Nguyễn Tài My |
Thơ Việt từ truyền thống ra hiện đại là một chặng đường dài
với nỗ lực không mệt mỏi của nhiều thế hệ cầm bút. Trên hành trình mở đường cho
thơ phát triển, buổi đầu, không ít nhà thơ tiên phong gặp những lực cản trước
sự trì níu theo quán tính của kiểu tư duy cũ vốn dễ bào mòn cá tính sáng tạo và
suy giảm năng lượng tỏa phát của con chữ. Dù duyên thơ đến muộn, nhưng Nguyễn
Tài My đã tạo cho lối diễn đạt có tính biểu cảm một giá trị mới đáng để tìm
hiểu.
Một trong những cách giải bày tâm thức, tâm trạng ngõ hầu
tìm tới sự giao cảm có lẽ không gì hay hơn bằng thơ. Người làm thơ là thiên sứ
mang thông điệp yêu thương và khát vọng thường hằng đồng hành qua bao miền mưa
nắng cuộc đời, là hành giả cô đơn miên trường chứng ngộ u minh vây bủa thân
phận con người. Đọc “Kiến thi”(*) của thi sĩ Nguyễn Tài My, dễ dàng nhận ra con
mắt thơ tỏa phát ánh sáng từ lửa tâm thao thức ấy.
Là nhà sáng tạo, dường như những gì thể hiện trong “Kiến
thi”, ta còn thấy tác giả không rập theo khuôn mẫu định sẵn mà mạnh dạn kiến
tạo và cấu trúc lại thi ca theo cách của riêng mình. Nói đúng hơn là anh ý thức
trả lại cho thơ tiếng nói “tự nhiên nhi nhiên” của trái tim, không “bắt chước”
(chữ dùng của Aristote) thụ động.
Nguyễn Tài My là một nhân cách, một trí tuệ nhuần thấm triết
lý hành thiện, dù ước mơ nhằm tới quả không dễ dàng gì nhưng thật đáng trân
trọng. Anh muốn biến giấc mơ “xây nhà trăm gian” cho dân nghèo của Đỗ Phủ thành
hiện thực, muốn xóa đi những căn nhà “ổ chuột”, những con đường lóc xóc “ổ gà”,
những cây “cầu khỉ quạnh hiu” và cao hơn, muốn “cứu người sống an cư lạc
nghiệp”. Tình yêu mang ước mơ hành thiện ấy có căn nguyên sâu thẳm:
Cõi lòng mẹ bao dung tri kỷ
Bao nhiêu lời kêu cứu mẹ đều cưu mang.
Anh thấu tỏ công ơn sinh thành:
Con làm được gì nhờ trí cha đức mẹ.
Điều đó lý giải vì sao con người tài hoa của núi Nhạn sông
Đà hiếu nghĩa thường trực lại gắn với lý tưởng sống tích cực:
Con để tang mẹ nửa bộ râu
Con để tang cha cả cái đầu yêu dân.
(Điếu văn cho người)
Ở tuổi “cổ lai hy”, nhà giáo – nhà kiến trúc – nhà thơ
Nguyễn Tài My như cánh chim bằng không mệt mỏi trong lao động và sáng tạo. Anh
đến những nơi cần đến và những ký – sự – tâm – hồn siêu thăng từ ngẫm ngợi
triết học được hóa giải bằng con chữ lấp lánh sự trải nghiệm, siêu nghiệm về
một thế giới thấm đẫm màu sắc nhân sinh. Những lúc đó, dường như nhà kiến trúc
nhường chỗ cho nhà thơ lên tiếng nói.
Thăm “Đền Abu Simbel”, anh nhận ra đằng sau sự hoành tráng
của kiến trúc là tiếng rì rầm “ai – oán – khúc – trường – ca – đá”. Biết vậy,
nhưng sự sinh nở cái đẹp nào lại không qua đoạn trường quặn thắt. Đấy là những
kỳ quan diễm tuyệt mọc lên từ khát vọng sáng tạo đau đớn và mãnh liệt.
Một Kim Tự tháp vĩ đại và huyền bí, một Pari tráng lệ, một
Sydney gợi tình, một Pisa tháp ngà nghiêng bóng xuống thời gian… tụ kết mật
đọng tâm hồn thi sĩ. Và những chân trời ru vỗ giấc mơ kia dựng dậy trong anh
nỗi nhớ nhà, nhớ quê, nhớ Tuy Hòa, nhớ Sài Gòn da diết. Có lúc anh như đi trong
mơ:
Quê hương đã có nơi xa xăm nào đó
Trôi về đây thành quê hương thần thoại
(Lí niệm quê hương)
Nhưng rồi con người từng tự thú “cả đời… ghép từng mảnh vỡ
tâm hồn” lại ngộ ra rằng không thể “lưu vong lòng vòng trong tâm tưởng” mãi
được mà phải trở về với nơi chôn nhau cắt rốn, với “không gian tình người… mênh
mông”. Bởi quê hương trong lòng mình mới thật sự là cõi đi về.
Trong “Kiến thi”, có lẽ nhà thơ dồn nhiều tâm huyết, nhiều
thao thức nhất về kiến triết và đạo đức.
Chúng ta đã biết, thế kỷ 21 là thế kỷ của kiến trúc xanh.
Nhưng xây dựng mô hình kiến trúc xanh bền vững, phù hợp với từng vùng miền khác
nhau; địa chất, thổ nhưỡng, đới khí hậu… và hoàn cảnh, tâm lý đối tượng tiếp
nhận khác nhau đòi hỏi phải có kiến triết tiên phong dẫn đường.
Nói như tác giả, “Kiến triết chiếu trên kiến – trúc – ở”,
bởi “lương thực người (là) không khí”. Xã hội hiện đại tụ sinh đô thị càng cần
đến kiến triết biết bao. Thực tế cho thấy, “quyết tâm quyền lực” và giải cứu
“đơn phương” vấn đề kiến triết chẳng những không đem lại hiệu quả mà còn đánh mất
sức mạnh quyền lực trí tuệ ấy. Tóm lại là kiến triết muốn thông đạt phải có
kiến đức vững vàng.
Lại nữa, mỗi khi nghiêng về kiến triết (nghĩa rộng), dù nói
đến bất cứ điều gì, tác giả đều đúc ra những kết luận thú vị. Phải là người
ngụp lặn trong sóng gió cuộc đời, người thơ mới ngộ ra con đường cứu cánh:
Cứu “ngã” phong ba bằng vô ngã.
Bởi cái ngã hình tướng, hay nói cách khác, cái tôi (le moi)
của mình làm tổn thương mình.
Cho nên:
Đánh mất cội nguồn bởi trám đầy hình tướng
Tịnh thiền khử hình tướng loãng dần.
Hình tướng bộc lộ rõ nhất trong công việc, nhất là “việc dễ
thành, dễ thành kiêu ngạo”. Kiêu ngạo (chứ không phải kiêu hãnh) đồng lõa với
cái xấu, vì “yêu cái xấu làm sao biết đẹp”.
Có khi, anh nói ra những điều tưởng chừng phi lý trong hiện
thực nhưng có lý trong tình cảm. Tình vỡ là cái mất nhưng cái mất lại phục sinh
nuôi dưỡng bản chất người:
Tình vỡ nuôi người sống xa nhau.
Anh tự nghiệm: Hào nhoáng “ta” xa vời. Thế nên, đời người
phải biết “sống vừa tầm khả năng/đừng lập nghiệp ngoài tầm tay với”, đừng “chờ
bị phỏng mới biết nóng”. Nhưng đồng thời cũng “đừng bạc nhược yếu hèn/ thà làm
chim bay trong giông gió”…
Đọc “Kiến thi”, cơ hồ trang nào ta cũng bắt gặp sự minh
triết được lẩy ra từ một tâm hồn nhân hậu sáng trong, thấu suốt lẽ đời. Sống
trong thời đại trí năng, có được ánh sáng minh triết ấy thật không có gì ấm áp
hơn. Tôi tin rằng, thi sĩ Nguyễn Tài My là người hạnh phúc bởi có không ít sự
đồng cảm chân thành, bởi anh chân thành trước mỗi ký tự được viết ra từ lòng
mình.
VÕ VĂN LUYẾN
(*): Thơ Nguyễn Tài My, NXB Lao động, tháng 7/ 2010