TRANG THUẦN TÚY VĂN HỌC NGHỆ THUẬT CỦA NGƯỜI QUẢNG TRỊ VÀ NGƯỜI YÊU MẾN QUẢNG TRỊ.
Chúc Mừng Năm Mới
Thursday, May 9, 2024
BAN MAI MƯA BỤI & TÔI - Thơ Khaly Chàm
khaly chàm
ban mai mưa bụi & tôi
muốn chạm vào khuôn mặt ban mai
với ý nghĩ vuốt ve sự trì hoãn của đám mây mưa
mong sao, nó sẽ rơi và trở về từ nơi tiền kiếp
khi ấy, chẳng ai cần biết mặt trời hửng nắng từ phía nào
tôi linh cảm trong đồng tử của giọt sương nhú ra mầm lá nõn
người ta cứ tưởng mình là ánh sáng
luôn dao động để tự thỏa hiệp cùng rực rỡ ảo hình phiếm dụ
niềm hoan lạc không ngừng mơn trớn thuộc tính của hiện thể
lòng khấp khởi chăng
hãy hồi ức nụ cười có bao giờ tái hiện lại trong giấc mơ
ban mai, hình dung lũ chim lười biếng hót
nhàn nhạt màu đêm còn nấn ná trong tán lá thẫm xanh
vẫn thế, ly cà phê đen chậm rãi giọt rơi và góc chỗ ngồi quen thuộc
hơi thuốc đầu ngày thơm lừng hương bóng khói
ngoài đường phố dòng xe như cuồng lũ chảy xiết qua ánh nhìn hờ hững
tôi ơi, hãy định nghĩa
tại sao cái bóng minh hiện rõ là một chấm đen mưa!
trại st văn học 2024 phú yên
hình: nv bích ngân chụp.
MỘT QUẢNG TRỊ ĐẰM SÂU TRONG THƠ VÕ VĂN HOA - Ts. Hoàng Thị Thu Thủy
MỘT QUẢNG TRỊ ĐẰM SÂU TRONG THƠ VÕ VĂN HOA
Không hiểu sao khi nhớ về Quảng Trị trong tôi luôn xuất hiện hình ảnh hai nhà thơ trong một gia đình – Võ Văn Hoa, Võ Văn Luyến – dường như cả hai anh đã tạo nên gạch nối giữa con người, vùng đất nơi đây với bạn đọc khắp mọi miền đất nước. Những tên đất, tên người thân thương gần gũi ngấm vào tâm thức độc giả từ khi nào không biết qua tập thơ “Đất lửa xanh”: Thành Cổ, núi Mai, chợ Cầu, chợ Đình, chợ Hôm, chợ Kẻ Diên, chợ Diên Sanh, thác Chờng, sông Hiếu, sông Ô Lâu, Hướng Hóa, Cam Lộ, Cồn Cỏ… Gắn bó với mảnh đất và con người nơi đây, mỗi bài thơ như là một bản nhật kí nội tâm về cảm xúc, tâm hồn trước thời gian và không gian hiện hữu.
Có những tứ thơ ngỡ như là bất chợt, nhưng để viết ra nó chắc cũng phải thấm từ gan ruột, đau đáu nỗi niềm cùng tháng năm: “Nửa đêm thức với Hiếu Giang/ Nghe thơ cuộn chảy sóng tràn giao bôi/ Nhìn sông bên lở bên bồi/ Thương nhau tiếc ngọc một thời vàng son” (Đêm sông Hiếu), da diết, đằm sâu cùng bao đổi thay của dòng sông bên lở bên bồi, để rồi thương tiếc – không nói xót xa mà xót xa, bởi không gian lắng sâu “nửa đêm” đã đánh thức trong anh cả một trời kí ức.
“Bên này sông Ô Lâu” như là kí sự bằng thơ về một vùng đất với “Trầm tích một “tình sử Ô Lâu” – có lẽ vì thế mà thơ anh lắng đọng nhiều hơn trong tâm thức độc giả những chi tiết, hình ảnh về con người, lịch sử của mảnh đất đã từng trải qua bom đạn chiến tranh. Nơi đây có những chiến công, có những hi sinh, mất mát, thương đau… Bởi vậy, khi viết về Cồn Cỏ, về Trường Sơn, về Hướng Hóa với anh như là trách nhiệm thiêng liêng của người cầm bút, thi nhân như “thao thức” cùng với quê hương của mình: “Có người hong tóc mỗi sớm mai thức dậy/ Có người ngủ quên chuyện tình mười mấy năm/ Có một nơi xa nào/ Tôi đi tìm em…” (Có một nơi xa nào), những câu thơ mở đầu như thể hứng trong ca dao, rồi tứ thơ kể về những tháng năm đi tìm đồng đội, xúc động tình người - “Có người hong tóc/ Mắt vẫn hướng về xa ấy/ Trường Sơn”.
Bài thơ “Cồn Cỏ” sáng tác theo thể thơ 5 chữ - thể thơ quen thuộc trong sáng tác của anh đã đi vào chiều sâu suy tư: “Giao bôi nào có say/ Chiều lên Trạm đèn biển/ Cơn mưa nào chợt đến/ Ướt áo, ướt vần thơ”… Thể thơ 5 chữ với anh khá quen thuộc, trong tập thơ “Đất lửa xanh” có đến 12 bài được sáng tác theo thể thơ 5 chữ, ở những bài thơ theo thể loại này, tứ thơ đến tự nhiên, dòng cảm xúc trôi chảy, nhẹ nhàng.
Dường như mỗi địa danh khi anh trở lại đều khơi gợi cảm xúc, tâm tư, tình cảm trong anh, bởi vậy có những câu thơ thật hay, tứ thơ thật đẹp: “Anh về thăm lại Đakrông!/ Cô gái năm xưa đã lấy chồng/ Cầu treo như nhắc ngày xưa cũ/ Anh mãi đi về - một nhánh sông” (Đakrông) – câu thơ kết “Anh mãi đi về - một nhánh sông” tạo cảm giác như bài thơ hết mà ý tình chưa hết.
Thế giới nội tâm trong thơ anh thẳm sâu cùng không gian thân thuộc. Thời gian càng trôi chảy, cảm xúc trong thơ Võ Văn Hoa càng như tiếc nuối, và dường như đó là nguyên cớ khiến cho giọng thơ của anh da diết, quyến luyến: “Dòng sông Ô Lâu – em đi về đâu?/ Dòng sông Ô Lâu – không còn em – tôi đi về đâu?/ Trăng lẻ bóng, trăng trôi về đâu?” (Tình ca Ô Lâu) – những câu hỏi tu từ liên tiếp nhau như sóng lòng thi nhân đang cuộn trào cảm xúc. Có những thi ảnh xuất hiện liên tiếp nhau cùng cái nhìn thấm đẫm chất thi ca khiến độc giả xao xuyến: “Gánh cá chiều chạy từ biển lên/ Đòn gánh cong đời mẹ/ Người phu già khuân miền dâu bể/ Điếu thuốc Lào phả khói hoàng hôn” (Chợ Hôm) – chợ cá, vội vàng là thế, nhộn nhạo là thế mà cái nhìn so sánh bất chợt, khiến lòng mình như chùng lại – đòn gánh cong đời mẹ; khói thuốc – khói hoàng hôn…
Từ Hải Lăng đến Huế không xa, bởi vậy khoảng cách không gian địa lý không gần, không xa này cũng là nguyên cớ khiến thi nhân khắc khoải, đó cũng là duyên cho những tứ thơ trữ tình luyến láy trong ai một trời nhớ nhung: “Anh về trầm hương lá cỏ/ Màu chiều như thể ca dao/ Cùng em nhìn vô trong Huế/ Ấm tình xuân biếc xanh cao” (Ngày chưa xa). Cái cảm giác phóng túng, khoáng đạt khi đến Làng Rào trong thơ anh cô đọng, chắt lọc qua vài ba hình ảnh, như khơi, như gợi, như mời, như gọi: “Người dân làng Rào/ Chân chất, thật thà, bến quê neo đậu/ Lươn, ốc, chuột đồng… thơm mùi xào nấu/ Thết khách miền xa/ Người dân làng Rào/ Khách khí mần chi cho mệt!/ Sống tung tẩy cho đời vui/ Như giăng lưới bắt chim trời/ Tôi cảm nhận lần đầu tiên đến/ Gọi tên làng như gọi mối tình xa” (Làng Rào). “Qua chợ Kẻ Diên Xưa” không chỉ là cảm xúc thơ mà là câu chuyện dài được gợi lên từ câu ca dao thuở nào “Còn da lông mọc còn chồi nảy cây”. Âu đây cũng là tài thơ của thi nhân ở vùng đất có quá nhiều dấu tích văn hóa. Thơ là gợi, là cảm, là rung động từ những thi ảnh quen mà lạ… Đọc bài thơ “Phiên chợ chuột”, trong tôi mang mang một chút kí ức về khoảng thời gian gia đình tôi sống ở nơi tập kết – huyện Lệ Thủy, vừa háo hức mong có dịp được dự phiên chợ có một không hai này. Âu đó cũng là công lao của nhà thơ khi tái hiện thật sinh động một loại hình văn hóa hiếm có ở một vùng đất nắng gió: “Phiên chợ chuột một năm vài lượt/ kể cũng vui trên bước đường đời/ Bạn hãy về cùng mình đi phượt/ Tranh Đông Hồ đâu phác một lần thôi”.
Đi để viết, đó là cảm hứng trong thơ Võ Văn Hoa, mỗi nơi anh đi qua chỉ vài ba nét phác thảo, mà đã tái hiện đặc điểm về vùng đất, con người, quả là tài hoa: “Giao mùa cơn nắng ong ong/ Tôi về Cam Lộ lòng vòng đường quê/ Gặp em răng rứa mô tê/ Tiêu Cùa cay xé, kim kê gọi mời...” (Tháng tư về Cam Lộ). Miệt mài sáng tác, hăm hở cảm nhận, xúc cảm chín trong tâm hồn vương vấn với tình quê, tình người; bề dày tri thức, văn hóa đã dệt nên những tứ thơ quen mà lạ, nhẹ nhàng mà lưu luyến, gần gũi mà thẳm sâu. Chất thơ gắn liền với sự rung động và cảm xúc trực tiếp nên đọc kĩ thơ anh sẽ nhận ra nét riêng của thơ anh được chắt lọc bởi tri thức văn hóa về miền đất, con người Quảng Trị, thi tứ trong thơ anh giản dị, không lên gân, không vặn vẹo con chữ, mà có nhiều bài như đang tự sự, lại dạt dào cảm xúc bởi những vần thơ nhẹ nhàng, luyến lưu.
Từ tác phẩm đầu tay “Còn ta với mình” (2004), đến “Đất lửa xanh” (2021) anh đã đi qua chặng đường sáng tác với 5 tập thơ đã làm nên dấu ấn riêng về tên tuổi của anh trên thi đàn. Tôi vẫn đọc thơ anh xuất hiện đây đó trên các trang báo, nhưng có lẽ đây là lần đọc kĩ về tập thơ “Đất lửa xanh”, chợt giật mình tự nghĩ, kẻ hậu sinh vẫn còn nhiều non nớt, nhưng cảm nhận và rung động trước thơ ca dẫu có vụng về thì vẫn cứ gõ lên trang giấy, âu đó cũng là nhờ duyên mùa xuân với quà tặng từ tác giả “Đất lửa xanh” trong những ngày chộn rộn đón năm mới.
“Câu thơ cũ từ bao giờ/ Đời nay có kẻ ngẩn ngơ đi tìm!/ Bay qua những nẻo đường chim/ Băng qua muôn lối đồi sim quê nhà/ “Phương thảo địa” không đâu xa/ Xuân nay ta gặp rừng hoa … cỏ bồng” (Qua miền cỏ thơm – Võ Văn Hoa).
Huế 10/3/2022
TS. Hoàng Thị Thu Thủy
HOÀI NIỆM NHÂN MÙA PHẬT ĐẢN - Lê Quang Thái
HOÀI NIỆM NHÂN MÙA PHẬT ĐẢN
Lê Quang Thái
Vào mùa sen nở, Phật Lịch 2553, từ thượng tuần tháng tư năm
Kỷ Sửu, 2009 mọi sinh hoạt trong đời sống dân gian đô thị Huế diễn ra khá tưng bừng, nhộn nhịp. Hoà
chung trong không khí chuẩn bị đón mừng ngày Đức Thế Tôn thị hiện cứu độ chúng
sanh, tại Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán Huế, Ban Trị sự tỉnh GHPG Thừa
Thiên Huế đã tổ chức triển lãm với chủ đề: “DI SẢN VĂN HÓA PHẬT GIÁO PHÚ XUÂN”,
từ ngày 9/4 âm lịch đến hết ngày Rằm tháng Tư (3-9/5/2009). Hai nhà nghiên cứu
Trần Đình Sơn và Nguyễn Hữu Thông suốt đời nặng tình với quê hương xứ Huế đã sẵn
sàng và dọn lòng tham gia theo lời mời của Chư Tôn đức trong Ban Trị sự Giáo hội
Phật giáo tỉnh nhà.
Vào chiều ngày 10 tháng tư âm lịch (4/5/2009), tại Trung tâm
Văn hóa Phật giáo Liễu Quán Huế, nhà nghiên cứu văn hóa Trần Đình Sơn trình bày
đề tài: “Di sản văn hóa Phật giáo dưới thời các chúa Nguyễn”. Nhân dịp diễn giả
nhắc đến cụ Nguyễn Khoa Chiêm, tác giả sách “Nam triều công nghiệp diễn chí”, ấn
hành năm 1719, có nói đến về lễ Phật đản năm 1603 được tổ chức tại chùa Sùng
Hoá, cõi Hoá Châu, đã khiến cho tôi vui mừng khôn xiết. Chúng tôi rất tỏ lòng
kính phục và tri ân sâu xa đến tác giả. Không biết tác giả đã viết trong thời
gian bao nhiêu năm để cho ra mắt bạn đọc bộ sách quý giá này. Không những người
Việt thừa nhận mà các nhà nghiên cứu nước ngoài như Pháp, Trung Quốc, Nhật Bản,
Hòa Lan... đều tỏ lòng trân quý, trí tuệ và đạo hạnh của tác giả Nguyễn Khoa
Chiêm viết về Xứ Đàng Trong.
Viết về cảnh tượng lễ Phật đản ở Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế
xưa nay thì có rất nhiều tác giả trong nước và nước ngoài như Cadière, Thạch
Liêm thượng nhân, Trần Kinh Hòa... Nhưng chưa có ai mô tả khá thật rõ nét như
tác giả Nguyễn Khoa Chiêm gốc xứ Hải Dương của đất Bắc Hà. Ông đã từng sống với
Thuận Hoá và đã gởi tấm thân tứ đại giữa lòng đất cố kinh. Nhờ thế Huế mới thấm
đẫm hồn non nước qua nội dung và văn phong kỳ vỹ của tác giả Nguyễn Khoa Chiêm.
Nguyễn Khoa Chiêm đã miêu tả cảnh tượng ngày lễ Phật Đản
thiêng liêng và uy nghi tại chùa Sùng Hóa vào năm Quý Mão, PL: 2147, cách đây
406 năm, uy ngi và hoành tráng còn hơn lễ Vu Lan vào năm trước 1602 trong tác
phẩm NAM TRIỀU CÔNG NGHIỆP DIỄN CHÍ, như
sau:
“Năm Quý Mão, niên hiệu Hoằng Định thứ tư (1603), mùa hạ,
tháng tư, Đoan Vương Nguyễn Hoàng lại sai thỉnh nhà sư Trú trì đứng ra mở hội Đại
Pháp đọc kinh Đại Thặng, giải phép Thượng Thặng cứu độ cho chúng sinh ba đường,
sáu lối, cầu siêu cho bảy tổ chín huyền được vẹn thành chính giác. Trong ngày hội
ấy thần dân thiên hạ kéo đến xem hội rất đông, ai nấy đều tấm tắc ngợi khen cho
là khá sánh với hội lớn Vô Già. Mọi bề công đức hoàn thành, lòng chúa Đoan
vương hết mực thư thái. Từ đó vương rộng mở thi hành nhiều việc chính sự giáo
hóa, ơn chăm trăm họ, bề tôi tuân phục vui lòng, các nước láng giềng đều đến viếng
thăm, thiên hạ đều xưng tụng cho là bậc vua sáng ở đời thái bình”.
Hình ảnh chùa Sùng Hóa đã được miêu tả trong tác phẩm như
sau:
“Chùa ở xã Lại Ân, huyện Tư Vinh, trước có sông Linh Giang
bao bọc, sau có đầm lớn vòng quanh phía nam có sông Hoài Tài, phía Bắc có bia
Sùng Phúc. Tượng thần tôn nghiêm, cung tiên nguy nga. Vào những ngày lễ tiết tế
lễ, các quan ở nha môn, vệ sở, tam ty đều đến tham dự, mũi áo lễ nhạc tụ tập
như mây. Khi cầu đảo đều được linh ứng. Đây là ngôi chùa nổi tiếng ở Hóa châu”.
Nay, ai muốn về thăm chùa quan hay quốc tự Sùng Hóa xưa mà nay là chùa Lại Ân có tên dân gian là “làng Sình” nổi tiếng làng văn hiến, với các lễ hội vật võ đầu xuân, trồng hoa, làm hoa giấy cạnh các làng cổ Mậu Tài, Thanh Tiên, Qui Lai thì thuê thuyền rồng hoặc đò đò dọc mà đi để vừa ngắm cảnh sông Hương vừa viếng lại xứ chùa chiền ở hai bên bờ sông và kể cả thành cũ Hóa Châu đã tàn phế:“Đò từ Đông Ba, đò từ Vỹ Dạ, thắng ngã Ba Sình.
Chúng tôi cũng thiết nghĩ nên có một tour du lịch bằng đường
thủy như lộ trình mà dân gian đã vạch qua câu hò mái đẩy thì kỳ thú biết dường
nào, vì rằng: Quê tôi có gió bốn mùa / Có trăng giữa tháng, có chùa quanh năm,
như nhà thơ Nguyễn Bính đã sáng tác trong thời gian ngắn ngày sống với xứ Huế
thân thương.
Và du khách nào đến Huế hôm nay cũng xin mời đến thăm chùa
Ba La Mật, nhà thờ họ Nguyễn Khoa ở làng Vỹ Dạ, chùa Tra Am ở xã An Tây, lăng mộ
Nguyễn Khoa Chiêm ở làng An Cựu mà nay thuộc khu vực dưới chân núi Ngự Bình để
nghe tiếng lòng của dân gian nói về giòng tộc Nguyễn Khoa đóng vai trò hộ pháp
cùng với nhạc phụ của mình là Đại thần Trần Đình Ân đã từng chọn Quảng Bình, Quảng
Trị, Thừa Thiên xưa làm quê hương.
Nhân mùa Phật đản, PL. 2553, hơn ai hết người sông Hương xin dọn lòng thành kính mừng ngày Đức Thế Tôn thị hiện, thắp nén hương lòng quỳ lạy tưởng nhớ đến các bậc tiền bối lâu đời, lâu kiếp, nhớ đến các chúa Nguyễn, vua Nguyễn đã có công xây dựng kinh đô, đền đài, miếu vũ, chùa tháp...và các tác giả đã dày công biên khảo, sáng tác để lại cho đời sau những tác phẩm, di vật quý giá. Chúa Nguyễn Hoàng, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Phúc Chu và các Vua Nguyễn đã đóng vai trò hộ pháp rất hiệu quả trong việc trị nước an dân. Xin tri ân các nhà nghiên cứu tiền bối như, Dương Văn An, Đào Duy Từ, Nguyễn Khoa Chiêm, Lê Quý Đôn....đã để lưu lại cho đời sau những bút tích, di vật quý giá. Xin tri ân những nghệ nhân các ngành nghề đúc đồng, tạc tượng, thêu may, in ấn ... và các nhà lưu giữ cổ vật đã phân tích lý giải ý nghĩa của từng di sản văn hóa Phú Xuân một cách nghiêm túc, cẩn trọng... để người cho người đời sau thấy được bóng đổ thời gian.
Lê Quang Thái
Nguồn: lieuquanhue.vn, 07/05/2009