Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Thursday, March 30, 2017

THƯƠNG ĐÔI MẮT KHÓC NGƯỜI TỪ TRĂM NĂM - Thơ Hoàng Anh 79



THƯƠNG ĐÔI MẮT 
KHÓC NGƯỜI TỪ TRĂM NĂM

Đêm tàn trăng rụng Ban Mê
Mình ta với phố bốn bề sương bay
Thời gian mòn mỏi qua tay
Đường quen chưa xoá dấu đài trang xưa

Cao nguyên gió lạnh đầu mùa
Tình xa ngút mắt ta vừa đủ đau
Nói gì thì cũng mất nhau
Chia tay là đã qua cầu áo phai

Ta đi đếm tuổi ngày dài
Chim  hun hút cánh miệt mài tà huy
Em đi với nửa xuân thì
Sang ngang còn giữ chút gì không em

Hay lòng thầm bảo cố quên
Bước chân chánh niệm với miền hư vô
Mưa rơi rơi phía Buôn Hồ
Phải đâu lệ rớt trên bờ mi cong

Cạn đi hết chén rượu nồng
Ai chờ đợi nữa bến sông bụi mù
Mai về rừng núi Pleiku
Thương đôi mắt khóc người từ trăm năm!

Ngày 11/3/2017

HOÀNG ANH 79
READ MORE - THƯƠNG ĐÔI MẮT KHÓC NGƯỜI TỪ TRĂM NĂM - Thơ Hoàng Anh 79

NHỮNG ĐỢT THIÊN CƯ CỦA DÂN QUẢNG TRỊ TRONG CUỘC CHIẾN VỪA QUA - Hoàng Đằng

          
                       Tác giả Hoàng Đằng



            NHỮNG ĐỢT THIÊN CƯ CỦA DÂN
  QUẢNG TRỊ TRONG CUỘC CHIẾN VỪA QUA

 (Chiến dịch Xuân – Hè (Mùa hè đỏ lửa) 1972 bắt đầu ngày 30/3/1972; dân Quảng Trị di tản tránh bom đạn trên diện rộng. Bài này muốn kể chuyện tản cư và di cư hồi đó cho con cháu nghe.)

Trước năm 1954, cũng giống như bây giờ, lãnh thổ tỉnh Quảng Trị trải dài từ địa giới phía Nam tỉnh Quảng Bình đến địa giới phía Bắc tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Sau năm 1954, chiếu theo Hiệp Định Genève, tỉnh Quảng Trị bị chia hai: (1) phần lớn phủ Vĩnh Linh ở bắc vĩ tuyến 17 thuộc quyền quản lý của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà; (2) phần ít còn lại của phủ Vĩnh Linh - có tên là tổng Vĩnh Liêm - cùng các phủ huyện ở nam vĩ tuyến 17 thuộc quyền quản lý của chính quyền miền Nam – Quốc Gia Việt Nam rồi Việt Nam Cộng Hoà. 
Tổng Vĩnh Liêm được chính quyền miền Nam lập thành một quận, đặt tên là quận Trung Lương gồm 3 xã: Trung Sơn, Trung Hải, Trung Giang. Ba xã này đến giờ vẫn mang tên như thế, nhưng nhập vào huyện Gio Linh.

Trong chiến tranh thống nhất đất nước (1960 – 1975), Quảng Trị hứng nhiều bom đạn nhất. Bom đạn tới đâu, dân chúng di tản lánh nạn, chạy ngược chạy xuôi.
Nay tuổi già, rảnh rỗi, tôi muốn kể chuyện dân Quảng Trị lánh nạn chiến tranh cho thế hệ sau biết - biết nỗi khổ của người dân phải lìa nơi chôn rau cắt rốn như thế nào để yêu mến quê hương, biết sự tàn phá của chiến tranh như thế nào để oán ghét, biết cái giá trị của hoà bình như thế nào để trân quý.
Tôi sống ở phần Nam vĩ tuyến 17, trong hành trình di tản tránh chiến tranh trong chiến dịch Xuân – Hè 1972 (Việt Nam Cộng Hoà gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa), tôi vô Nam; thành thử bài viết này chỉ đề cập nhóm dân Quảng Trị thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng Hoà. Xin mở ngoặc, theo tài liệu: “Cổ Thành Quảng Trị và Đại Lộ Kinh Hoàng trong mùa hè đỏ lửa 1972” của Phạm Thắng Vũ đăng trên trang ongvove ngày 02/3/2012, trước năm 1972, diện tích Quảng Trị thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng Hoà là 3,966 km2 và dân số là 270,984 người. 
Tôi mong được đọc những bài viết có tính nhân văn về đề tài này liên quan đến nhóm dân thuộc quyền quản lý của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam.

Trong chiến tranh, không riêng gì dân Quảng Trị mà dân cả nước đều phải chạy loạn. Chiến sự nổ ra ở vùng này, dân dắt dìu nhau chạy qua vùng khác. 
Người tỵ nạn hoặc là ở nhờ trong dân địa phương, hoặc là dựng lều trại ở tạm tại vùng an toàn một thời gian, khi tình hình lắng dịu, trở về; như thế gọi là tản cư. Trong lúc tản cư, người tỵ nạn hoặc phải gồng gánh lương thực đi theo hoặc nhờ sự giúp đỡ của người dân tại chỗ, các hội đoàn từ thiện nhân đạo hay chính quyền sở tại mà sinh tồn. Tản cư mang ý nghĩa tạm bợ, người tỵ nạn có thể tìm nghề kiếm thu nhập, phụ cho những nhu cầu cuộc sống, nhưng không có kế hoạch hay chương trình gì nhắm giúp người tỵ nạn ổn định cuộc sống lâu dài.
Sau đây, xin kể những đợt tản cư mà tôi còn nhớ:
Thực dân Pháp tiến hành tái chiếm nước ta vào cuối năm 1945, qua cuối năm 1946, giặc Pháp từ Nam tiến ra, từ Lào đổ xuống, dân Quảng Trị bỏ nhà cửa, làng mạc chạy, chỉ sau khoảng 2 tháng, lương thực mang theo cạn kiệt, phải trở về nơi ở cũ dù phải sống dưới quyền giặc Pháp; đó là một đợt tản cư trên diện rộng. 
Từ những năm đầu thập kỷ 1960, cuộc chiến nhằm thống nhất đất nước bùng phát; ở những vùng đồng bằng hay rừng núi, chiến sự diễn ra với tần suất dày; để tránh thương vong cho dân thường và để tách lực lượng giải phóng ra khỏi dân, Việt Nam Cộng Hoà lập những khu dồn dân với nơi ở là những lều trại tạm bợ, lương thực thực phẩm do chính phủ trợ cấp; những khu dồn dân này rải rác đó đây trên lãnh thổ tỉnh Quảng Trị; đặc biệt là hai khu tương đối lớn dành cho dân Gio Linh từ 1967 đến 1972 tại Quán Ngang và Gio Hải. 
Năm 1972, chiến cuộc dữ dội, ngoài một số bám trụ làng xóm, một số ra Bắc, dân Quảng Trị xuôi Nam vào tạm cư số ít tại Huế, tại Chu Lai (Quảng Tín – tỉnh mới ở phần Nam của Quảng Nam), số đông tại các doanh trại quân đội Mỹ bỏ lại khi rút về theo kế hoạch Việt Nam hoá chiến tranh của Tổng Thống Mỹ Richard Nixon quanh thành phố Đà Nẵng: Hoà Khánh, Hoà Cầm, Hoà Long.

Ngoài cảnh tản cư, người Quảng Trị còn chịu cảnh di cư.
Chương trình di cư đã được Việt Nam Cộng Hoà thực hiện trong những năm hoà bình (1956 – 1960) với mục đích giãn dân (bớt dân ở những vùng có mật độ cao) và phối trí dân cư trên toàn quốc nhằm dễ dàng giữ gìn an ninh lãnh thổ quốc gia. Khoảng năm 1959, một đợt đưa dân Quảng Trị lên khai hoang lập ấp ở vùng giáp biên với Campuchia tại một tỉnh mới lập gọi là tỉnh Quảng Đức (bây giờ là tỉnh Đắk Nông). 
Trong chiến tranh, người Quảng Trị di cư theo 2 dạng: di cư riêng lẻ và di cư tập thể. Di cư khác tản cư ở chỗ: Tản cư mang tính tạm bợ, chờ thời cơ trở về quê cũ, còn di cư nhắm mục đích ổn định lâu dài việc ăn ở.
Một gia đình ở quê cảm thấy tính mạng không an toàn, việc làm bấp bênh, kéo lên thành phố, thuê đất, dựng nhà, tìm công ăn việc làm mưu sinh qua ngày, ấy là di cư riêng lẻ - trường hợp của những gia đình khá giả, những gia đình binh lính, những gia đình cán bộ công chức; kiểu di cư này không thuộc trách nhiệm của chính phủ. 
Còn một làng, một xã, một huyện, thậm chí một tỉnh ra đi, chính quyền phải đứng ra tìm chỗ định cư, cung cấp lương thực, tìm sinh kế cho dân; ấy gọi là di cư tập thể. Ở tỉnh Quảng Trị, năm 1967, quân đội Mỹ lập hàng rào điện tử Mac Namara bạch hoá khu phi quân sự - vùng sát vĩ tuyến 17 – để hòng chận sự xâm nhập của quân cán chính miền Bắc vào chi viện cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Ngoài một phần ra Bắc, một phần di cư vô miền Đông Nam Bộ, số còn lại của dân quận Trung Lương di cư lên vùng đồi Tân Tường ở Cam Lộ. Đó là đợt dân Quảng Trị di cư tập thể đầu tiên.
Đầu năm 1973, hiệp định Paris ký kết, tuy nhiên, việc thi hành hiệp định có vẻ khó khăn, các chương trình di cư dành cho dân Quảng Trị tản cư tạm trú tại các trại quanh Đà Nẵng bắt đầu. 
Được sự trợ giúp của chính phủ miền Nam qua chương trình Khẩn Hoang Lập Ấp và của các tổ chức hội đoàn từ thiện nhân đạo quốc tế, các đợt di dân được tổ chức lần lượt như sau:
Linh Mục Đỗ Bá Ái thuộc giáo phận Huế phụ trách mục vụ cho đồng bào Công Giáo ở trại Non Nước, chiêu mộ dân vào Sông Pha tỉnh Ninh Thuận. Công việc tiến hành từ tháng 5/1973 với việc gởi đoàn thanh niên thiện chí vào chuẩn bị nơi tạm trú; ngày 13/7/1973, nhóm dân di cư đầu tiên đặt chân tới nơi; khu khẩn hoang ấy bây giờ là họ đạo Quảng Thuận (Quảng Trị + Ninh Thuận), thuộc xã Quảng Sơn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận.
Tháng 10/1973, Linh Mục Trần Điển và Linh Mục Lê Viết Hoàng, đem 1.000 hộ dân vô khẩn hoang vùng cách thành phố Cam Ranh về phía Tây Bắc khoảng 18 km, lập nên xã Cam An Bắc.
Cuối năm 1973 đầu năm 1974, bác sĩ Phạm Văn Lương (1934 – 1976), đang giữ chức trưởng khoa Ngoại Tổng Y Viện Duy Tân (bệnh viện quân đội Cộng Hoà), quê gốc thôn Nghĩa An, phường Đông Thanh (trước năm 1972 gọi là xã Đông Thạnh), thành phố Đông Hà, chiêu mộ dân xã ông vào lập một làng ở huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, lấy tên là làng Đồng Thạnh.
Qua năm 1974, chính phủ Việt Nam Cộng Hoà chủ trương đóng cửa các trại tỵ nạn. Chính phủ đưa ra 3 chương trình để người dân tuỳ điều kiện và hoàn cảnh chọn lựa: (1) đi khẩn hoang lập ấp ở Động Đền và Láng Gòn thuộc tỉnh Bình Tuy (phần Nam của tỉnh Bình Thuận), (2) hồi cư và (3) tự túc mưu sinh.
Vào những tháng đầu năm 1974, chương trình khẩn hoang lập ấp tại Động Đền dành cho đồng bào Gio Linh, Cam Lộ và tại Láng Gòn dành cho dân Đông Hà và các quận khác không muốn hồi cư về Quảng Trị được tiến hành. Chương trình khẩn hoang lập ấp ở hai khu này triển khai do Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách khẩn hoang lập ấp của chính phủ Việt Nam Công Hoà đảm trách qua một văn phòng đại diện đặt tại tỉnh lỵ Bình Tuy và sự giúp đỡ một phần của giáo hội Công Giáo do Linh Mục Ét - Sa – Ren (tôi không biết viết theo chữ Pháp) nguyên quản giáo xứ Đông Hà và LM. Trương Công Giáo nguyên quản giáo xứ Quán Ngang (Gio Linh) điều hành. Khu Láng Gòn nay là xã Tân Hà thuộc huyện Hàm Tân, còn khu Động Đền nay là xã Sơn Mỹ cũng thuộc huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận.

Chương trình hồi cư dành cho đồng bào Triệu Phong, Mai Lĩnh và Hải Lăng và đồng bào các quận khác muốn về lại Quảng Trị; đồng bào Triệu Phong, Mai Lĩnh và Hải Lăng về lại thôn xóm cũ còn trong vòng kiểm soát của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà; đồng bào các quận khác định cư ở các vùng đồi, vùng cát Hải Lăng; dân còn lại của thị tứ Đông Hà cũ định cư ở vùng quanh cây số 23 (tính từ Huế ra trên Quốc Lộ 1) thuộc quận Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Một thị trấn tỉnh lỵ của Quảng Trị mọc lên trên vùng cát Hải Lăng đủ các cơ quan chính quyền, bệnh viện, trường học, chợ, bến xe ... gom thị dân cũ và mới.

Chương trình tự túc mưu sinh dành cho số dân Quảng Trị không hồi cư về Quảng Trị, cũng không đi khẩn hoang lập ấp nơi nào, phần lớn là gia đình công chức, quân nhân. Họ được chính phủ cấp cho một khoản tiền để tự túc mưu sinh, tương đương với số tiền mà chính phủ phải chi ra để lo cho dân hồi cư và dân đi lập ấp, gồm nuôi ăn từ 6 tháng đến 1 năm (mỗi khẩu 15 kg/tháng), cấp vật liệu làm nhà ...
Công việc sắp xếp tạm ổn nhưng chưa đến đâu tới đâu thì qua tháng 03/1975, chiến tranh bùng phát lại tàn khốc hơn để đến hồi kết thúc vào ngày 30/4/1975. Dân Quảng Trị lại lên đường: kẻ đi, người về. 
Người về xây dựng lại cuộc sống trên quê hương đổ nát, người đi tìm những vùng đất mới, những chân trời mới. 
Nhờ ơn Trời, ơn Phật, ơn Tiền Nhân, những người Quảng Trị nay dù ở đâu làm gì còn sống sót qua bom đạn như được sàng lọc hầu hết đều có cuộc sống ấm no.

                                                          Hoàng Đằng
                                           26/3/2017 (29/Hai/Đinh Dậu)

READ MORE - NHỮNG ĐỢT THIÊN CƯ CỦA DÂN QUẢNG TRỊ TRONG CUỘC CHIẾN VỪA QUA - Hoàng Đằng

BÀN THÊM VỀ NHẬN DIỆN THƠ - Phạm Đức Nhì


              
                        Tác giả Phạm Đức Nhì



BÀN THÊM VỀ NHẬN DIỆN THƠ
Trả Lời Hai Câu Hỏi

Sau khi đọc Nhận Diện Thơ, một bạn đọc tên Nguyễn Huệ có đặt câu hỏi trên Facebook như sau:
Xin ý kiến của Nhi Pham và bạn đọc về bài thơ của HỒ CHÍ MINH: HÒN ĐÁ. Nếu rạch ròi như cách phân tích trên thì phải chăng bài thơ HÒN ĐÁ của Bác chỉ là một loại văn vần?

HÒN ĐÁ

Hòn đá to,Hòn đá nặng,
Chỉ một người,
Nhắc không đặng.

Hòn đá nặng,
Hòn đá bền,
Chỉ ít người,
Nhắc không lên.

Hòn đá to,
Hòn đá nặng,
Nhiều người nhắc,
Nhắc lên đặng.

Biết đồng sức,
Biết đồng lòng,
Việc gì khó,
Làm cũng xong.

Đánh Nhật, Pháp,
Giành tự do,
Là việc khó,
Là việc to.

Nếu chúng ta
Biết đồng lòng
Thì việc đó
Quyết thành công.

(Đăng trên báo Việt Nam Độc Lập, số 123, 21/4/1942)

Để trả lời anh Nguyễn Huệ tôi xin được dẫn anh đi lòng vòng một chút.
Chúng ta thử đọc hai câu:
Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan
(Hồ Chí Minh)
Ý tưởng đúng đắn của một bậc trưởng thượng, xứng đáng để các em nhỏ học hỏi, ứng xử, nhưng hoàn toàn là sản phẩm của lý trí. Vì thế không thể gọi là thơ.
Còn hai câu:
Nhìn con học giỏi hiền ngoan
Lòng cha cảm thấy ngập tràn sướng vui
(PĐN chế)
Cha đã bước vào khung cảnh bài thơ và đã có cảm xúc. Đích thị là thơ.
Trồng trầu thì phải khai mương
Làm trai hai vợ phải thương cho đồng
(Ca dao Nam Bộ)
Một người từng trải, nhiều kinh nghiệm về chuyện đa thê đã đưa ra lời khuyên đối với những anh mới học đòi Phòng Nhất, Phòng Nhì. Đó chỉ là sản phẩm của lý trí, không có cảm xúc.
Còn mấy câu:
Bà lớn ở nhà đang trông
Nhìn em “quá đã” qua không muốn về
Thôi đành mặc người cười chê
(PĐN chế)
Cảm xúc đã dạt dào - mê bà nhỏ đến mức quên cả lẽ công bằng của người đàn ông hai vợ (theo câu ca dao). Đã có thơ.
Hy vọng đọc xong hai thí dụ này anh Nguyễn Huệ có thể tự trả lời câu hỏi của mình. Nhưng nếu anh muốn trực tiếp nghe câu trả lời của tôi thì xin đọc đoạn dưới đây.
Bài Hòn Đá của ông Hồ Chí Minh chỉ là một cách dùng ẩn dụ để dạy dỗ hậu bối, hoàn toàn là sản phẩm của lý trí, là một loại văn vần, không phải là thơ.

Một độc giả khác, anh Nguyenphong Bui viết:
“Bài viết công phu. Vãn sanh ngưỡng mộPhiền ông xem giùm mấy câu sau đây có được gọi là thơ không?
Cám ơn ông.”

BỤP


Tính tình tang, tích tịch tang.
"Bụp"
Dây đàn đứt...
Tiếng "Tang" vẫn còn.
Đàn hay không níu nỗi hồn.
Dù anh Nguyencong Bui là người đàn hay người nghe đàn, hồn anh cũng thả theo dòng nhạc, dù chỉ là “tính tình tang, tích tịch tang”. Khi dây đàn đứt nỗi buồn ít nhiều đã tích tụ trong anh, và “Tiếng Tang vẫn còn” khiến anh đã phải thốt lên: “Đàn hay không níu nổi hồn” Cảm xúc đã có. Bài “BỤP” đã có thể gọi là thơ.
Còn đoạn dưới đây:

Tiếng đàn có rộn ràng, vui nhộn
cũng không thể làm tươi xanh
những mảnh hồn đang khô cằn
héo úa.

chỉ là một phát biểu (statement) chung chung về tác dụng của tiếng đàn. Dù rõ ràng là có vần điệu nhưng tác giả không bước vào khung cảnh của “Bài Thơ” mà nói bằng kiến thức, sự hiểu biết của mình, hoàn toàn không có cảm xúc. Đây không phải là thơ.

Khác Biệt Giữa Kệ, Thơ Thiền Và Thơ Thế Tục

1/ Kệ: là một cách giải thích Kinh bằng văn vần, không cảm xúc.
2/ Thơ thiền : có cảm xúc nhưng cảm xúc đó chỉ là “niềm vui” khi thấy mình đã thoát vòng tục lụy, tâm không vướng mắc điều gì, không có tư ý, tư dục. Nói có vẻ “đạo” một tý là lúc ấy, trong khung cảnh của bài thơ ấy, cái tiểu ngã của tác giả đã hòa nhập với cái đại ngã của vũ trụ.
Thơ thế tục: cảm xúc là thứ Tình phát xuất từ Thất Tình, Lục Dục của người đời.
Sau đây là một số bài Kệ, Thơ Thiền và Thơ Thế Tục đặt cạnh nhau để bạn đọc dễ phân biệt.

Trăng Non, Sơ Tam Sơ Tứ Và Chơi Trăng Lên


TRĂNG NON

Vũ trụ bao la rất nhiệm mầu
Chân không diệu hữu thật thâm sâu
Trùng trùng duyên khởi không gì mất
Trăng khuyết lại tròn - đời biển dâu
(Minh Lương Trương Minh Sung,
         via yahoogroups.com )

Bài Trăng Non viết về trùng trùng duyên khởi của vạn vật, mất rồi lại có, như trăng khuyết lại tròn, biển biến thành nương dâu. Cả 4 câu, 28 chữ đều phát xuất từ bề mặt ý thức. Chính vì chỉ có “lý” mà thiếu “sự”, nên không thể gọi là thơ. Tuy nhiên, tác giả đã thành công trong việc biểu lộ kiến thức của mình về đạo pháp, đem cái hạt giống đạo pháp đó truyền đạt cho mọi người. Đây có thể gọi là một bài kệ, một chiếc cầu để đưa người đời đến với những lời dạy cao siêu, thâm thúy của đức Phật (kinh).

SƠ TAM SƠ TỨ

Sơ tam, sơ tứ nguyệt mông lung Bán tự ngân câu bán tự cung
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để bán phù không
     (hoasontrang.us)

Mồng ba mồng bốn trăng mờ

Nửa dường móc bạc nửa như cung trờiMột bình ngọc trắng chia haiNửa chìm đáy nước nửa cài từng không
      (Trần Trọng San dịch)

Ở đây sư ông và chú tiểu chùa Hàn San đã thực sự đứng trước và thưởng thức vẻ đẹp của cảnh trăng non. Tâm đã đối cảnh. Cảm xúc dâng đầy. Sư ông lặng ngắm vẻ đẹp của trăng trên bầu trời. Chú tiểu đứng ở vị trí khác, có góc nhìn khác, thấy được phần chìm đáy nước của mặt trăng. Cả 4 câu gộp lại thành một bài thơ thật đẹp, không có tư ý, tư dục.

Cùng một cảnh (trăng non) nhưng bài Trăng Non chỉ là kệ, còn Sơ Tam Sơ Tứ là thơ. Khác nhau ở chỗ tâm đối cảnh và có cảm xúc (nhưng không có tư ý, tư dục).

CHƠI LÊN TRĂNG
……………………….
Tôi nhập hồn tôi trong khúc hát Để nhờ không khí đẩy lên trăng
Để nghe tiếng nhạc Nghê Thường trổi
Để hớp tinh anh của nguyệt cầu
Và để thoát ly ngoài thế giới
Để cười, để trững, để yêu nhau.
…………………….
(Hàn Mặc Tử)
Còn Chơi Lên Trăng của Hàn Mặc Tử thì tràn cảm xúc và tư ý, tư dục nên là Thơ Thế Tục.

Phong Lai Sơ Trúc, Thơ Trên Cát Và Phơi Nắng Trên Bãi Biển

PHONG LAI SƠ TRÚC

Phong lai sơ trúc
phong khứ nhi trúc bất lưu thanh
nhạn quá hàn đàm
nhạn khứ nhi đàm vô lưu ảnh
thị cố quân tử
sự lai (#) nhi tâm thỉ hiện
sự khứ nhi tâm tùy không
 (daitangkinhvietnam.org)  
(#) Có bản dùng chữ đáo

Gió đến bụi trúc
Gió qua rồi mà trúc không lưu lại âm thanh
Nhạn bay qua đầm nước lạnh
Nhạn qua rồi mà mặt nước đầm không lưu lại hình ảnh
Cho nên người quân tử
Việc đến thì tâm khởi
Việc qua thì tâm hoàn không

Một Nho gia đã viết Phong Lai Sơ Trúc để chỉ cho đám hậu bối phương cách “chính kỳ tâm”, một trong chuỗi mắt xích “thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” mà nho sinh phải từng bước tu tập để thành người quân tử. Bốn câu đầu tượng thanh, tượng hình, đẹp như một bài thơ nên nhiều người lầm tưởng đó là thơ. Thật ra 4 câu đó đã được tác giả “nghĩ ra từ trước”, nay moi trong “kho kiến thức” ra sử dụng để viết bài “huấn thị” cho đám học trò. Rất tình cờ, ở đây Nho học đã gặp Phật học. Nhiều Phật tử trên đường học đạo đã cho đó là một bài thơ và thường chiêm nghiệm để tu tâm. Đúng ra Phong Lai Sơ Trúc có thể gọi là kệ (hay một cái tên gì khác) chứ nó không phải là một bài thơ. Tác giả không đối cảnh rồi cảm ứng sáng tác ra nó; đây chỉ là công việc riêng lẻ của lý trí; những thành phần khác của tâm như bản năng, tình cảm đều không có cơ hội, không được quyền tham dự vào.

Bây giờ chúng ta cùng đọc Thơ Trên Cát của thiền sư Viên Minh

   THƠ TRÊN CÁT

Viết bài thơ trên cát
Cơn sóng vỗ xóa đi
Vô tình đâu biết được
Mình viết bài thơ gì.
(Viên Minh, từ tác giả)

Cũng cái ý đấy, nhưng ở đây thiền sư của chúng ta đã thực sự đối diện với cảnh đời, cảnh bao la sóng nước của biển cả, để có hứng, có cảm xúc viết thành bài thơ. Những thành viên củaTâm từ Tam Tạng (bản tâm), Tề Thiên (lý trí), đến Trư Bát Giới (bản năng), Sa Tăng (tình cảm) đều có mặt. Nhưng do được “rèn luyện đến nơi đến chốn” nên tất cả đều lặng thinh. Thơ Trên Cát được viết ra để nói về bài thơ đã mất; mất thật sự, không lưu lại một dấu tích gì trong lòng tác giả; bài thơ mất mà tác giả của nó không một chút bận tâm, luyến tiếc. So sánh với “phong lai sơ trúc” và “nhạn quá hàn đàm” thì hình ảnh cơn sóng vỗ xóa mất bài thơ cũng đẹp và nên thơ không kém.  Đối cảnh tâm có cảm xúc nhưng không có tư ý, tư dục chính là trường hợp này. Có thể nói đây là bài thơ thiền của một người đạt đạo.

Cùng một ý nhưng Thơ Trên Cát của Viên Minh là thơ, còn Phong Lai Sơ Trúc chỉ là một lời khuyên, một thứ “huấn thị”. Khác biệt cũng chỉ ở chỗ tâm đối cảnh và có cảm xúc.

PHƠI NẮNG TRÊN BÃI BIỂN
Biển vắng nàng nằm trên cát
Chỗ không nên phơi, cũng phơi
Tôi vô tình đi qua đấy
Nhìn thấy nóng ran cả người
(PĐN)
Lòng ham muốn (dục vọng) đã nổi lên. Chúng ta đã có Thơ. (Thơ Thế Tục)

Tại Sao Có Mưa - Biệt Nhất Phương - Muốn Làm Mây Trắng

TẠI SAO CÓ MƯA?
Nước từ biển bốc hơi
Thành mây trắng trên trời
Nếu gặp luồng khí lạnh
Thì sẽ có mưa rơi
Đây có lẽ là một đoạn văn vần do thầy (cô) giáo (môn Khoa Học Tự Nhiên) nào đó đặt ra để học trò dễ nhớ. Chỉ là sản phẩm của lý trí, không phải thơ.

BIỆT  NHẤT  PHƯƠNG

Đáo tận yên hà xứ
Hồi đầu biệt nhất phương
Mục tiền sơn thủy hạo
Nguyệt hiện thảo đầu sương
(Viên Minh, từ tác giả)

Đến tận vùng mây nước
Ngoảnh lại riêng một cõi
Trước mắt núi sông hùng vĩ
Trăng hiện trên hạt sương đọng trên đầu nhọn cỏ

Tác giả sảng khoái đến độ lạc thần trí trước vẻ đẹp của mây núi, sóng nước nhưng không có một chút tư ý, tư dục. Có thể nói cái tiểu ngã của tác giả đã hòa nhập vào cái đại ngã của đất trời, của vũ trụ. Đây là bài thơ thiền

MUỐN LÀM MÂY TRẮNG
Ta muốn làm mây trắng
Bay về Huế mộng mơ
Chờ đến khi nắng hạn
Đổ xuống một trận mưa
(Không biết xuất xứ)
Cảm xúc đã dạt dào trên trang giấy. Đây là tâm tình của một người Huế rất nặng tình với Huế. Muốn Làm Mây Trắng đích thị là một bài thơ (Thơ Thế Tục)

Trở Lại Mấy Đoạn Thơ Của Anh Thái Hưng Nguyễn

Anh Thái Hưng Nguyễn trước sau đem vào cuộc tranh luận 4 đoạn thơ có vóc dáng của loại thơ Haiku của Nhật. Một trong những đặc tính quan trọng của loại thơ này là không mô tả cảm xúc mà chỉ ghi nhận sự kiện, sự việc đang xảy ra. Chúng ta thử xem lại từng đoạn:

 1/
Đầm xưa.
Cóc nhảy vô.
Nước té vang.
Với nhận xét của một người nghiên cứu thơ Việt, dựa vào hai Đinh Nghĩa Thơ của người Việt (Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Hưng Quốc) tôi cho rằng đây là một bài thơ (Thơ Thế Tục) viết bóng gió về những kỷ niệm của một khoảng thời gian nào đó trong quá khứ. (Nhận Diện Thơ).

2/
 Ao cũ.
Chú cóc nhảy vào.
Tiếng nước xao.
Có lẽ anh lấy ý từ bài Haiku nổi danh nhất của văn học Nhật:

Xưa cũ một bờ ao
Con ếch tung mình xuống
Và vang tiếng nước xao
 (Bashô)
Như đã bàn tới trong Nhận Diện Thơ, đây là một đoạn thơ hoài niệm về một thời nào đó trong quá khứ. Có cảm xúc của thất tình lục dục nên đã có thể mang danh hiệu Thơ (Thơ Thế Tục)..

3/
Đồi trọc.
Thoảng trong gió.
Tiếng cóc.

Ở đây không thấy sự nhộn nhạo của chữ Tình (thất tình lục dục) nên không thể mang danh hiệu Thơ (Thơ Thế Tục). Tác giả đã ngừng đúng lúc để có thể nhìn cảnh vật như thị, như thực, đúng như nó đang là, không bị biến đổi bởi tư ý, tư dục. Vì thế đây có thể xem là một Bài Thơ Thiền.

4/
Đầm hoang
Con Cóc nhảy vô
Nước té vang.
Đoạn này cũng tương tự như đoạn 3 ở trên – cũng là bài thơ thiền.

Kết Luận
Trong bài Nhận Diện Thơ tôi cho rằng hai đoạn 3 và 4 không phải là Thơ nhưng không nói rõ ràng là “Chúng không xứng đáng danh hiệu Thơ Thế Tục nhưng có thể xếp vào một loại thơ khác là Thơ Thiền.” Sợ bạn đọc hiểu lầm nên phải viết bài này để giải thích trước. Tôi đã gởi thư nhờ các trang web đăng bài Nhận Diện Thơ sửa chữa lại. Sau khi hoàn tất bài viết này tôi cũng sẽ vào FB của mình cùng các trang văn học của các bạn trẻ sửa chữa lại cho chính xác. Thành thật xin lỗi tất cả độc giả về những phiền toái, nếu có.

Phạm Đức Nhì

READ MORE - BÀN THÊM VỀ NHẬN DIỆN THƠ - Phạm Đức Nhì

NGHE HẠT MƯA RƠI -Cảm nhận bài thơ “Trăn trở” của tác giả Đỗ Minh Hằng - Ts. Nguyễn Đình Nguộc





TRĂN TRỞ

Đêm buồn nghe hạt mưa rơi
Giọt thương, giọt nhớ một thời chờ ai?
Giọt ngắn khóc với giọt dài
Thương ai... trăn trở đêm hoài nhớ mong...

Mưa rơi trắng cả cõi lòng
Một mình ôm lấy long đong một mình
Đêm dài nối với bình minh
Một mình ngồi tựa bóng mình mà thương.

Một thương nhớ gửi hai phương
Liệu phương trời ấy có thường cùng ta
Mến yêu nối với bao la
Hạt mưa ngày ấy có hòa mưa nay. 

                   Đỗ Minh Hằng
    Vũng Tầu đêm mưa 18/7/2012
     
                      NGHE HẠT MƯA RƠI 
   Cảm nhận bài thơ “Trăn trở” của tác giả Đỗ Minh Hằng 

Đọc bài thơ tình “Trăn trở” của tác giả Đỗ Minh Hằng trong tập thơ Tản mạn vầng trăng, Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2014 ta cảm thấy lòng mình thật xúc động trước tình cảm yêu thương, nhớ nhung da diết của một thiếu phụ với người thương vì một lý do nào đó không đến được với nhau, cần được chia sẻ bởi những người đồng cảm.
 Những vần thơ lục bát dịu dàng, tha thiết nhiều trăn trở, viết trong một đêm mưa buồn đầy tâm trạng:

         “Đêm buồn nghe hạt mưa rơi
          Giọt thương, giọt nhớ một thời chờ ai?”

Hai câu mở đầu bài thơ như một bản phác thảo bức tranh bằng cảm xúc.  Vũng Tầu, một đêm mưa trong tĩnh lặng... ngồi một mình nghe rõ từng “hạt mưa rơi” thánh thót. Nỗi buồn từ đâu bỗng tràn về... trong lòng thật trống trải, cô đơn. Bằng cảm xúc tinh tế, đầy trải nghiệm của một thiếu phụ đa tình, những giọt mưa bỗng trở nên sống động, có tâm hồn, biết thương, biết nhớ... “Giọt thương, giọt nhớ một thời chờ ai?”. Và, hình bóng “mối tình đầu” hiện về trong tâm tưởng với bao kỷ niệm tràn trề hạnh phúc của những tháng ngày yêu nhau một thời tuổi trẻ, vừa trong sáng, hồn nhiên; vừa khờ khạo, thơ ngây. Với người thanh nữ, tình yêu đầu đời thật đẹp. Lần đầu được bạn trai thương mến ngỏ lời hò hẹn trong lòng ngây ngất niềm vui. Con tim cứ thổn thức, rộn ràng hoài  không sao kìm nén nổi. Mỗi lần hò hẹn, thời gian chờ đợi sao dài vậy, chỉ mong sớm gặp người yêu, được ngắm nhìn khuôn mặt thân thương, được lắng nghe những lời tỏ tình dịu dàng, êm ái thầm thì bên tai. Người thơ thật đa tình khi nghe hạt mưa rơi liên tưởng đến những “giọt thương, giọt nhớ” ngọt ngào khi chờ đợi người thương. Tôi có linh cảm rằng, mối tình đầu của họ thật đẹp, đầy thơ mộng và sâu nặng nghĩa tình. Chắc vì một lý do khách quan nào đó cô gái trẻ chưa từng trải phải nói lời chia tay người thương, lên xe hoa với người khác dù trong lòng không nỡ. Nhưng có lẽ cuộc hôn nhân sau đó không hạnh phúc nên trong lòng đầy ân hận, nhớ thương.

       “Giọt ngắn khóc với giọt dài
         Thương ai... trăn trở đêm hoài nhớ mong...”

Mỗi khi xúc động, một số người thường biểu cảm bằng những giọt nước mắt: khóc vì niềm vui đến quá bất ngờ, hoặc buồn quá nước mắt cứ chảy ra giàn giụa. Nhưng, “Giọt ngắn khóc với giọt dài” thì không thể khóc vì niềm vui được mà đích thực phải là khóc bởi nỗi buồn riêng không thể cầm lòng! Họ khóc như than thở với nhau vì tình yêu đầu đời đã “mất”. Hình tượng “giọt ngắn”, “ giọt dài” không phải nói về trường độ của những giọt nước mắt mà là sự trải lòng của người bạn gái với người bạn trai qua những “giọt thương, giọt nhớ”. Khóc với người thương năm xưa...  những giọt nước mắt vừa nuối tiếc; vừa thương nhớ khôn nguôi, “trăn trở đêm hoài nhớ mong...”. Bốn câu lục bát của  khổ thơ đầu đã nhắc về người thương đến hai lần với những cung bậc tình cảm được gia tăng: “nhớ ai”, “thương ai” đầy “trăn trở”.”Ai” là một đại từ nhân xưng không xác định nhưng bạn đọc đều hiểu đó là người “thương thầm, nhớ vụng” của người thơ.

          “Mưa rơi trắng cả cõi lòng
           Một mình ôm lấy long đong một mình”

Những vần thơ nhiều thương cảm đọc lên cảm thấy trong lòng buồn vời vợi... “Mưa rơi trắng cả cõi lòng”. Câu thơ đầy ma mị làm xúc động lòng người, ta cảm thấy trái tim mình se lại. Tôi bỗng nhớ đến câu Kiều: “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Trong tâm trạng buồn thương nhớ người xưa, nghe mưa rơi (mưa đêm chắc khó nhìn rõ) mà thấy “ trắng cả cõi lòng”. Từ “trắng” dùng  thật “đắt”. Tôi có cảm nhận rằng ở đây không phải là màu trắng có thể nhìn thấy được mà tác giả đã dùng nghệ thuật ẩn dụ nói về mối tình đẹp không còn nữa, đã mất hết rồi, trắng tay theo những hạt mưa rơi.  Câu thơ thật hay, hình ảnh thật đẹp với 6 từ ngữ chắt lọc, vừa đủ... đã truyền cảm đến bạn đọc “cõi lòng” trăn trở của người thơ trong một đêm mưa buồn đơn lẻ: buồn từ cảnh sắc bên ngoài tràn vô, buồn từ trái tim “thất tình” lan tỏa, quyện vào nhau, hòa nhập trong nhau làm nỗi buồn thêm miên man... Có thể nói đây là câu thơ hay nhất trong bài, là câu đinh của bài thơ chắc chắn sẽ được nhiều bạn đọc chia sẻ, nhớ mãi. Câu bát tiếp theo bổ trợ cho câu lục thêm rõ nghĩa: “Một mình ôm lấy long đong một mình”. Mở đầu và khép lại câu thơ, người thơ dùng điệp từ “một mình” để nhấn về nỗi buồn lẻ loi đơn chiếc, đồng thời cũng làm cho câu thơ sinh động hẳn lên. Hạnh phúc của người phụ nữ khi đến tuổi trưởng thành được làm vợ, thủy chung với người bạn đời như đũa có đôi, “ấm cùng sưởi, rét cùng run”, cùng “chia ngọt sẻ bùi” với nhau trong cuộc sống, nuôi dạy con cái nên người. Những người mẹ đơn thân, lẻ bóng một mình trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đều vất vả, long đong... luôn ước ao, khao khát một bờ vai tin cậy. Song, không phải ai cũng tìm lại được một nửa yêu thương của mình. Nhiều người vẫn phải âm thầm chịu đựng trong những tháng năm dài.

           “Đêm dài nối với bình minh
            Một mình ngồi tựa bóng mình mà thương”

Câu thơ đầy thương cảm làm trái tim ta nghẹn lại. Cảm ơn tác giả đã nói hộ nỗi lòng của biết bao bà mẹ đơn thân. Nhiều đêm thức trắng, không chợp mắt vì nỗi lòng trăn trở khôn nguôi. Người biết làm thơ còn có thơ bầu bạn để trải lòng mình cho vơi đi nỗi buồn đơn lẻ. Người không biết làm thơ thì âm thầm chịu đựng. “Một mình ngồi tựa bóng mình mà thương”. Câu thơ như một bức ký họa buồn. Người thiếu phụ khuôn mặt buồn vô cảm, ngồi một mình lặng lẽ, phía sau là cái bóng của chính mình. Khi người ta lựa chọn điểm tựa thường là chỗ tin cậy, vững chắc để dựa vào mỗi khi gặp khó khăn. Nhưng người phụ nữ đơn thân đâu có quyền lựa chọn. Hình ảnh “một mình ngồi tựa bóng mình” sao mỏng manh, lẻ loi đến vậy. Cái bóng là ảo ảnh, đâu có thực. Mọi “công kia việc nọ” trong cuộc sống một mình, chỉ có một mình tự lo. Câu thơ hay, có sức lan tỏa, đi vào lòng người chắc sẽ nhận được nhiều cảm thông, chia sẻ của bạn đọc.    

        “Một thương nhớ gửi hai phương
         Liệu phương trời ấy có thường cùng ta”

Trong tình yêu, tình cảm của người phụ nữ luôn sâu đậm, thủy chung nên nỗi nhớ thương trong xa cách được dấu kín trong lòng, chỉ dành riêng cho một người duy nhất. “Một thương nhớ gửi hai phương”. Nỗi lòng thương nhớ chỉ có một nhưng được gửi hai phương, phải chăng là nghịch lý? Tôi nghĩ không phải vậy. Có lẽ người thơ muốn diễn tả về mối tình trong xa cách. Ở “hai đầu nỗi nhớ” họ cùng chung một nỗi niềm thương nhớ, cùng mong muốn gửi cho nhau đầy ắp những tình cảm yêu thương. “Hai phương” chính là phương anh, phương em - nơi hai người đang nghĩ về nhau, nhớ thương nhau. Đó là tình cảm của những đôi lứa yêu nhau. Nhưng với người thơ không ở trong hoàn cảnh đó. “Liệu phương trời ấy có thường cùng ta”. Như vậy đây là tình yêu đơn phương, chắc gì “phương trời ấy” còn nhớ đến người xưa? 

         “Mến yêu nối với bao la
          Hạt mưa ngày ấy có hòa mưa nay”

Yêu là một thứ tình cảm đặc biệt: khi vui, vui đến đắm say; khi buồn, buồn đến tái tê cõi lòng. “Mến yêu nối với bao la”. Phải chăng người thơ muốn trải lòng mình, phát đi tín hiệu gửi đến người năm xưa ấy lòng mong muốn được nối lại tình xưa? Tôi nghĩ rằng, nếu người năm xưa cũng đang buồn vì gia cảnh không hòa thuận, biết đâu “trâu về hợp phố”, tình cảm năm xưa lại “nối” về. 
Câu kết khép lại bài thơ tình vẫn còn băn khoăn, trăn trở. “Hạt mưa ngày ấy có hòa mưa nay”. Hình tượng  “mưa ngày ấy” và “mưa nay” ở đây biểu đạt cho tình cảm yêu thương đôi lứa. “Trăn trở” là bài thơ tình có kết mở nên hy vọng tín hiệu gửi đi sớm được hồi âm. Mong rằng chúng ta sẽ được nghe những hạt mưa vui.

                                                   Hà Nội, mùa Xuân 2017
                                                   Ts. Nguyễn Đình Nguộc
                                Câu lạc bộ thơ văn Tiếng vọng Thành Nam
  

READ MORE - NGHE HẠT MƯA RƠI -Cảm nhận bài thơ “Trăn trở” của tác giả Đỗ Minh Hằng - Ts. Nguyễn Đình Nguộc