ngôn ngữ nào
khác chúng tôi biết đến.
Cách
kí âm ngôn ngữ biến chuyển theo thời gian. Trong kí hiệu tiếng Trung
hoa, lịch sử cho chúng ta biết Tần Thủy Hoàng dù là một bạo chúa nhưng đã có
công ổn định các kí
hiệu qui ước kí âm tiếng Trung quốc. Điều đó nói
lên rằng, trước nhà Tần, đã có các cách kí hiệu khác nhau. Thời đại này, Mao
Trạch Đông cũng đã thành công trong việc làm cho đơn giản các kí hiệu qui ước đó.
Tiếng
Anh, nếu chúng ta đọc một bản văn kí âm kí
hiệu qui ước cũ, ví dụ kịch
của Shakespeare, và hoàn toàn không biết đến các qui ước đó, chúng ta chắc chắn
không đọc được. Chúng tôi nhớ thời còn đi học đã vất vả thế nào khi đến bài tập
chuyển kí hiệu qui ước này, mà chúng tôi gọi là dịch thành chữ mới. Nhận xét này để nói lên
rằng, kí hiệu qui ước của một
ngôn ngữ không phải là cố
định. Chúng ta đang thấy biến chuyển đó trong tiếng Anh tại Mĩ, mặc dù chưa
thành qui luật và chỉ để gây chú ý mà thôi. Thỉnh thoảng, chúng ta gặp kí hiệu gud nite thay cho good night và rõ ràng kí hiệu mới dễ đọc hơn kí hiệu cũ vì thấy sao biết vậy (What you see [is] what you
get-WYSWYG). Cứ nhìn các em mới học đọc viết tiếng Anh tại Mĩ bằng cách sử dụng
phonetic (đọc theo phát
âm, như chúng ta ráp vần tiếng Việt). Các em viết tiếng Anh y như các em nghe,
ví dụ couch thì các em viết kouch, door thành dor, thậm chí nhiều lúc không
cần nguyên âm vì phonetic các em kí âm nếu phát âm ngược lại
đã thành tiếng các em nghe được. Nói cho đúng, việc cải tổ cách viết tiếng Anh
cũng đã được đưa ra đâu đó bên châu Âu, nhưng không đạt kết quả vì bị phản đối.
Ai nói chừng vài thế hệ nữa, khi các em lớn lên qua phonetic này làm chủ nước Mĩ, nhớ lại khó khăn
lúc còn bé, lại không có người chủ trương viết tiếng Anh-Mĩ bằng WYSWYG?
- Qui ước cách kí âm:
Các học
giả khi bàn đến vấn đề N và NG,
CH và TR vv. và dấu hỏi ngã trong tiếng Việt đọc các từ Hán Việt,
thường trưng dẫn vì đó là các từ Hán Việt nên chiếu theo qui định của các tiêu
chuẩn đọc tiếng Trung quốc, trưng dẫn luật thanh trọc của tiếng Hoa, từ điển
Khang Hi, Thiều Chửu vv. để qui ra một cách đọc cho là đúng mà tiếng Việt phải theo. Thậm chí,
chúng tôi cũng đọc được đâu đó viện dẫn nguồn gốc tiếng Trung quốc để qui định
cho cách viết I và Y,
với nhận xét ví dụ phải viết li (khai) vì từ này là Hán Việt, còn ly (cái ly uống nước) vì là từ thuần
Việt. Chúng tôi thực lòng không hiểu được tại sao lại có qui định như vậy, do
một qui ước nào mà có. Chúng tôi cho rằng, như
trên đã thảo luận, kí âm là kí
hiệu qui ước ghi lại âm thanh
của một tiếng nói. Do đó, chúng ta chỉ căn cứ vào phát âm của tiếng nói đó để
ghi lại thành kí hiệu và qui
ước cho kí hiệu đó một ý
nghĩa. Các kí hiệu này phải như thế nào để khi phát âm ngược lại sẽ phát ra âm
thanh của tiếng nói đó. Giả dụ chúng ta đến một vùng xa lạ, phải học nói ngôn
ngữ xa lạ đó. Nếu họ đã có kí hiệu qui
ước, chúng ta sẽ phải học các kí hiệu đó để đọc viết ngôn ngữ của họ. Nếu
họ chưa có, chúng ta sẽ kí âm tiếng nói của họ bằng các qui ước hoặc của ngôn ngữ của chính chúng
ta, hoặc ngôn ngữ nào khác chúng ta biết nếu chính ngôn ngữ của chúng ta không
có. Chúng tôi nhớ lúc còn bé học tiếng Anh, vì không thể có qui ước tương đương
trong tiếng Việt để kí âm âm TH của mạo từ the, chúng tôi phải tự đặt cho nó một kí hiệu riêng. Không biết người Nhật và người
Đại hàn, khi kí âm cách họ đọc các từ Trung quốc có phải suy tính xem người
Trung quốc phát âm từ ngữ đó như thế nào để định đoạt cách đọc và việc kí âm
hay không. Tiếng Việt chúng ta mượn các từ Trung quốc mà chúng ta thiếu, nhất
là thời trước khi nền văn minh của chúng ta còn lệ thuộc quá nhiều vào nền văn
minh Trung quốc, và vào đầu thời kì khi chữ quốc ngữ mới hình thành. Chúng ta
mượn tiếng Trung hoa nhưng đọc theo cách
của chúng ta mà tôi nghĩ
nhiều lúc chẳng chút liên hệ nào đến cách phát âm của người Trung quốc, cả âm cả thanh của từ ngữ đó. Một ví dụ có thể đan cử
là cụm từ đa tạ. Chúng ta phát âm đa tạ (một bằng một trắc), trong khi
người Trung quốc đọc theo giọng Bắc Kinh (quan thoại) là toa xê (cả hai đều bằng). Người Trung quốc
nghe chúng ta nói đa tạ, chẳng hiểu chúng ta nói gì, còn chúng ta nghe họ nói
toa xê cũng chẳng hiểu, mà còn nghe như họ nói đến toa xe!
Theo
thiển ý của chúng tôi, việc chúng ta mượn các từ Trung hoa rồi đọc
theo cách đọc của chúng ta, và việc các ngôn ngữ châu Âu như tiếng Pháp, tiếng
Tây ban nha vv. vay mượn các từ ngữ Latin và Hilạp hoàn toàn khác nhau trong
cách đọc và chính tả. Các ngôn ngữ châu Âu khi vay mượn vẫn giữ lại nhiều phần
chính tả của từ gốc vì họ chỉ đọc trại từ gốc chút ít. Họ vẫn giữ kí hiệu qui ước của từ gốc. Ví dụ, từ orchestra (Anh) hoặc orchestre (Pháp) vay mượn từ từ orchēstrā (Hilạp) nên vẫn giữ nguyên từ gốc
và phụ âm kép CH vẫn phải
đọc với âm K, không đọc
theo qui ước của tiếng Pháp chẳng hạn, CH đọc thành âm S tiếng Việt. Lí do là cách kí âm và cách đọc của
các ngôn ngữ châu Âu đó nhiều phần giống nhau và nhiều phần giống với ngôn ngữ
gốc mà họ vay mượn. Họ không đọc từ orchestra ví dụ trên thành cái gì nghe như “ốc
kiệt ta rả,” nói ví dụ. Chúng ta không như vậy. Trung quốc ngày trước vay
mượn từ inspiration từ tiếng Anh tiếng Pháp rồi kí âm thế
nào đó để chúng ta đọc cụm từ kí âm tiếng Trung quốc đó theo tiếng Hán Việt là yên sĩ phi lí thuần. Cụm từ này
được dùng làm định nghĩa cho từ inspiration có ghi trong từ điển tiếng Việt
ban đầu! Cả Tây cả Tàu khi
nghe người Việt đọc như vậy chắc ngẩn người ra không biết chúng ta người đang
nói gì! Chúng ta đọc từ Trung quốc theo âm và thanh hoàn toàn riêng của chúng ta.
Không riêng tiếng Trung quốc, các tiếng khác được chúng ta vay mượn nhiều khi
cũng như vậy. Ví dụ, từ gendarme (Pháp) được chúng ta vay và đọc là sen đầm, thì nếu truy nguyên từ
gốc để viết chính tả, chúng ta sẽ phải truy nguyên làm sao? Tại sao lại kí âm
bằng chữ S (sen) trong khi trừ vùng Bình Trị,
đâu đâu cũng đọc là xen đầm phải kí âm bằng chữ X. Cũng vậy, trong các từ điển thuở
tiếng Việt phôi thai, từ ngữ tiếng Latin episcopus được vay mượn và kí âm thành vít vồ để chỉ vị giáo sĩ đứng đầu một giáo
phận của Giáo hội Công giáo mà ngày nay gọi là vị giám mục. Như thế cho thấy
cách đọc từ Hán Việt của chúng ta không noi theo cách đọc của người Trung quốc
khi họ đọc tiếng của họ. Nếu nhận xét này là đúng, thì tại sao chúng ta phải
quay lại tìm hiểu cách đọc của người Trung quốc để định rằng từ Hán Việt này
phải viết bằng TR, từ kia CH, từ này dấu hỏi, từ kia dấu ngã, hoặc phải đọc thế này thế nọ mới đúng?
Chúng tôi
cho rằng, việc qui định cách phát âm tiêu chuẩn cho tiếng chúng ta tùy thuộc
vào việc chúng ta công nhận cách
phát âm nào trong đất nước
chúng ta là đúng nhất, theo qui ước và thỏa thuận. Đất nước chúng ta có ba miền nam trung
bắc với ba cách phát âm khác nhau nhưng tương đối chung cho mỗi miền vì trong
mỗi miền lại có nhiều phụ miền khác mà cách phát âm biến đổi nhiều ít. Cách phát âm đó là tiếng nước ta, bất kể gốc gác
từ đâu chúng ta đã vay mượn. Tại sao chúng ta lại phải đi tìm một cách phát âm
nào đó để bảo rằng đó mới là
cách phát âm chuẩn cho tiếng
Việt chúng ta? Người Tàu người Tây phát âm tiếng nói của họ, có phát âm thành
tiếng Việt cho chúng ta đâu, dù chúng ta vay mượn tiếng của họ? Chúng ta nói
tiếng Việt của chúng ta và phát âm như thế đó, sao lại gọi là không chuẩn cho
chính chúng ta? Dù có qui ước này nọ được đưa ra, thì cũng chỉ là
qui ước cho các văn kiện chính thức (học đường, hành chánh), còn địa phương vẫn
phát âm tiếng Việt theo cách phát âm của riêng địa phương đó mà chẳng cần tra
cứu Tàu Tây nào cả. Giả sử chúng ta không có được cái may mắn kí âm bằng mẫu tự
Latin như hiện nay, và vẫn phải kí âm bằng các kí hiệu gọi là chữ Nôm, Truyện
Kiều sẽ mở đầu bằng các kí hiệu chữ Nôm thế nào đó để người Miền Bắc sẽ đọc là Chăm năm trong cõi người ta,
còn Miền Trung Quảng Bình Quảng Trị sẽ đọc Trăm
năm trong cọi người ta, Thừa
Thiên đọc Trăm năm trong coại
người ta, Quảng Nam Quảng
Ngãi đọc Trem nem trong coãi
người toa. Và ai bảo tất cả
cách phát âm khác nhau đó không phải là tiếng Việt? Và lúc đó cũng chẳng có vấn
đề tranh cãi về chính tả, vì kí hiệu Nôm đọc cách nào cũng được. Có tranh cãi
chăng là tranh cãi kí hiệu Nôm nào được qui ước là chuẩn nhất để mọi người kí
âm theo.
Nói
thì nói cho cùng lí lẽ nhưng chắc cũng không còn nhiều từ phải san định
cách phát âm để từ đó qui định kí hiệu chính tả vì đã có nhiều từ ngữ đã được
đọc cách này cách khác thành thói quen rồi. Một vài ví dụ về các từ còn có thể
tranh cãi: chia xẻ hay chia sẻ; xử dụng hay sử dụng? Trước kia vẫn viết với xẻ và xử,
rồi đùng một cái có qui định khác. Tại sao lại phải qui định khác khi khắp nơi
đều đọc là xẻ và xử ngay cả vùng Bình Trị? Xán lạn hay sán lạn? Hình như qui định là xán vì từ điển Trung quốc ghi là phải đọc
như thế!
4. Viết I hay Y:
Chúng tôi
cho rằng không có cách đọc I và Y phân biệt khác nhau trong tiếng Việt.
Cả hai chữ khi được dùng như nguyên âm đều được phát âm thành I nghe
như nhau. Cách đọc I ngắn
hơn Y có thể có trong ngôn ngữ khác, nhưng không áp dụng cho ngôn ngữ
của chúng ta. Khi được dùng như nguyên âm kép thì Y lại không còn giữ âm I nữa
mà đi với nguyên âm cùng đi với nó tạo thành một âm hoàn toàn khác biệt. Đây là
một qui ước về cách phát âm một tập hợp kí hiệu,
hoặc cách phát âm liền mạch hai nguyên âm đi với nhau trước sau, thay vì sáng
tạo ra một kí hiệu khác. Nếu I và Y khi
dùng làm nguyên âm đều phát âm là I, thì tại sao phải rườm rà khi I khi Y để không tạo ra một cái gì hơn lên
ngoại trừ gây thêm bối rối?
Do đó,
chúng tôi xin mạn phép nói là sau một thời gian viết lách với chữ I và Y theo thói quen thông thường và theo
các từ điển có thể có được, bản thân chúng tôi tự cho phép mình viết tiếng Việt
với I (i ngắn) ngoại trừ các trường hợp sau
đây:
- Viết Y khi đi với một nguyên âm khác để làm thành
nguyên âm kép (tác giả Đoàn Xuân Kiên gọi là tổ hợp nguyên âm) tạo ra
một âm khác ví như AY, OAY, UY. Điều nàychúng
tôi cho là hiển nhiên vì chữ Y trong trường
hợp này không còn giữ âm I nữa mà tạo ra
một âm hoàn toàn khác. Nếu không dùng kí hiệu Y thì chắc chắn sẽ tạo ra một
âm không đúng với âm mà từ ngữ đó chuyên
chở, ví dụ lay và lai; loay và loai; thụy và thụi. Điều
này cũng đúng với các ngôn ngữ khác sử dụng
chữ Y khi không xem Y là một nguyên âm phát âm thành I hoặc thành âm nào khác,
ví dụ AI trong tiếng Anh (try), mà xem như một thành
tố làm thành nguyên âm kép, ví như trong từ day tiếng
Anh, hoặc xem là một phụ âm như trong từ Yamaha kí âm tiếng
Nhật, hoặc Yankee tiếng Anh. Trong trường hợp sau, phụ âm Y sẽ đọc
nghe như phụ âm kép GI của tiếng Việt trong
từ giờ.
- Viết I (i ngắn) khi đi với QU vì chúng
tôi nghĩ rằng I trong trường hợp này vẫn giữ âm I mà không
làm thành một âm nào khác. Không thể có lầm lẫn nào xẩy ra
khi viết qu với I(i ngắn) mà không viết với Y (i
dài). Chúng ta không thể viết qui để đọc cách nào khác biệt với quy,
và cũng không thể lầm lẫn giữa qui với cui.
Riêng âm ghép (U)IT khi đi với QU, chúng tôi nghĩ vẫn viết với I (i
ngắn), ví dụ quấn quít chứ không viết với Y như
qui định (trường hợp theo sau QU)
trong Bách khoa toàn thư đã trích dẫn ngay từ đầu bài. Cũng
xin nói thêm, hình như chưa từng thấy ai viết quấn quýt, hoặc quả quýt với chữ Y (i
dài) để theo đúng qui luật qui định trong Bách
khoa toàn thư. Trong hai cuốn từ điển cùng do Trung tâm khoa học xã hội và nhân
văn quốc gia—Viện Ngôn ngữ học xuất
bản, Từ điển Việt Anh viết (quả) quýt, Từ điển Anh Việt thì viết (quả)quít!
Viết Y khi đi một mình hoặc đứng đầu
từ ví như Y, Ý, Yên. Ở đây chúng tôi xin đồng ý với GS.
TS. Nguyễn Đức Dân về lí do hoàn toàn thẩm mĩ hoặc thói quen,
nhìn quen mắt. Viết đồng ý hay đồng í, iên hay yên, thì khi đọc
lên chẳng có gì khác biệt, nhưng chỉ thấy không đẹp
mắt, hoặc đúng hơn nhìn không quen mắt mà thôi. Tự nó, lí do
thẩm mĩhình như không phải là thành tố quyết định
mà chính là vì lí do thói quen, nhìn quen
mắt, như đề cập trong Quy tắc chính tả tiếng Việt và
phiên chuyển tiếng nước ngoàitrích dẫn trước. Chúng ta vẫn thấy các từ với âm I đứng
một mình hoặc đứng đầu từ vẫn viết với I (i ngắn)
ví như ỉ ôi, ầm ỉ, như im lặng, inh ít vv. Vì đã
quen mắt nên chẳng ai cảm thấy khó chịu, hoặc cho là trái qui tắc.
Ngược lại là khác, chúng ta sẽ khó chịu ngay nếu các từ vừa
kể được viết bằng chữ Y (i dài).
Cũng như thế, với nguyên âm ghép UYCH, UYÊN, UYẾT, UYNH, UYT, chỉ vì lí do
thẩm mĩ hoặc thói quen, nhìn quen mắt.
- Ý kiến đề nghị:
Theo thiển ý của
chúng tôi, quyết định về chính tả của một tiếng nói không
thể là một quyết định đơn
thuần hành chánh được chính phủ, quốc hội, hay bộ, ủy ban, cơ quan, nào ban hành như ban
hành một đạo luật, một sắc luật, như tác giả Đoàn Xuân Kiên đã viết trích dẫn trước, xin được dẫn lại:
hành một đạo luật, một sắc luật, như tác giả Đoàn Xuân Kiên đã viết trích dẫn trước, xin được dẫn lại:
Về mặt chính tả thì ban chủ biên nêu
rõ là họ theo đúng các Quy định về chính tả tiếng Việt
và về thuật ngữ tiếng Việt trong các sách giáo khoa, được ban
hành theo Quyết định số 240/QÐ Ngày 5.3.1984 của Bộ Trưởng
Bộ Giáo Dục, hoặc như tác giả Trần Vinh viết cũng đã được
trích dẫn bên trên. Các cơ quan hành chánh, dù đó là Bộ trưởng Bộ Giáo dục, nếu
có ban hành một quyết định cũng chỉ có tính cách thừa
nhận một
quyết định đã do ai khác, nơi nào khác đưa ra. Ai khác, nơi nào khác ở đây cũng
không thể chỉ là một số người được các cơ quan hành chánh ban cho quyền đưa ra
quyết định. Qui ước cho kí hiệu gọi là chính tả để kí âm một ngôn ngữ không thể
là một “luật bắt buộc mọi công dân phải tuân theo” như tác giả Trần Vinh viết.
Luật tư pháp nếu không tuân theo sẽ bị trừng phạt, còn qui luật chính tả, nếu
có người công dân không tuân theo thì sao? Bị bỏ tù chăng? Có phải công dân nào
cũng là học sinh đi thi để bị người buộc người khác thi hành luật (law
enforcer) đánh rớt vì phạm “trường qui.”
Chúng tôi
nghĩ rằng, quyết định này phải do nghiên cứu và đề nghị của các học
giả, các nhân vật nhìn xa trông rộng quan tâm đến chính tả tiếng Việt, hay nói
cách khác quan tâm đến việc đưa ra các kí
hiệu qui ước để kí âm tiếng
Việt cách nào cho đúng và thuận tiện. Các học giả, các nhân vật này không chỉ
giới hạn trong một tổ chức, một cơ quan, một nhóm người được chỉ định mà phải
thoáng rộng đều khắp. Căn cứ vào đâu? Trước hết vào chính cách phát âm tiếng
Việt của người Việt qua các miền, các vùng, để rút ra một cách phát âm gọi là
tiêu chuẩn. Chúng ta không thể căn cứ vào một cách phát âm nào đó, dù đó là
phát âm qui ước rút ra từ qui ước của một ngôn ngữ nào khác, ví dụ như tiếng
Trung quốc hoặc tiếng Pháp hay tiếng Anh, để qui định rằng đó là cách phát âm
đúng cho chúng ta. Đúng nghĩa là gì? Có phải là được nhiều
người chấp nhận không? Thế cách phát âm của một miền nhiều người như thế tại
sao lại không là đúng để phải theo cách phát âm của miền
khác? Theo định nghĩa “đúng” tương đối như vừa thảo luận, chúng ta cho rằng
Miền Bắc phát âm các cuối âm ví như N, NG, C, T vv đúng nhưng lại không đúng
các âm đầu như TR, S vv., Miền Trung vùng Quảng Bình, Quảng Trị phát âm các âm
đầu và âm cuối đúng, nhưng lại không phân biệt dấu hỏi dấu ngã, thậm chí đôi
khi còn khó phân biệt giữa dấu huyền và dấu nặng, vân vân và vân vân.
Tiếng Việt chúng ta,
về phát âm, khó mà qui định phát âm của một miền nào
làm phát âm chuẩn như trình
bày trên. Khi phát âm đã không có tiêu chuẩn, thì làm sao có được kí hiệu qui ước tiêu chuẩn cho ngôn ngữ? Tiếng Pháp lấy cách phát âm của người Paris làm chuẩn có phải vì người Paris phát âm tiếng Pháp đúng với tiếng Pháp chuẩn được Hàn lâm viện qui định chăng? Hay ngược lại, Hàn lâm viện chấp nhận cách phát âm của người Paris làm chuẩn vì Paris là thủ đô, rồi cho đó là cách phát âm và chính tả chuẩn của tiếng Pháp? Tiếng Anh tại nước Anh không theo cách phát âm của một vùng nào rõ rệt, dù là London, mà theo qui ước của từ điển. Tiếng Anh tại Mĩ cũng vậy, chỉ theo từ điển. Kí hiệu qui ước chính tả cũng do đó mà đi theo. Nhưng rồi chúng ta thấy có biến chuyển.
Ví dụ, từ often, tiếng Anh nước Anh chỉ có một cách đọc, còn tiếng Anh nước Mĩ lại có hai cách. Khi du nhập tiếng nước ngoài vào, ví dụ vice versa, người Mĩ không giữ cách đọc nguyên thủy của tiếng Latin (phiên âm tiếng Việt vi-sê ver-xa) mà đọc theo cách người Mĩ vaixơ y như cách đọc từ vice nghĩa là cấp phó của cấp trưởng, và vớcxa y như cách đọc từ versus họ đã có, hoặc ví dụ de luxe tiếng Pháp, họ đọc thành đi lớcx y như từ luxury mà họ đã có. Nghĩa là , họ không lệ thuộc vào cách phát âm qui ước của ngôn ngữ gốc để từ đó qui định cách phát âm của ngôn ngữ của họ. Từ con nít con nôi (nít nôi) tiếng Việt cũng đã được người Mĩ đưa vào và kí âm thành nitnoid, để chỉ chuyện không đáng kể, không quan trọng, và chắc chắn họ cũng chẳng quan tâm đến tiếng Việt chúng ta đọc nó như thế nào mà chỉ quan tâm đến cách đọc nó cho người Mĩ hiểu.
Tại sao chúng ta chưa có được một từ điển có đủ uy tín để mọi người nhận đó là tiêu chuẩn? Đó có phải là vấn đề chúng ta phải đặt ra và giải quyết không? Tại sao chúng ta không thể thừa nhận từ
điển này, từ điển kia đủ uy tín để được nhận làm tiêu chuẩn? Có phải tại vì những người làm ra các cuốn từ điển đó chưa đủ uy tín cho chúng tin rằng chính tả và định nghĩa trong đó hội đủ tiêu chuẩn cần có không?
bày trên. Khi phát âm đã không có tiêu chuẩn, thì làm sao có được kí hiệu qui ước tiêu chuẩn cho ngôn ngữ? Tiếng Pháp lấy cách phát âm của người Paris làm chuẩn có phải vì người Paris phát âm tiếng Pháp đúng với tiếng Pháp chuẩn được Hàn lâm viện qui định chăng? Hay ngược lại, Hàn lâm viện chấp nhận cách phát âm của người Paris làm chuẩn vì Paris là thủ đô, rồi cho đó là cách phát âm và chính tả chuẩn của tiếng Pháp? Tiếng Anh tại nước Anh không theo cách phát âm của một vùng nào rõ rệt, dù là London, mà theo qui ước của từ điển. Tiếng Anh tại Mĩ cũng vậy, chỉ theo từ điển. Kí hiệu qui ước chính tả cũng do đó mà đi theo. Nhưng rồi chúng ta thấy có biến chuyển.
Ví dụ, từ often, tiếng Anh nước Anh chỉ có một cách đọc, còn tiếng Anh nước Mĩ lại có hai cách. Khi du nhập tiếng nước ngoài vào, ví dụ vice versa, người Mĩ không giữ cách đọc nguyên thủy của tiếng Latin (phiên âm tiếng Việt vi-sê ver-xa) mà đọc theo cách người Mĩ vaixơ y như cách đọc từ vice nghĩa là cấp phó của cấp trưởng, và vớcxa y như cách đọc từ versus họ đã có, hoặc ví dụ de luxe tiếng Pháp, họ đọc thành đi lớcx y như từ luxury mà họ đã có. Nghĩa là , họ không lệ thuộc vào cách phát âm qui ước của ngôn ngữ gốc để từ đó qui định cách phát âm của ngôn ngữ của họ. Từ con nít con nôi (nít nôi) tiếng Việt cũng đã được người Mĩ đưa vào và kí âm thành nitnoid, để chỉ chuyện không đáng kể, không quan trọng, và chắc chắn họ cũng chẳng quan tâm đến tiếng Việt chúng ta đọc nó như thế nào mà chỉ quan tâm đến cách đọc nó cho người Mĩ hiểu.
Tại sao chúng ta chưa có được một từ điển có đủ uy tín để mọi người nhận đó là tiêu chuẩn? Đó có phải là vấn đề chúng ta phải đặt ra và giải quyết không? Tại sao chúng ta không thể thừa nhận từ
điển này, từ điển kia đủ uy tín để được nhận làm tiêu chuẩn? Có phải tại vì những người làm ra các cuốn từ điển đó chưa đủ uy tín cho chúng tin rằng chính tả và định nghĩa trong đó hội đủ tiêu chuẩn cần có không?
Sau khi đã định
cách phát âm tiêu chuẩn, chúng ta sẽ định ra các kí hiệu qui ước
theo phát âm tiêu chuẩn đã định. Sao kí hiệu qui ước này
lại đúng hơn kí hiệu qui ước khác, trong khi như thảo luận trên,
kí hiệu chỉ được qui ước cho một ý nghĩa để kí lại một âm
thanh? Liên hệ trở lại qui ước kí hiệu âm nhạc, giả sử trước đây một ai đó đã
qui ước một kí hiệu nào khác (ví như kí hiệu của nhạc bình ca Giáo hội Công
giáo Rôma trên đường kí âm gọi là dòng nhạc chỉ có bốn hàng kẻ), thì kí hiệu đó
có phải là qui ước đúng hay không? Riêng kí hiệu nhạc bình ca vẫn được cho là
đúng nên hiện thời vẫn tồn tại song song với một loại kí hiệu khác gọi là kí
hiệu quốc tế. Như thế cho thấy đúng hay không đúng chỉ là một tiêu chuẩn qui
ước được mọi người hoặc một đa số chấp nhận.
Các kí hiệu
qui ước đó phải gọn gàng
nhất, đọc ngược trở lại đúng với tiếng nói nhất, và không gây phiền toái nhất
cho người học đọc học viết, nhất là trẻ em. Chỉ thêm một thế hệ trẻ nữa thôi là
không mấy ai biết đến truy cứu Khang Hi Thiều Chửu để tìm ra cách đọc tiếng
Trung quốc của người Trung quốc rồi qui về cho cách đọc tiếng Hán Việt của
tiếng Việt chúng ta. Và chỉ vài thế hệ nữa, từ Hán Việt mượn từ tiếng Trung
quốc chắc chắn cũng giảm đi rất nhiều vì thế hệ tương lai không còn chịu ảnh
hưởng nhiều của tiếng Trung quốc nữa.
Khi đã ổn định cách
phát âm và kí hiệu qui ước tiêu chuẩn, chắc chắn sẽ không còn thắc mắc viết I hay Y, có G hay
không G, TR hay CH, dấu hỏi hoặc dấu
ngã vv. nữa.
Lời nói sau cùng của chúng
tôi là rằng, như đề bài đã nêu lên, đây không phải là một nghiên cứu về nguồn gốc kí âm qui ước của tiếng Việt chúng ta, mà chỉ là một
vài suy nghĩ thô thiển về cách kí âm tiếng Việt của một người
thô thiển không một chút chuyên môn nào về ngôn ngữ học. Chúng tôi chỉ xin mạo
muội lạm bàn các điều mà bản thân chúng tôi vì là người Việt viết tiếng Việt
không thể không suy nghĩ đến.
TRẦN HỮU THUẦN
jbtranthuan@hotmail.com