Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Tuesday, January 9, 2018

THƠ VÕ VĂN LUYẾN NHƯ LÀ MỘT ĐAM MÊ TAO NHÃ MÀ NHỌC NHẰN… * Lê Thiên Minh Khoa


Hai nhà thơ mới gặp nhau tại nhà LTMK, TP Bà Rịa.         

Bình thơ:
                        
THƠ VÕ VĂN LUYẾN NHƯ LÀ MỘT ĐAM MÊ TAO NHÃ MÀ NHỌC NHẰN…

                                LÊ THIÊN MINH KHOA
            
   … Tôi chưa từng gặp nhà thơ Võ Văn Luyến, nhưng khi vừa nhận được tập thơ mới nhất của anh - “Người Câu Bóng Mình” qua EMS, tôi đọc ngay, đọc nhanh như tác giả đã cho chuyển phát nhanh tặng tôi.
       Ấn tượng đầu tiên là tên tập thơ. Cũng như hai tập thơ trước:  Trầm Hương Của Gió (NXB Thuận Hoá, 2003), Sự Trinh Bạch Của Ngọn Nến (NXB Hội Nhà văn, 2007), tên tập thơ “Người Câu Bóng Mình” (NXB Hội Nhà văn, 2011) mang tính ẩn dụ, nhưng lạ lẫm, không tượng trưng- ước lệ, là ẩn dụ “phi giao tiếp”; nó  "ám ảnh”, “khích động” hứng khởi trong tôi…
        Đoc xong tập thơ, tôi lại “bảo lưu” ý kiến trước đây khi tôi  viết về phong cách thơ VVL: “Ngày càng lắng sâu vào triết học với tâm thái vừa tự thoại – vừa đối thoại. Như là một đam mê tao nhã mà nhọc nhằn (những câu thơ ngấu bùn/ tạc người nông dân lấm láp/ và nụ cười in trên gương mặt– Thơ VVL) để tiếp cận, chiêm nghiệm hiện thực hầu  tung phá, đột phá, sáng tạo nên những hình tuợng thơ đắt địa, táo bạo, tươi rói, mà lắng động cảm xúc và trí huệ….”
      Qua tập thơ nầy, tôi cảm nhận thêm nhiều điều về/ở thơ anh (thực ra, đã có từ trước trong thơ anh). Với ngôn ngữ dung dị, chân quê, chất thơ bay bổng mà rất khúc chiết, anh gói ghém trong thơ những khám phá mới lạ, những tứ thơ độc đáo, “không giống ai”, cả về những đề tài quá quen thuộc sáo mòn mà các thi nhân đã đi “mòn đuờng, chết cỏ”. Chẳng hạn, về đề tài quê hương Quảng Trị. Đã hình thành mấy lối mòn.  Hoặc tự sự theo kiểu “đi bộ”: Ta đã về đây Quảng Trị ơi!… rồi kể lể các địa danh: Thành Cổ, Cam Lộ, Gio Linh, Bến Hải … được phân bố đều cho các câu thơ, khổ thơ trong bài. Hoặc cũng viết về một vùng đất, con người cụ thể ở Quảng Trị mà chỉ để ôn lại kỷ niệm rồi yêu thương, luyến tiếc, ân hận, tự hào…v.v.. và v.v … Dĩ nhiên không phải ai cũng men theo các “lối mòn” đó. VVL cũng thế. Riêng về câu chữ, anh không những kể, tả kết hợp mà còn “nén”,  nên rất gợi – gợi nhiều tầng. Như là vùi sâu, nhấn chìm tâm tình , suy tưởng xuống để rồi do sự “cựa quậy” của hồn chữ, lại tự nổi lên với người đọc đồng điệu.
            Trong thơ VVL, nhiều ý tưởng tâm trạng, cũng có người đã trải qua, nhưng không nắm bắt được, diễn tả được. Tôi cũng vậy, đọc thơ của Luyến có khi tôi thấy “bóng mình” trong đó, có điều tôi chưa “câu” được, chưa viết ra được thôi. À… đến đây, tôi lại nhớ đến câu nói nổi tiếng của nhà thơ Gamzatôp: “Nhân dân sản sinh ra nhà thơ để nói hộ nhân dân những điều mà nhân dân không nói được”. Mà thú thiệt, có những bài thơ của Luyến khơi gợi rất mơ hồ, mới đọc tôi chỉ “cảm” mà chưa “hiểu” hết được.  Cảm, chưa hiểu nhưng xúc động và thấy hay. Có người cho rằng thơ anh gây “đốn ngộ”, tôi đọc thơ anh lại “tiệm ngộ” dần về cảm thức chìm sâu trong tình, từ và tứ thơ của anh…
                                    LÊ THIÊN MINH KHOA


(*):Trích trong “ Đối ngọn đèn khuya” (Võ Văn Luyến, nghiên cứu  và phê bình, NXB Thuận Hóa, 2014)
READ MORE - THƠ VÕ VĂN LUYẾN NHƯ LÀ MỘT ĐAM MÊ TAO NHÃ MÀ NHỌC NHẰN… * Lê Thiên Minh Khoa

CÂU THƠ VIẾT ĐỂ THƯƠNG MÌNH / ƠN EM... *Thơ Tịnh Đàm

Tác giả Tịnh Đàm 

CÂU THƠ VIẾT ĐỂ THƯƠNG MÌNH 

Câu thơ viết để thương đời,
Xót thân trăm nỗi vẫn thời long đong!
Buồn đau giấu tận đáy lòng
Cho niềm vui đến vỡ trong tiếng cười.
Câu thơ viết để ru đời,
Xin trăm năm mãi vọng lời yêu thương.
Tóc xưa, giờ trắng màu sương
Mỏng manh số phận biết phương nào nhờ?!
Câu thơ viết để còn mơ,
Gối tay, nằm mộng bên bờ hư không!


ƠN EM...

Ơn em,
Tôi được thấy mình,
Vẫn luôn thơ dại...
Trong tình yêu em.

TỊNH ĐÀM
(HÓC MÔN, TPHCM.)


READ MORE - CÂU THƠ VIẾT ĐỂ THƯƠNG MÌNH / ƠN EM... *Thơ Tịnh Đàm

PHONG LAN CẢM HỨNG / CHO DÙ * Thơ Nguyễn Đại Duẫn


PHONG LAN CẢM HỨNG

Một đóa hoàng lan đẹp giữa trời
Bừng lên rạo rực nỗi lòng tôi
Rực rỡ khoe màu chiều tím biếc
Hương thơm dịu ngọt tỏa khắp nơi
      
Một đóa hoàng lan chỉ mình thôi
Để lòng xao xuyến nỗi đầy vơi
Chiều nay ngây ngất chùm lan nở
Gửi gắm niềm riêng một khoảng đời!


CHO DÙ

Một ngày không gặp em
Sóng bạc đầu ào ạt
Ngày không nghe tiếng em
Lòng bồi hồi khao khát
Muốn làm cơn gió mát
Thổi dào dạt tim em
Để càng được yêu thêm
Trong vòng tay xiết chặt
Nếu mai mình không gặp
Sóng bạc đầu bạc thêm
Mai không nghe tiếng em
Gió buồn thôi tiếng hát
Mai lỡ hẹn không gặp
Anh sẽ bắt đền em
Ôi! Hai nửa con tim
Sóng vỗ về nỗi nhớ
Mai cho dù cách trở
Tình ta vẫn trong nhau

Nguyễn Đại Duẫn

Tiểu khu 5, thị trấn Quán Hàu, Quảng Ninh, Quảng Bình.
READ MORE - PHONG LAN CẢM HỨNG / CHO DÙ * Thơ Nguyễn Đại Duẫn

ĐỌC TẬP SÁCH "HOÀI NIỆM THẦY CÔ GIÁO" NHỚ TỚI NGƯỜI CHÚ RUỘT, THẦY GIÁO LÊ MẬU TÂM - Lê Mậu Trúc


     


ĐỌC TẬP SÁCH "HOÀI NIỆM THẦY CÔ GIÁO" 
NHỚ TỚI NGƯỜI CHÚ RUỘT - THẦY GIÁO LÊ MẬU TÂM

  Qua anh Lê Mậu Duy, dạy cùng trường với anh Đoàn Đức trước đây, tôi được tác giả tặng tập “Hoài niệm Thầy Cô giáo”. Nhờ đọc tập hồi ký này (đặc biệt đọc đi đọc lại bài viết về thầy Lê Mậu Tâm, chú ruột của tôi), tôi mới hiểu vì sao hệ thống giáo dục miền Nam trước 1975 nhiều hơn 2 năm so với miền Bắc. 
Tôi cũng ngạc nhiên khi học sinh lên lớp 12 không tiếp tục học Văn mà học Triết, như thế có đứt đoạn không, nhưng rồi tôi hiểu trong văn chương đã bao gồm triết lý, nên Triết học soi rọi cho học sinh hiểu rõ phần văn học từ lớp 6 đến lớp 11, hiểu rõ tư tưởng và quan điểm của tác giả khi họ sáng tác. 
Một ngạc nhiên nữa là thầy giáo tự do nghiên cứu các tài liệu khác nhau, vì thế bài giảng dù tương đồng nhưng vẫn có nhiều dị biệt, thậm chí đối lập. Vậy mới có câu “Cao đồ xuất danh sư”. Phương pháp giảng dạy cũng thế, không có khuôn mẫu nào cả, miễn sao hấp dẫn học sinh chủ động tìm tòi học hỏi để phát huy năng lực của mình tốt nhất. 
Cái hay của anh Đức, qua bài viết về bảy thầy cô giáo, là đánh thức mối đồng cảm trong lòng các bạn thân. Họ có chung một quan điểm: Giáo dục là trồng người trên nền tảng nhân bản, dân tộc và khai phóng, từ đó mới biến “cái vô thức thành hữu thức” như ngôn từ triết học của anh Nguyễn Lê Văn; không chỉ hình thành nhân cách cho học sinh mà còn biến thành “trí huệ hoằng viễn với tình cảm phú dật”… Như thế là chúng ta đã đem “hạt bụi dấu vào trần gian” để nó trở thành một chủng tử. Chủng tử đó là “con người biết tư duy, có đẩy đủ lòng yêu thương, nhân cách và tri thức để làm người lương thiện, người tử tế trong xã hội văn minh”. Phải chăng anh Lê Văn muốn nói đến triết lý giáo dục mà mỗi thầy cô trong tập sách này đã áp dụng vào phương pháp giảng dạy khai phóng của họ? Sao tôi có cảm nhận chủ quan như thế đấy. Tôi lại cảm thấy an ủi cho chú tôi khi anh kết thúc lời giới thiệu: “Các thầy cô chúng ta dù đã ra đi hay còn lại, sẽ sống mãi trong trái tim, trong ký ức của những người học trò trường Nguyễn Hoàng”.

Chú ơi! có bằng lòng và vui vì có những học trò như thế không? Riêng cháu khi đọc đến trang cuối cùng của tập sách, cháu bị ký ức dẫn dắt trở lại ngày xưa ấy mà tưởng như vừa mới hôm qua…
Đó là tháng 6/1975 mẹ cháu vội vã xin giấy phép về quê! Ngày ấy giấy phép chỉ cho đến  Vĩnh Linh. Suốt cả ngày đêm đi bộ, mẹ và cháu vào đến cầu  Hiền Lương,  mẹ năn nỉ nhiều  lần: “Tôi muốn về quê để xem ai còn ai mất”.  Chú công an thương cảm nên cho hai người qua cầu. 
             Chiếc xe đò  hiệu Renault thả hai mẹ con cháu xuống chợ  Đông Hà,  mẹ  mua cho cháu một chén thức ăn bột màu trắng đục. Cháu ăn như được ăn một thứ gì ngon nhất trên đời! Ngày về lại nhà ở Nông trường Cờ Đỏ, Nghĩa Đàn, Nghệ An , cháu khoe với bạn rằng: “Vào Miền Nam mình được ăn món gì mà ngon chưa từng thấy!” Sau này cháu mới hiểu đó chỉ là một chén “Đậu hủ”!
Trên chiếc xuồng máy mẹ con cháu xuôi theo dòng sông Thạch Hãn, với làn nước xanh mát của một ngày hè đầy nắng gió. Lên bến đò là làng quê Bích La Thượng của mình với hàng tre dọc theo dòng sông. Bước vào làng cháu thấy những hố “Bom” giống ngoài Nghệ An! Mẹ cháu vội chạy vào nhà ôm chầm lấy “Mệ”(bà nội)  và khóc nức nở như đứa trẻ. Cháu đi sau, thấy một người dáng cao đang lom khom sửa nhà, đó chính là chú. Rồi cả nhà chạy ra bỡ ngỡ hỏi: “Ai đó Mệ?”. Bà nội nói “Đây là vợ thằng Kế anh của cha các cháu đó”. Cả nhà rưng rưng nước mắt. 
Chú Lê Mậu Tâm,  dáng người thong dong hơi gầy, với giọng nói trầm ấm thư thái:   - Chào chị! Đây là con thứ mấy của anh chị?.... 
Một hôm chú dẫn đến chiếc xe Honda 67, nói với cháu: “Chú chở cháu vào Huế và Đà Nẵng cho biết”, nhưng ngày ấy cháu không  dám đi, nên sau này hối tiếc!
Làng quê mình thật tiêu điều sau chiến tranh và cháu hiểu , trên dải đất hình chữ  S này nhiều nơi như vậy, song Quảng Trị là nơi bị tàn phá ác liệt nhất!
Tháng 8 năm 1975 chú đi “Cải tạo” ở Khe Sanh một thời gian ngắn, rồi đưa xuống Cam Lộ cho đến  hết năm 1980 mới về. Sau đó cả gia đình chú đi vùng kinh tế ở mới Đạ Tẻ - tỉnh Lâm Đồng. Tết năm 1981 cháu đến thăm nhà chú, một nơi chưa có đường cho xe đạp đi, muốn sang đường khác bên kia khe suối chỉ có cách  bò trên  những thân cây được bắc làm cầu. Từ xa, cháu đã thoáng thấy dáng người cao gầy của chú cùng với sáu đứa con (4 trai 2 gái) đứa đang phát rẫy, đứa gieo lúa, đứa trồng sắn, khoai…
Năm 1983 chú và cậu đến  thăm gia đình cháu ở Nông trường trồng bông Đá Bàn ở Ninh Hòa- Khánh Hòa và thăm cháu đang học ở Nha Trang. Ngồi trên bờ biển, với giọng trầm ấm chú nói cho cháu nghe bao điều về Triết học Đông phương và Tây phương. Chú giảng giải tính nhân văn của môn Triết. Thật là một con người hiểu sâu và cặn kẻ lĩnh vực Triết học. Nhờ thế sau này cháu hiểu được bức tranh tổng thể của Triết học.
Rất tiếc cháu không được thấy mặt khi chú qua đời tại  Đạ Tẽ - Lâm Đồng ngày 15 tháng 7 năm 1988 chỉ vì bệnh cao huyết áp...
Nay đọc bài viết của anh Đức, cháu tiếc mình không được làm học trò lớp 12C ấy; để được nghe những lời giảng cao diệu của chú; để được tranh luận và hiểu Triết học là môn học về con người; để được hiểu những điều tầm thường và giản dị khi sống với nhau trong cuộc đời này. Nhưng dù muộn vẫn còn hơn không.  Nay cháu đọc bài viết về chú nên hiểu rõ hơn những lời giảng của chú năm nào trên bãi biển Nha Trang. Chú ơi! Giờ cháu hiểu lời của Camus rồi “… trong bầu trời pha trộn nước mắt và ánh sáng trái đất, tôi tập chấp nhận cuộc đời này và đốt lửa lên trong ánh mờ của hội vui cuộc đời…” để mà “ không bất mãn với hiện tại, không nuối tiếc dĩ vãng, chỉ mơ ước một tương lai tốt đẹp hơn” và “biết trân trọng và thông cảm với con người vì đó là một kiệt tác của tạo hóa”. Chắc chú sẽ mỉm cười với đứa cháu phiêu bạt này rồi, như ngày xưa chú cháu mình gặp nhau lần đầu.

Xin Cảm ơn anh Đoàn Đức và các anh chị cựu học sinh Nguyễn Hoàng đã nghĩ đến và tri ân các thầy cô cũ, trong đó có chú Tâm của tôi, cùng với ngôi trường ngày ấy.

                                BRVT, ngày 31 tháng 12 năm 2017                                                        Lê Mậu Trúc
......

* Anh Lê Mậu Trúc là cháu ruột thầy Lê Mậu Tâm

READ MORE - ĐỌC TẬP SÁCH "HOÀI NIỆM THẦY CÔ GIÁO" NHỚ TỚI NGƯỜI CHÚ RUỘT, THẦY GIÁO LÊ MẬU TÂM - Lê Mậu Trúc

CHỊ GÀ MÁI HOA MƠ CỦA TÔI! - Lâm Bích Thủy


tarnh-ga-mai


CHỊ GÀ MÁI HOA MƠ CỦA TÔI!

Má đi chợ mua về một con gà mái và nói: "Để mai nấu cháo đổi bữa". Ba nhốt tạm nó vào cái lồng tre mượn cô Ba Đen. Con gà đẹp lắm! lông màu trắng, lốm đốm đen, giống như những cánh hoa. Ba gọi nó bằng cái tên nghe thinh thích “chị gà mái hoa mơ”. Tôi khoái vô cùng. Nhưng, nghe ba nhắc lại lời má: "Mai má nấu cháo cho cả nhà ăn một bữa thật đã!". Tôi không thích ý nghĩ của ông bà già tí nào; nghĩ đến việc phải ăn thịt con gà mái đẹp thế này thì  tiếc đứt ruột, tội lắm, thương lắm đa!
    Nhà tôi thời gian này là cơ sở sản xuất xà phòng, cung cấp cho thị trường các huyện trong vùng tự do. Hôm sau, tôi nghe ba, má dậy lục đục rất sớm; tôi dây theo. Tuy chưa nghĩ ra cách giải thoát chị gà, nhưng thấy cơ hội ba thì bưng thúng tro đổ vào lu, má thi gánh nước cho vào chảo; cả hai đang bận túi bụi chuẩn bị cho việc nấu xà phòng. Tôi chạy xuống bếp, trước hết phải “liều mình cứu chị gà mái hoa mơ cái đã, hạ hồi phân giải sau!”. Đầu tiên, tôi mở lồng, thả gà ra để thoát án tử hình trưa nay cái đã.
    Được thả, nó chạy một mạch ra tận dãy rào gai bàn chải, ở trước nhà, như trốn ba tôi vậy. Làm xong việc, má bảo “Nước sôi rồi, anh vào bắt con gà dùm em đi anh!”. Ba tôi xuống nhà bếp nhìn thấy cái lồng trống không, liền kêu lên “Má con Thủy đâu? ai mở lồng cho gà ra mất rồi!”. Ông vừa nói vừa nhìn thấy tôi lấp ló sau cánh cửa, nghi hoặc. Rồi, chắc như đinh đóng cột, bằng câu: “Ai mà trồng khoai đất này!?” Ý nói thẳng ra là chẳng ai ngoài tôi. Tôi đứng thập thò xó cửa, lắm lét nhìn ông già với thái độ dò xét hậu quả đến với mình. Nhưng, hôm đó, hình như có bà tiên phù hộ; ông già không truy xét đến cùng tội tày đình của tôi; chỉ chép miệng tiếc rẻ: “Mất toi con gà mái ghẹ ngon quá!”. Đến chiều, trời nhá nhem tối, cả nhà đều kinh ngạc; chị gà mái hoa mơ đã đứng ngay trước sân, mắt dớn dác tìm kiếm cái gì đó như rất quen thuộc nơi này.
    Thấy tôi lấp ló sau cửa, vẻ sợ sệt, ông già trở nên thân thiện. Ông nói với tôi giọng nhẹ tênh: “Bích con! đi lấy cái lồng thử xem nó có chịu vào không.” Tôi mừng quá, chạy đi lấy cái lồng, đặt ngay nơi má để nó hôm qua, khi mới đem từ chợ về. Quả nhiên, thấy cái lồng, gà liền nhảy lên đứng trên miệng. Một lát, rồi một lát nữa nó chui tọt vào, nằm xuống, đưa đôi mắt lờ đờ bị quáng, ngó quanh; nó tỏ ra hài lòng, lấy cái mỏ rỉa đôi cánh với vẻ mãn nguyện.

   Cứ như thế, ngày lại ngày, tôi liều mình cứu nó. Thế là ý muốn nấu cháo thay bữa của má không thực hiện được, và ba cũng thôi ý nghĩ thịt nó nữa rồi, tôi mừng lắm! 

   Nói thật, từ hồi nào, nhà tôi không có thói quen nuôi bất cứ con gì, ba không thích và cũng ít thời gian! Đấy, hôm nọ, cậu ba Thành cho 2 con chó bụ bẫm, dễ thương lắm, mới bỏ bú mẹ; chỉ qua một đêm ở nhà tôi, nó nhớ mẹ khóc la inh tai nhức óc, làm cả nhà không ngủ được. Tờ mờ sáng, ba dậy, bắt tôi mang trả lại cho cậu; tôi năn nỉ nhưng ông già kiên quyết không cho ở thêm giây phút nào nữa. Tôi tội nghiệp cái phận con chó này mấy hôm liền.
    Con gà mái hoa mơ đã hơn chục ngày mà không nghe ba bảo sao. Vậy là ổn rồi đây! Ba còn tỏ thái độ quan tâm, khen nó nữa chứ: “Con gà này ngoan nết đấy”. Nghe ba khen tôi mừng lắm, điều này chứng tỏ ba cũng có cảm tình với chị gà, nghĩa là đồng ý cho tôi tiếp tục nuôi nó!.. Tất nhiên là nó ngoan rồi, không ị bậy trong nhà, sáng tự ra sân kiếm ăn, nhặt thóc vãi để tự nuôi thân này, chiều tối về tự nhảy vào lồng ngủ này v.v...; nó ngoan lắm nhé!

   Từ khi có con gà trong nhà, hình như ba cũng vui. Ba còn biểu lộ tình cảm đến chị gà mái hoa mơ của tôi một cách thái quá nữa là đằng khác. Ông đi tìm gỗ và tre đóng cho nó cái chuồng đặt một nơi cố định, để hàng ngày tôi khỏi xách lồng ra, vào nữa. Ba đặt chuồng ở gian nhà, nay là nhà bà Chuối-người hàng xóm tốt bụng. Ít lâu sau, mào chị gà đỏ tươi, trông chị càng đẹp ra. Rồi chị bắt đầu kêu “cục cục cục, cục tác”, đó là dấu hiệu đã trưởng thành, đang tìm nơi đẻ trứng. Ba hiểu ý, đi lấy rơm lót vào rổ tre, làm cho nó cái ổ để ngay ở góc  chuồng.
    Thế rồi nó đẻ đúng 10 quả. Tuy so, nhưng khá to và đều, 10 quả như một.  Khi ấp, chị gà  say mê quá quên cả ăn, ngủ làm ba sợ nó đói, nên hai lần trong ngày, ông tự tay bốc nắm gạo, vãi ngay trước cửa chuồng rồi kêu - chúc chúc- gọi nó ra ăn, thưởng cái công cần cù của nó.

   Đúng 28 ngày, 9 gà con chào đời. Nhìn những chú gà mới nở, như 9 nắm bông màu vàng biết cử động; mắt chúng thì tròn xoe, đôi chân thì lùn lùn, tíu tít quanh mẹ; khiến ba tôi cực kỳ thích! Còn gà con thứ mười, làm nũng, chưa chịu ra, mẹ gà bỏ mặc! Ba phải ấp thay, bằng cách lấy bông ủ quanh quả trứng, bỏ vào cái họp thiếc rồi đem phơi nắng; chốc chốc chạy ra trông chừng. Suốt cả buổi sáng, nó vẫn cố ì lại trong vỏ. Cuối cùng, ba phải dùng đến tay, gỡ từng mãnh vỏ dính bết lông để lôi nó ra. Nó quặc quẹo, yếu ớt, tội lắm!... Nhưng cũng chỉ ít sau, nghe tiếng kêu chip chip của các anh chị liền chạy theo ra sân đi tìm cái ăn.

   Rồi, có một khuya, tôi bỗng nghe “cạch, cạch, cạch cà rạch cạch; cạch, cạch, cà rạch cạch” nhịp nhàng như ai đang gãy đờn,…Đêm tối, vắng vẻ, tỉnh lặng nghe thế tôi sợ quá. Tôi nghĩ là có con ma đang ngồi ở đầu tôi gãy đàn. Bà ngoại tôi từng dạy: “Nếu lúc nào gặp ma, con không được la, kẻo nó hút hồn thì chết”. Tôi không dám hé răng, chỉ nhẹ nhàng kéo mền trùm kín đầu. Nhưng tiếng cạch, cạch như tộng vào đầu làm chói cả tai tôi. Tôi lại nghe cả tiếng sột soạt ở trước mặt (sau này tôi mới biết đó là tiếng động được phát ra do lông mi của tôi chạm vào mền). Nỗi sợ của tôi lên tới cực điểm, không thể chịu được nữa, tôi la lên: “Ma! ba, má ơi! có ma trên đầu con!” Tiếng la thất thanh của tôi làm kinh động đến ba má. Hai người nhào ra, hỏi dồn: "Đâu, ở đâu?". Tôi liền một mạch như súng liên thanh: “Đó, đó, nó đang gãy đờn trên đầu con đó...”. Ba tôi lật mền, xem tai, xem đầu nhưng không tìm thấy gì. 

   Nhưng, rõ ràng cái âm thanh kỳ quặc đó cũng lọt đến tai ba. Ông liền đưa ngón trỏ, dí dí ở môi, ra hiệu im lặng. rồi thì thầm: “Trộm đang đào tường nhà mình, má đứng ở đây canh chừng, anh đi lấy đòn gánh, phang què giò nó!” Nói rồi, ba rón rén đi lấy đòn gánh, rón rén sục sạo từng góc nhà, xó xỉnh, song vẫn không tìm ra kẻ trộm đào tường nào cả.
    Tiếng “cạch, cạch cạch cà rạch cạch, vẫn đều đều vang lên giữa đêm khuya một cách vô ý thức. Cuối cùng ba phát hiện ra, chị gà mái hoa mơ đang dùng cái mỏ quệt bộ cánh cứng để rũ bỏ những con mạc đang cắn ngứa chị ta. Ôi trời! thế là một phen hú vía với chị gà mái mà tôi đã liều mình cứu sống!
    Đàn gà lớn nhanh như thổi. Con nào cũng phây phây, trông mà phát thèm! Hễ lúc nào có khách thì ba đem thịt một con. Ba khoe với các chú nhà thơ như Phạm Hổ, Nguyễn Đình, Vương Linh, Tế Hanh v.v: “Ta được ăn thịt gà là nhờ công cháu Bích đấy!” Sau đó, ông kể lại gốc gác của sự hình thành về đàn gà cho các chú nghe. Các chú cười sằng sặc, nhìn tôi bằng đôi mắt triều mến và khen nức nỡ “con Bích nhà Yến Lan giỏi thiệt!”.  Nghe khen, mũi tôi vốn dĩ đã to càng to ra trông thấy!
    Đó là lần đầu cũng là lần cuối, nhà tôi nuôi gà đến hai thế hệ. Con gà cuối cùng của “chị gà mái hoa mơ” kết thúc đời mình vừa đúng lúc gia đình tôi chuẩn bị đi tập kết, sau tết 1955.
    Hồi nhỏ, trước khi đi ngủ ba tôi hay kể chuyện để chúng tôi đi vào giấc ngủ mau hơn. Ông thường lấy những chuyện ngụ ngôn của Pháp hoặc từ chuyện đời thường để giáo giục con nhân cách làm người, và cách đối nhân xử thế v.v...  Trước khi kể, ông giả vờ ngoáy rốn, nói: "Ba phải ngoáy rốn mới có chuyện kể cho các con nghe".

   Để chuẩn bị ăn tết (1955), má sai tôi đi mượn bàn ủi. Ủi xong bà sai Tú Thủy đi trả. Chị em tôi hay so bì nên má phải công bằng chứ. Thay vì trả cho nhà bà A, nó lại trả cho nhà bà B, vì nhà bà B gần hơn, trả cho ai mà chẳng được. Đến tối, bà A sang đòi. Má nói: Tôi đã bảo cháu trả ngay từ sáng rồi mà. Bà A tưởng má tham nên la lối om sòm; người thì “chưa trả”, người thì “trả rồi” Xóm nhỏ trở nên xôn xao vì hai người không ai chịu ai... Ba đang làm thơ, nghe ồn bước ra. Biết là có sự nhầm lẫn nên gọi Tú về hỏi rõ sự tình. Vậy là rõ. Ba nói: nhà ta sai, má Thủy đến nhà chị B xin lại và xin lỗi chị A. Má biết lỗi và nhận, thế là đôi bên lại hòa thuận, vui vẻ. Tình  làng nghĩa xóm hoạn nạn có nhau.
    Chuyện giải hòa với bà hàng xóm tối hôm đó, ba ngoáy rốn kể rằng:
    Một gia đình gà, gồm một gà trống và một gà mái với bốn nhóc gà con (hồi đó tôi mới có 3 em). Mặt trời vừa ló đằng Đông, gà trống thức dậy, gáy “Ò ó o o!” trời sáng rồi, cả nhà dậy đi thôi!. Thế là gà mẹ dậy đưa đàn con ra vườn tìm mồi. Ra tới vườn, gà mẹ luôn miệng nhắc nhở đàn gà con “Cục ta cục tác, không được lười nhác tự kiếm mà ăn”. 

   Suốt cả năm bươi rác, tìm cái ăn, bộ lông gà xù xì , bụi bặm bám đầy. Gà mẹ cũng muốn cho nhà mình bằng chị, bằng em nên sai con sang hàng xóm mượn bàn ủi về ủi cho những bộ lông nhà mình sạch đẹp để ăn tết. Ủi xong, gà mẹ bất cẩn, không dặn dò kỹ lưỡng gà con trả cho ai. Do đó sinh ra có cuộc cải vả, suýt làm mất tình đoàn kết xóm giềng. Gà trống phê bình, gà mái biết phải trái, nặng nhẹ đã vui vẻ nhận lỗi. Trong cuộc sống mà ai cũng biết đúng sai để sửa thì  đời thêm hạnh phúc, các con nhớ lấy lời này nhé.

                                                                  Lâm Bích Thủy

READ MORE - CHỊ GÀ MÁI HOA MƠ CỦA TÔI! - Lâm Bích Thủy

NGƯỜI VỀ - Thơ Trần Mai Ngân



                          Nhà thơ Trần Mai Ngân


    NGƯỜI VỀ

    Người khiêng mang tảng đá
    Xây thành lũy hư vô
    Trần gian cứ mơ hồ
    Tôi là ai mắt lệ...


    Người vác khuân thập tự
    Nghiêng ngả bước chân tình
    Đi nốt đoạn tử sinh
    Tim nương náu bóng hình...

    Người lặng thinh, lặng thinh
    Trôi theo cùng năm tháng
    Những dòng sông hiện sinh
    Rong rêu phủ phận mình

    Người mỉm cười, mỉm cười
    Nơi cửa trời thênh thang
    Một bóng hình miên man
    Gần trăm năm tuyệt vọng

    Người về... mây thong dong
    Trả trần gian ở lại
    Chân thành dốc hết lòng
    Khi làm người đi qua !

              9-1-2018
    Trần Mai Ngân KTD

READ MORE - NGƯỜI VỀ - Thơ Trần Mai Ngân

TA RU ĐỜI HAY TA RU EM - Thơ & nhạc: Mai Hoài Thu - Ca sĩ: Diệu Hiền

READ MORE - TA RU ĐỜI HAY TA RU EM - Thơ & nhạc: Mai Hoài Thu - Ca sĩ: Diệu Hiền

THẦY TRƯƠNG NGỌC HỘI, NGƯỜI THẦY KỲ LẠ DẠY ANH VĂN LỚP ĐỆ NGŨ 2, NK 1962-1963 - Đoàn Đức

 
                 

THẦY TRƯƠNG NGỌC HỘI - NGƯỜI THẦY KỲ LẠ 
DẠY ANH VĂN LỚP ĐỆ NGŨ 2, NK 1962-1963

Thầy người ốm dáng cao da ngăm, tóc chải vuốt, thích mặc áo màu rêu. Đến trường, thầy ít giao tiếp với các thầy cô khác, bao giờ cũng như con sếu cô độc. Ở trường Nguyễn Hoàng thầy dạy tiếng Anh, nhưng dạy thêm “cua” toán ở trường nữ Phước Môn thì thầy lấy tên là Hoàng Ly Yến. Nghĩa và tôi đoán mò, người tình của thầy là Yến hay Hoàng Yến vì biệt hiệu trên là “Hội loves Yến” chúng tôi cũng thỉnh thoảng gọi thầy bằng tên này và nói cho thầy biết cách giải thích trên, thầy chỉ cười vui, nụ cười đó hàm ý mắng chúng tôi “đồ ranh con mà”.
Thầy Hội dạy không theo chương trình, mà dạy theo ý thầy. Thầy dạy thơ và đoạn trích từ các truyện dài hay ngắn Tiếng Anh. Con nít lớp Đệ Ngũ (lớp 8) mà học thơ tình của Lord Byron, John Keats. Nếu bây giờ, cách dạy như vậy sẽ bị đưa lên báo, lên mạng và bị phê bình, kiểm điểm là điều chắc chắn. Với chúng tôi nhờ thế mà sau này lên lớp Đệ Nhất (12) và vào đại học Anh Văn lại trở nên quen thuộc với văn chương Anh Mỹ. Tôi xin ghi lại phần lớn những bài dạy và lời giảng của thầy theo trí nhớ của mình.

Đầu tiên là bài To the Moon của P. B. Shelley:

  Are thou pale for weariness
  Of climbing heaven, and gazing on the earth
  Wandering companionless
  Among the stars that have a different birth
  And ever changing, like a joyless eye
  That finds no object worth its constancy.

Sau khi cho từ vựng và giảng văn phạm, thầy dịch ra tiếng Việt rất hay:

  Có phải em xanh xao vì mệt mỏi
  Bởi trèo lên thiên đường và đăm đăm nhìn xuống thế trần
  Đi lang thang cô đơn
  Giữa muôn ngàn vì sao có nơi sinh trưởng khác biệt
  Và hồn em luôn đổi dời, giống như một con mắt đẫm buồn
  Đã không tìm thấy đối tượng nào xứng đáng với lòng chung thủy của em.

Cả lớp xuýt xoa vì cách diễn đạt của thơ Anh.
Tiếp theo, thầy dạy thơ của Lord Byron bài When We Two Parted (Khi Hai Đứa Chúng Mình Giã Từ) bài này dài, có bốn đoạn, mỗi đoạn tám câu:

     When we two parted
     In silence and tears,
     Half broken-hearted
     To sever for years,
     Pale grew thy cheek and cold,
     Colder thy kiss; 
     …
     After long years
     How should I greet thee?
     With silence and tears.

Thầy dịch xuôi :

    Khi hai đứa chúng mình giã từ
    trong nước mắt và thầm lặng. 
    Nửa trái tim tan nát theo năm tháng.
    Má em xám lạnh, 

Và đoạn cuối:

    Ví sau năm tháng dài gặp lại,
    thì ta biết chào em làm sao nhỉ?
    Hẳn là với âm thầm và lệ tuôn.

Chính vì bài này mà tôi rất thích bản nhạc “Đêm giã từ” của nhạc sĩ Y Vân qua “tiếng hát khói sương u hoài” của danh ca Thanh Thúy:

     Mưa buốt lạnh trong đêm, đứng trên thềm ga vắng
     Hắt hiu ngọn đèn vàng em tiễn anh.
     Mưa ướt mềm đôi vai, biết bao điều chưa nói
     Biệt ly sầu vời vợi có gì vui.
     Anh nói gì bên em, biết bao điều thương mến
     Cũng chưa bằng một lần em tiễn anh.
     Anh bước vào toa trong, mắt không rời ga vắng
     Trời mưa chỉ làm buồn chúng mình thêm.

Hôm sau, thầy dạy thêm một bài thơ của P. B. Shelley là Autumn a Dirge (Mùa Thu Một Bản Nhạc Sầu). Thầy ca ngợi âm hưởng lê thê của bài này nhờ dùng cuối câu các từ “Wailing – dying – lying – crawling” và diễn đạt bi ca mùa thu bằng các âm “Away – may – grey – play”. Cuối bài có đoạn:

     Ye, follow the bier 
     Of the dead cold year, 
     And make her grave green with tear on tear

     Còn ngươi, mùa thu

     Theo bục quan tài, 
     Năm tàn lạnh lẽo
     Để đem lệ đổ làm xanh nấm mồ.

Cả lớp ngỡ ngàng vì không học cuốn Practice your English - Book 1 như các lớp kia. Tưởng chỉ là vài bài thơ mở đầu rồi thôi. Không ngờ thầy tiếp nối với John Keats bài thơ The Grasshopper and the Cricket (Con Cào Cào và Dế Mèn). Thầy còn cho học bức thư tình của Keats gởi cho người yêu Fanny Brawne dưới tiêu đề The Passionate Mood of a Love Letter mà Đỗ Tư Nghĩa dịch hay nhất và thầy cho cả lớp chép bài này chứ thầy không dịch. “Trạng Thái Say Đắm Của Một Bức Thư Tình” trong đó tôi còn nhớ có câu “Fanny ơi, trước đây anh ghê tởm những người tử vì đạo, nhưng bây giờ anh không thế, anh sẵn sàng tử vì đạo của mình. Tín điều của anh là tình yêu và em là Thượng đế của lòng anh.”

Qua đến bài thơ tôi thích nhất và luôn thuộc lòng là: In the Highlands của Robert Burns, tác giả bài hát bất hủ Auld Lang Syne.

     In the Highlands 
    My heart’s in the highlands, my heart is not here, 
    My heart’s in the highlands, a-chasing the wild deer, 
    A-chasing the wild deer, and following the roe.
    My heart’s in the highlands, wherever I go.

Bài này thầy khen ngợi bài dịch của giáo sư Hoài Châu và cho học sinh chép:

    Miền Cao Nguyên
    Linh hồn tôi trời cao nguyên vẫn gửi
    Trời cao nguyên tôi đuổi bóng nai vàng;
    Trời cao nguyên hoẵng rừng tôi vẫn đuổi
    Bước sông hồ tôi nhớ nhớ mang mang.

Rồi đến bài thơ của Robert Louis Stevenson: The Wind

    The Wind
    I saw you toss the kites on high
    And blow the birds about the sky
    And all around I heard you pass
    Like ladies’ skirts across the grass.

Thầy biểu học thuộc đoạn này để nhớ kỷ cách sử dụng “Bare infinitive” (động từ nguyên mẫu không “to”) sau “Verbs of perception” (động từ chỉ tri giác tự nhiên) như See, Hear, Feel, Smell... Ở câu 1, 2, 3 động từ toss, blow và pass không có “to” vì đứng sau saw và heard.
Thầy dịch xuôi ra tiếng Việt:
  
    Gió
    Ta đã thấy gió đẩy những cánh diều lên cao
    Và xô bạt những cánh chim về cuối trời
    Rồi khắp nơi ta nghe gió đi qua
    Giống như váy của những thiếu nữ sột soạt trên cỏ biếc.

Thầy nói không biết bài The Wind này có gợi chút ý nào cho Hàn Mặc Tử với bài thơ sau đây không:
    ...
    Sột soạt gió trêu tà áo biếc 
    Trên giàn thiên lý bóng xuân sang.
    Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời, 
    Bao cô thôn nữ hát trên đồi
    Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
    Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi. 
                       (Mùa xuân chín)

Thầy còn cho so sánh với bài The Wind khác của Rossetti nữa:

   Who has seen the wind?
   Neither I nor you.
   But when the leaves hang trembling, 
   The wind is passing through.
   ……
   Oh wind, why do you never rest
   Wandering, whistling to and fro, 
   Bringing rain out of the West
   From the dim North bringing snow?

Qua bản dịch đơn sơ nhẹ nhàng của Hà Bỉnh Trung:

   Đã ai trông thấy gió chưa?
   Không ai trông thấy từ xưa đến giờ;
   Chỉ khi nào thấy tình cờ, 
   Run run cánh lá biết vừa gió xong.
    …
   Gió ơi, sao chẳng nghỉ chân, 
   Phiêu du đây đó, than thân thở dài.
   Quyện mưa qua dãi non đoài, 
   Tuyết từ cõi bắc u hoài đưa sang?

Thầy cũng đọc luôn bản dịch rất bay bướm của Đan Phượng trong Học Báo Anh Ngữ của Lê Bá Kông:

    Em có nghe chăng gió lại về, 
    Nàng ra sao hãy tả anh nghe?
    Rung rinh rún rẩy ngàn hoa lá, 
    Là lúc nàng về nhẹ lướt qua.

Một hôm, dạy bài thơ The Last Rose of Summer của Thomas Moore mà thầy dịch là Đóa Hoa Hồng Muộn.

    ‘T is the last rose of summer 
     Left blooming alone;
    All her lovely companions
    Are faded and gone.

    Nơi đây còn sót đóa hồng

    Hè sang, lẻ bóng đâm bông một mình.
    Bạn xưa, những đóa hoa xinh
    Đành thôi, úa sắc lìa cành từ lâu.

Hai hôm sau trả bài, ra chơi vào là giờ của thầy. Tôi có hái một bông hoa hồng ở cột cờ đem vào lớp để trước bàn học. Tôi ngồi bàn đầu sát với bàn của thầy giáo. Trong lúc thầy mở sổ điểm để gọi tên đọc bài. Đỗ Đình Thắng, bạn ngồi bên phải tôi, lấy sợi dây thun bắn tung đóa hoa hồng lên bục của thầy. Tôi nói giỡn “Thưa thầy, Thắng bắn nát đóa hoa hồng muộn của thầy rồi, em khỏi đọc bài”. Thầy nghiêm mặt, bảo học sinh trực lên văn phòng lấy “Sổ cấm túc”. Tôi ân hận, lo lắng không biết Thắng bị phạt hay mình bị phạt vì hái hoa của nhà trường. Khi “Sổ” được đem về, thầy phạt Thắng 2 giờ cấm túc. Lý do: “Ném đóa hoa hồng muộn”. Còn tôi bị gọi lên bảng đọc bài.
Ngày sau vào giờ Văn, thầy Lê Trọng Ấn vào lớp dạy, điểm danh xong thầy hỏi: “Đóa hoa hồng muộn là cái gì mà thầy Hội phạt cấm túc?” Bạn Nguyễn Thắng, ngồi bên trái Đỗ Tư Nghĩa và tôi, đứng lên giải thích và thầy Ấn bật cười nói: “Thầy Hội đúng là đặc biệt; học sinh trễ giờ học bị phạt cấm túc, thầy ghi lý do: “Hành lang học vấn”. Học sinh nghịch ngợm bị phạt cấm túc, thầy ghi lý do: “Hành lang sự thiện”. Nhắc điều này chắc các bạn cùng lớp nhớ ngay.
Thầy còn cho học bài thơ đơn giản nhí nhảnh The Ferryman của cùng tác giả Rosetti:

  The Ferryman

Little girl: Ferry me across the water, 

   Do, boatman, do.

Ferryman If you have a penny in your purse, 

I’ll ferry you.

Little girl: I have a penny in my purse, 

And my eyes are blue;
So ferry me across the water, 
Do, boatman, do.

Ferryman Step into my ferryboat, 

Be they black or blue, 
And for the penny in your purse
I’ll ferry you.

Qua cách dịch hóm hỉnh của giáo sư Hà Bỉnh Trung:

Anh Lái Đò

Thiếu nữ Chở tôi qua bến đò ngang, 
Chở tôi, anh lái, cho sang cùng đò.

Lái đò: Một tiền, một chuyến, thưa cô, 

Có tiền tôi mới thuận cho xuống thuyền.

Thiếu nữ: Túi tôi không những có tiền, 

Mắt tôi lại biếc, dáng duyên hơn đời
Chở nhau qua bến đi thôi, 
Chở tôi, anh lái, chở tôi sang cùng.

Lái đò: Mắt cô, hoặc biếc xanh trong, 

Hoặc đen hạt nhãn, cũng không được gì.
Có tiền cô hãy lên đi, 
Chở cô quả thật chỉ vì tiền thôi.

Thầy đặc biệt chú trọng tới nhà thơ nữ Elizabeth Barrett Browning nổi tiếng với Sonnets from the Portuguese
Thầy kể rằng, cha của bà hành hạ bà đủ điều, không cho bà yêu ai hết, ở nhà thì khóa cửa phòng lại, bắt một người hầu gái canh giữ, ra đường thì phải lẽo đẽo theo sau cha, không cho tiếp xúc với bất kỳ người đàn ông nào. Vậy mà nữ thi sĩ vẫn có cách tìm được người tình và người chồng lý tưởng là nhà thơ Robert Browning. Sau này hai người bỏ đi lập nghiệp ở Ý. Mối tình này được kết tinh trong 44 thi khúc, mỗi thi khúc là 14 câu, tức tập Sonnets from the Portuguese mà nữ sĩ gọi là Khúc Đáp Của Người Đẹp Xứ Bồ Đào Nha.

    Love
    How do I love thee ? Let me count the ways
    I love thee to the depth and breadth and height.
    My soul can reach, when feeling out of sight
    For the ends of being and ideal grace.
    …
    I love thee with the breath, 
    Smiles, tears, of all my life; and, if God choose,
    I shall but love thee better after death.

Thầy Hội dịch bài thơ rất cảm động, nói lên nỗi lòng thổn thức chân thành của một thiếu phụ vì yêu. Tiếc rằng tôi không nhớ hết.

    Yêu
    Em yêu anh biết bao, hãy để em kể cho anh nghe, 
    Em yêu anh với tất cả chiều sâu, chiều rộng và chiều cao
    Mà tâm hồn em có thể đạt đến, khi một mình một bóng
    Em lần tìm lẽ sống với ơn sủng cao siêu.
    …
    Em yêu anh bằng hơi thở, nụ cười và nước mắt
    Của cả đời em! Và nếu Chúa chọn, em sẽ
    Mãi yêu anh hơn nữa sau khi chết mà thôi.

Về văn xuôi, thầy trích nhiều đoạn trong truyện The Adventures of Tom Sawyer của Mark Twain. Thầy thích chú bé tinh quái này và cho học trò gọi mình là Tom Hụi thay vì thầy Hội.


Mở đầu truyện:

    “Tom”
    No answer
    “Tom”
    No answer
    The old lady looked around the room
    “When I find you, I…”
    She did not finish, with her head down, she was
    looking under the bed. Only the cat came out.

Phần đối thoại thầy dịch rất sinh động: 

    “Tom ơi”
    (Nó đi đâu?)
    “Bớ Tom ơi”
    (Thằng quái này đi đâu thế?)

    Bà cô già nhìn quanh căn phòng

    “Tao mà tóm được mày, tao…”
    Nói chưa dứt lời bà cô cúi đầu tìm dưới gầm giường, chỉ thấy con mèo chạy ra.

Thầy dạy cả thảy mười nhà thơ tiêu biểu, một khối lượng đồ sộ thơ, cố nhét vào đầu của bọn trẻ; còn quyển sách giáo khoa Practice your English book 1 chưa bao giờ được dạy một bài. Không biết hồi đó dạy như thế, thì thầy ghi sổ đầu bài thế nào? Lại không thấy ban giám hiệu kiểm tra khiển trách, và học trò không làm đơn kháng nghị xin đổi thầy? Ngày xưa các thầy dạy không theo chương trình một cách máy móc, trong lớp học thầy là “Vua”. Nếu bài nào học sinh không hiểu thì giảng đến hai ba lần, bỏ những bài không quan trọng hay giảng lướt qua. Vậy mà chúng tôi học trối chết. Đề thi có thể ra ngoài bài học, chứ không có đề cương ôn tập như bây giờ. Các phụ huynh hoàn toàn phó thác con mình cho thầy cô. Trong tâm trí họ luôn nghĩ “Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ hãy yêu lấy thầy” và “Đánh là dạy, háy là thương”, “Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Thầy cô muốn đánh mắng gì học trò cũng cam chịu. Cha mẹ không có kiện thưa, phàn nàn, lên báo, lên mạng như bây giờ; thế nhưng con cái họ đều nên người, biết hiếu kính cha mẹ thầy cô, bà con trong làng xóm. Vì thế nên Kinh Thánh mới viết về Thiên Chức Của Nghề Dạy Học: “Những ai giáo huấn kẻ khác sẽ được huy hoàng rực rỡ như những vì sao trên cõi trường sinh bất tận.”

Thầy ơi, nay thầy ở phương trời nào, thầy có còn nhớ đến những đứa học trò ngồi đối diện với bàn của thầy không? Thời gian đã xóa nhòa tất cả, như đã xóa nhòa chính dĩ vãng của một đời người. Tuy nhiên em vẫn mong thầy đọc được bài viết này, và sau khi thả rơi nó xuống đất thầy sẽ suy nghĩ như nhân vật chính trong truyện Thư Người Lạ (Lettre D'une Inconnue) của Stefan Zweig. Lúc ấy, thầy chắc hẳn sẽ lẩm bẩm “Tôi cố tìm nhưng chẳng nhớ tên ai…” (Nhã Ca) dù bài viết này đã nhắc cho thầy về thời dĩ vãng của chính mình.

                                           Viết xong ngày 16/01/2017
                                                      ĐOÀN ĐỨC

READ MORE - THẦY TRƯƠNG NGỌC HỘI, NGƯỜI THẦY KỲ LẠ DẠY ANH VĂN LỚP ĐỆ NGŨ 2, NK 1962-1963 - Đoàn Đức