Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Tuesday, January 2, 2018

NGHĨ NGẮN VỀ THƠ HOÀNG QUÝ * Lê Thiên Minh Khoa

Hoàng Quý Thi Sĩ

NGHĨ NGẮN VỀ THƠ HOÀNG QUÝ (1)
                           Lê Thiên Minh Khoa

      Nhà thơ Hoàng Quý (HQ) nay đã ngót 70, nhưng đến gần tuổi trung niên anh mới làm thơ. Dù trễ, nhưng thơ anh cứ băng băng lao nhanh về phía trước. Từ cuối thập niên 90 của thế kỷ trước đến nay, trong 20 năm, anh cho ra đời nhiều tập thơ: Giấc Phì Nhiêu (NXB Văn Học, 1996), Đi Bên Mùa Là Rụng (NXB Văn Học, 2000), Ngang Qua Cánh Đồng (NXB Hội Nhà Văn,  2002; tái bản, 2004), Giả Trang (NXB Văn Học, 2007)… cùng nhiều trường ca: Đối Thoại Trắng (2004), Những Ngấn Bùn Trên Mũi Chân Tổ Quốc (2011)…  và nhiều Giải thưởng văn học có giá trị.(2)

       … Thực ra, “văn kỳ thanh” từ lâu nhưng tôi mới “kiến kỳ hình”  Hoàng Quý sau nầy, khi chuyển sinh hoạt từ Hội VHNT Đồng Nai  về Hội VHNT BR-VT (anh là hội viên Hội nhà văn VN, sống tại Vũng Tàu), nhưng rất quý trọng anh bởi cái tâm công dân, và cái tài thơ ca của anh. Theo tôi, thơ anh ở cấp độ và xứng tầm thi sĩ, và anh là một trong những gương mặt đáng nể trọng của thi ca  Việt Nam đương đại, bởi thơ anh có một phong cách (styl) riêng, độc đáo, mới lạ, “không giống ai” cả về nội dung trữ tình lẫn thi pháp_ nghệ thuật thơ ca.
       Về nội dung trữ tình, thơ anh hòa quyện giữa một cái tôi trữ tình cá nhân ngang tàng, phóng khoáng, cháy bỏng mà nhân hậu, nhạy cảm với một cái tôi trữ tình công dân yêu thương mặn nồng, hữu trách với Tổ Quốc, Nhân Dân. Hai cái tôi trữ tình nầy được biểu hiện bằng một giọng thơ riêng, lạ, một tình cảm rạo rực, nồng nàn, say đắm cùng  những liên tưởng bay bổng, bất ngờ rất Hoàng Quý. Thi sĩ họ Hoàng   có những câu thơ, bài thơ găm sâu về thân phận con người, nhân dân làm người đọc rạo rực, bồi hồi trăn trở và những câu thơ, bài thơ lắng sâu về Tổ quốc đất nước làm xúc động, đồng điệu, khơi dậy, bừng lên tình yêu đất nước quê hương kín sâu ở mỗi người:
“Nhân dân tôi
Nhân dân cô đơn
Nhân dân khiêm cung
Kham nhẫn và dịu dàng
Người là nước mà luôn thiếu khát
Người như lúa khắp ruộng nương nước Việt
Những hạt lúa dại vụng
Ấm và xót
Ngoi trên nắng
Dạt trên nước
Xác cháy trên tay chai
Xướp ráp tận ruột
Lấm láp và tinh tươm
Thơm tho sen súng
Giấc mê mẩn người
Thảng như ca dao
Xum xuê như cổ tích”
          (Trích Trường ca: Đối Thoại Trắng)

“Nếu bạn hỏi Đất Nước tôi bao tuổi
Xin hãy đếm những ngấn bùn châu thổ quê tôi
Nếu bạn hỏi về tầng sâu lịch sử
Xin đếm những ngấn bùn bồi đắp nước non tôi”
          (Trích Trường ca: Những Ngấn Bùn Trên Mũi Chân Tổ Quốc)

         Đề từ cho tập thơ “Ngang Qua Cánh Đồng”, anh viết “Cái hạt thơ anh gieo, tôi gieo với biết bao khó nhọc có thể sẽ nên cây mà cũng có thể thui chột như chưa từng hiện hữu…”. Hạt thơ … gieo với biết bao khó nhọc. Vâng, sáng tác thơ là một lao động sáng tạo đặc thù đầy cá tính trong cô đơn và tân khổ của nhà thơ. Thơ là niềm vui, là nỗi buồn, là vết đau, là cơn co giật, là phút thăng hoa, là hoài bão khát vọng, là mồ hôi, nước mắt, kể cả là tim óc, máu thịt (đúng cả nghĩa đen và nghĩa bóng của từ “tâm huyết”) của nhà thơ và của nhân dân đã sản sinh ra mình (“Nhân dân sản sinh ra nhà thơ để nói hộ nhân dân những điều mà nhân dân không nói được”- Gamzatôp) . ..  Với phong thái tao nhã nhưng phong thế lại  vật vã, với tấm lòng trong trẻo, một thái độ ứng xử nhất quán, thẳng thắn, rạch ròi nhưng luôn luôn đằm thắm, vị tha và nhân hậu trước trùng vây tối sáng cuộc người, bằng tài năng và nghiệm sống của chính mình thơ của họ Hoàng luôn luôn gây những bất ngờ, dào dạt cảm xúc, nhiều khi khác thường, những  rung động mãnh liệt với thi hình, thi ảnh, ngôn ngữ, hình tượng thơ độc đáo, khác lạ, mới mẻ, trí huệ…:
                        
“Như một cuộc trường chinh vĩ đại
  Những ngấn bùn tụ hội ở Giao Châu
  Những ngấn bùn thăm thẳm
  Rất xưa và rất lâu
  Những ngấn bùn bất khuất
  Đắp bồi từ đớn đau
  Những ngấn bùn kiêu hãnh
  Không bao giờ cúi đầu”
         (Trích Trường ca: Những Ngấn Bùn Trên Mũi Chân Tổ Quốc)

                   “… Ai là bạn
Hãy đền với chúng tôi xoải chân trần trên cát
Lắng tiếng trở mình thao thức phù sa
Nghe đất thở dưới tán rừng châu thổ
Sưởi làn hương thắp Tết Ộng Bà
Xin bạn cứ ruổi rong thỏa thích
Suốt vòng cung đầy nắng nước non tôi
Cùng vỗ chiêng, cồng
Như vỗ những mặt trời nho nhỏ
Sẽ gặp đàn chim cổ tích bay ra
Bạn thử ướm bàn chân tõe ngón
Những bước bùn, bước mẹ, bước em tôi
Bạn sẽ hiểu vết bùn như máu đọng
Trên vai trần trên tóc khét cha tôi”
            (Trích Trường ca: Những Ngấn Bùn Trên Mũi Chân Tổ Quốc.)
         

            Ngôn từ trong thơ Hoàng Quý lạ lẫm, táo bạo, tưoi mới, đắc địa, biến ảo, nhiều khi lẫm liệt, đặc biệt rất nhiều từ “lệch chuẩn” làm người đọc vừa sửng sốt, vừa thú vị.  “Lệch chuẩn” nghĩa là vừa giống mọi người (chuẩn), vừa khác mọi người (lệch). “Giống” tức là theo chuẩn mực chung về sử dụng ngôn ngữ để mọi người hiểu được. “Khác” tức là phải có cái mới, cái lạ mới thành thơ để mọi người thích. Chẳng hạn Hoàng Quý viết: “Sóng rất ênh uôm”,“nước mắt phì nhiêu”, “cười hoang vu”, “Đuềnh đoàng nón thúng”, “Nụ thắp xanh xao”, “Ướp đêm biên tái”, “Chiều như mắt biếc”…

        Xin dừng lại ở hình ảnh “cười hoang vu”  trong  câu thơ “Chớ cười hoang vu như thế nữa” (Thôi em về đi). Hoang vu là nói về nét hoang liêu, vắng vẻ của một vùng đất,  ở đây anh dùng để chỉ nụ cười của cô gái: cười hoang vu là nụ cười trong trắng, vô tư, ngây thơ , hồn nhiên và…dại khờ. Anh lắp ghép những từ ngữ cũ kỹ để tạo thành từ ngữ mới mẻ, lạ lùng, có “hồn chữ quẫy cựa”, có sức biểu nghĩa phong phú, sức biểu cảm lắng sâu, thi hình biến ảo, thi ảnh bất ngờ…

         Tôi đã đọc trên 300 bài thơ viết trong chừng 20 năm của Hoàng Quý. Mỗi bài là một thi phẩm đúng nghĩa. Tiếng thơ vạm vỡ, tình thơ cô nén, mạch ngầm gợi nghĩ, giọng thơ sang trọng, ngôn ngữ trong trẻo, đa thanh, biến ảo, rất nhiều ma lực, tứ thơ vững chãi.

         Ai cũng biết tứ thơ là một yếu tố không thể thiếu của một bài thơ, nhất là thơ hiện đại.Tứ thơ là một khái niệm có vẻ rất khái quát và trừu tượng nên có nhiều cách diễn giải. Theo tôi, “tứ” được hiểu như là một phương thức để tổ chức liên kết các ý trong bài thơ và hệ thống các ý đó với  bức tranh tâm trạng - tình của nhà thơ và biểu hiện chúng bằng yếu tố ngôn ngữ - từ.. Cả ba yếu tố đó - tình, từ, ý - thông qua phương thức tứ, tổng hòa trong một thể thống nhất gọi là bài thơ – tác phẩm. Vì vậy, tứ được coi như xương cốt của bài thơ và là tiêu chí  bậc nhất  để phân biệt Thơ và “cái giống thơ” nhưng “không phải thơ” như vè, văn vần, khẩu hiệu minh họa, tuyên truyền cổ động… hoặc bài “ráp vần, xếp chữ” của nhiều người “chơi thơ” hiên nay mà thôi, Như thế, chất trí tuệ, năng lực hư cấu văn học và trí tưởng tượng của nhà thơ được vận dụng hết công suất để xây dựng tứ thơ mà giới chuyên ngành gọi là “cấu tứ”.

        Mỗi bài thơ của Hoàng Quý đều dệt kết đan cài và hội tụ quanh tứ với bút pháp nội tĩnh ngoại động (hoặc ngược lại) hài hòa, tinh tế, nhuần Việt, đầy sinh khí, huyền ảo (nhiều khi uyên áo, ảo diệu, mộng mị) giữa tình, từ, ý trong toàn bài. Có lẽ chính “tứ” tạo nên giọng điệu rất riêng, dữ dội mà không chói gắt, quyết liệt mà mà vẫn ấm nồng, sáng giá, cùng nhịp điệu, nhạc điệu khoát hoạt ẩn trong thơ tạo nên dư ba. Cấu trúc sáng tạo, khác thường riêng anh có thể biến những câu không vần, ngắn dài không đều nhau, và, những bài thơ văn xuôi của anh hóa thành THƠ và là thơ hay. Bài thơ văn xuôi “Giấc Phì Nhiêu” trong tập thơ cùng tên của họ Hoàng là một minh họa tiêu biểu:                       
“Rất nhiều khi ta thảng thốt mơ giấc phì nhiêu của đời người
em đâm đuống, em trỗ ống, ta đánh cồng và ca hát khúc ca
của Mường Người…”

        Xin trích lại đánh giá của cố Thi sĩ - Nhà phê bình Trịnh Thanh Sơn về Hoàng Quý và Thơ Hoàng Quý thay cho lời kết: “Hoàng Quý là một thi sĩ tài năng bẩm sinh, giọng thơ rất riêng đầy ma lực và khác thường, một giọng thơ độc đáo, một tâm tưởng độc đáo và thi pháp độc đáo. Thơ của nhà thơ tài năng và lãng tử này rồi sẽ còn phải bàn đến vào lúc những giá trị thật của thi ca được định giá sòng phẳng. Hoàng Quý là nhà thơ luôn mang nghĩa cử của một thi sĩ đích thực trong cái không gian sống đã chen chúc nhiều tệ hại.”

(Còn tiếp.)

Lê Thiên Minh Khoa

:(1): Trích trả lời phỏng vấn của Đài PTTH BRVT về nhà thơ Hoàng Quý.

:(2): Thơ   Hoàng Quý được trao tặng các giải thưởng: Giải Nhất của Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam năm 2003 cho tập thơ “Ngang qua cánh đồng”; Giải Nhì 50 năm Văn học Biên phòng, 2008; Giải Ba cuộc thi lớn “Thơ về Hà Nội – Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, 2010)… Toàn bộ tiền thưởng của các giải thưởng Hoàng đều  hiến tặng: Hội nạn nhân chất độc da cam/ Đi ô xin Việt nam, Quỹ mái ấm người nghèo biên giới, hải đảo, và Trường học sinh khiếm thị Nguyễn Đình Chiểu Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội (LTMK)

READ MORE - NGHĨ NGẮN VỀ THƠ HOÀNG QUÝ * Lê Thiên Minh Khoa

MAI CHIẾU THỦY - Ảnh của Chu Vương Miện







READ MORE - MAI CHIẾU THỦY - Ảnh của Chu Vương Miện

CŨNG VÌ HY VỌNG * Truyện ngắn của Thủy Điền

          


Cũng Vì Hy Vọng 

        Vừa hớp ngụm Cà-phê, vừa nhìn vợ, Hân bảo:
       -Em nầy! Hôm nay đầu năm, đầu tháng mà sao gương mặt em thế nào nhỉ.
       -Anh quên rồi sao, tháng nầy em lo nhiều lắm.
       -Lo cái gì? Lẽ ra những ngày nầy em phải vui vẻ lên chứ, năm mới còn hé lên những tia hy vọng. Đàng nầy, anh thật sự không hiểu nổi.
       -Chết đói tới nơi rồi kìa, mà còn trách với hờn.

       Hơn mười năm nay, sau khi cái hãng sắt lớn trong tỉnh, là nơi gia đình Hân nương tựa kể từ ngày sang Đức đã bị đóng cửa. Hân bị thất nghiệp, lãnh thất nghiệp được một năm với số lương 75% so với lương chính và sau đó được chuyển sang lãnh Xã hội và chờ ngày tìm công việc mới.

       Với số tuổi đời năm mươi, sau khi thất nghiệp phải nói muốn tìm một việc khác tương ứng cũng không phải dễ. Nhiều lần chàng được Sở Lao động giới thiệu đến các hãng xưởng mới cũng như những lần chàng tự đi tìm việc một mình mà cũng chẳng có nơi nào chiếu cố cả. Bởi tội quá già. Chính vì thế, nên chàng phải đành nằm nhà nhận số tiền Xã hội trợ cấp lâu dài cho đến nay. Hồi đầu thì thiếu trước, hụt sau. Nhưng dần dà thì cũng quen đi và chuyện đâu cũng vào đó.

       Cuộc sống trong gia đình có giới hạn, một vợ, ba con tháng nào cũng vừa lấp tháng nấy không dư một đồng xu nhỏ. Biết thế, nhưng năm nào cũng vậy hể đến tháng giêng là gia đình chàng bị rơi vào cảnh túng thiếu cực kỳ mà chàng chẳng thèm rút kinh nghiệm. Bấy nhiêu lần bà vợ cản ngăn, nhưng chàng vẫn quyết làm hầu mong mỏi cái may mắn sẽ đến với mình trong tương lai.

       Cuối tháng mười hai vừa qua, là ngày nhà nước chuyển tiền Xã hội vào cho gia đình chàng như thường lệ. Đúng ra khi mua sắm những vật dụng và thức ăn cần thiết xong, số còn lại chàng phải mang về nhà để sử dụng tiếp cho những ngày tới. Đàng nầy còn bao nhiêu chàng mua bia, rượu và pháo tất, è ạch mang về chờ khi giao thừa đến là mang tất cả ra vui mừng cùng bè bạn và những người hàng xóm nhằm mục đích đón xuân và hy vọng những ngày mới sẽ mang lại cho gia đình chàng nhiều may mắn.

       Trong cơn say, vui thú, hy vọng chàng quên mất hai mươi chín ngày còn lại của tháng giêng cả gia đình chàng phải nương tựa vào đâu khi nhà chẳng còn một hạt gạo dính lu.

       Ngoài sân đêm giao thừa pháo nổ, nâng ly mừng xuân mới, chàng vui say. Trong nhà, Thúy Anh gục đầu, rơi... rơi… từng giọt nước mắt.

      May đâu chẳng thấy, rủi vây quanh nhà.

Thủy Điền
01-01-2018


READ MORE - CŨNG VÌ HY VỌNG * Truyện ngắn của Thủy Điền

Thơ Tình Lục Bát 2018: PHÙ DUNG 1 - 2 * Lê Kim Thượng

Tác giả Lê Kim Thượng


Thơ Tình Lục Bát 2018:            
PHÙ DUNG 1 - 2

1.

“Thương nhau như lửa cháy phừng
Dầu cho lở núi, tan rừng... cũng thương...”
Em qua đường nắng ngọt hương
Hàng Cây Gạo vẫn ven đường xôn xao
Thương em da trắng, má đào
Làn môi, sóng mắt gửi trao dỗ dành
Áo tà trắng xóa mỏng manh
Nghiêng nghiêng nón lá... thanh thanh dáng hiền
Nắng qua bóng lá xiên xiên
Gió đùa sợi tóc bay nghiêng môi cười
Đỏ hồng đôi má hổ ngươi
Dịu dàng lời nói, nụ cười giai nhân
Bên em hơi thở rất gần
Mùi hương con gái lâng lâng bềnh bồng
Ru em... lòng ấp vào lòng...
Võng đưa chao mãi... hương nồng Phù Dung
Đôi tim hòa một nhịp chung
Hoa Thiên Đường nở trên vùng băng trinh...

2.    

Tóc xưa buông xõa gợi tình
Tặng tôi sợi tóc... đinh ninh lời thề
Dẫu đi tám hướng sơn khê
Vấn vương sợi tóc... tìm về thăm nhau
Hoa trôi... nước chảy về đâu?
Bên sông sóng vỗ chân cầu buồn tênh
Cầu quê lắt lẻo chông chênh
Một bên nhung nhớ... một bên bồi hồi
Hai người chung một trăng soi
Cô đơn bên ấy... lẻ loi bên này
Tình ta... như sợi khói bay
Lắt lay theo gió Heo May cuối mùa
Tình ta... mưa dội, gió đùa
Để Lầu Hoàng Hạc... bốn mùa hoàng hôn
Tình ta... bới đất đem chôn
Biết đâu đất có tâm hồn... buồn chung?
“Đôi ta chẳng đặng, thì đừng
Phận duyên Trời định... nửa chừng xa nhau
Em đi bỏ Quạt Lan Châu
Bỏ thương... bỏ nhớ... bỏ sầu... cho anh...”                                     

                             Nha Trang, tháng 01, 2018.
                                    Lê Kim Thượng
lekimthuongtho@gmail.com
“...” Ca dao


                              
READ MORE - Thơ Tình Lục Bát 2018: PHÙ DUNG 1 - 2 * Lê Kim Thượng

TỪNG ĐÊM BÓNG NGÃ ĐÈN MÀU *Thơ Trương Thị Thanh Tâm

Tác giả Trương Thị Thanh Tâm

Từng Đêm Bóng Ngã Đèn Màu 
                
Xa rồi một nửa của tôi 
Tháng năm hờn giận để rồi chia xa 
Bây giờ hối tiếc ngày qua 
Người mang trọng bệnh trầm kha bên mình 

Đời còn lắm nỗi điêu linh 
Đường xa dịu vợi hương tình cũng phai 
Bây giờ ai đúng ai sai 
Người không nhận định... tôi hoài trách sao!

Ngày nào ân ái trao nhau 
Từng đêm bóng ngã đèn màu riêng ta 
Vậy mà một cú điện xa 
Sáng ngày đưa tiễn thế là... mất nhau 

Bao năm thương nhớ dạt dào 
Giờ còn... là chỉ ngẩn ngơ u hoài 
Người đi năm tháng miệt mài 
Bao giờ trở lại? Chúa trời ơn cho 

Ngước lên xin với trời cao 
Ơn ban cho khắp muôn người trần gian 
Đừng cho hồn phải lang thang 
Dật dờ theo gió mây ngàn trôi xa...

             Trương Thị Thanh Tâm 
                         Mỹ Tho


READ MORE - TỪNG ĐÊM BÓNG NGÃ ĐÈN MÀU *Thơ Trương Thị Thanh Tâm