Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Saturday, July 26, 2014

NGỌA LONG CƯƠNG VÃN - Tản mạn về quê hương Quảng Trị - Giáng Ngọc

               


Tôi sinh ra và lớn lên tại Quảng Trị. Mặc dầu thời thơ ấu tôi theo gia đình đi nhiều nơi khác như Thừa Thiên-Huế, Quảng Bình, Quảng Nam-Đà Nẵng, nhưng nơi có nhiều kỷ niệm nhất vẫn là quê hương Quảng Trị.
          
Thị xã Quảng Trị trước năm 1975 gồm có 5 phường. Phường Đệ Nhất, Đệ Nhị là trung tâm của thành phố nằm trên hai con đường chính Trần Hưng Đạo và Quang Trung. Phường Đệ Tam giới hạn từ con đường Phan Đình Phùng chạy dọc băng qua Quang Trung bên hông trường Trung học Thánh Tâm trở lên đường Hồ Đắc Hanh giáp với thôn Thạch Hãn. Phường Đệ Tứ kể từ chùa Tỉnh Hội (trên đường Gia Long chạy dọc theo con đưòng đi về phía đông giáp với thôn Hạnh Hoa). Bên dưới là thôn Trí Bưu xuyên qua cánh đồng là Quy Thiện thuộc xã Hải Quy. Thôn Thạch Hãn nằm về phía Tây Bắc giáp với Quốc lộ 1A. Qua bên kia đường Quốc lộ là địa phận La Vang và đường lên Tích Tường, Như Lệ.
 
Bên kia sông qua cầu Thạch Hãn, rẻ trái là đường lên An Đôn. Xa hơn nữa đến Ba Lòng, rẻ phải là thôn Nhan Biều.Thôn Đệ Ngũ nằm trên con đường Trần Hưng Đạo kể từ nhà máy nuớc đá của anh Nguyển Văn Hiếu trở lên Ga xe lửa Quảng Trị (nằm phía bên kia quốc lộ 1A).
    
Thị xã Quảng trị rất nhỏ, có con sông Thạch Hãn chạy theo từ nguồn núi (phía Tây) và ra biển đến huyện Triệu Phong rẻ ra hai nhánh, tạo ra một ngã ba. Ở đây có rất nhiều con hến. Dân hai vùng bên kia Nhan Biều, bên này chợ Sãi có hai vạn đò sinh cơ lập nghiệp từ lâu đời chuyên khai thác hến.
        
Thành phố Quảng Trị gắn liền với cái tên Nguyễn Hoàng mà đến nay mọi người dân Quảng Trị đều biết và không bao giờ quên.
   
1/ Kể từ năm 1558, tháng 10 âm lịch, Chúa Nguyễn Hoàng mà người dân thường hay gọi là chúa Tiên, được cử vào trấn đất Thuận Hóa. Chúa bắt đầu lập dinh tại làng Ái Tử (còn gọi là Kho Cây Khế), thuộc huyện Triệu Phong ngày nay.
   
2/  Trường Trung Học NGUYỂN HOÀNG: Khi tôi lớn lên đi học tiểu học trường Nam Quảng Trị, thì tôi đã thấy có trường Trung Học Nguyễn Hoàng. Lúc đó (1954-1956) Trường tọa lạc ở Vưòn Hoa, mà dân thành phố thường gọi nôm na là Vườn Bông. Trường có hai dãy nhà trệt đối diện nhau, mái lợp xen kẻ tranh ngói, vì mưa nắng nhiều mùa nên phải chịu nhiều thay đổi. Trước nhà tôi là nhà anh Nguyễn Châu. Khi tôi đi học tiểu học, tôi đã thấy anh Châu học ở đó và sau này anh vào học Quốc Học Huế. Rồi trở thành giáo sư dạy triết. Hiện nay anh cư trú tại thành phố San Jose Bắc California Hoa Kỳ.
 
Bên trái của trường hồi đó còn có Ty Hiến Binh mũ đỏ do Pháp để lại. Gần đó có một cái bến mà chúng tôi vào mùa hè thường tắm, bơi qua sông đến bãi Nhan Biều, ở đó có nhiều cây trái dưa, để bắt dế.
  
Sau này, trường Trung Học Nguyễn Hoàng được xây dựng trên sân vận động Quảng Trị, và mãi lâu lắm trường TH Nguyễn Hoàng mới bắt đầu có cấp ba tức là từ đệ tam đến đệ nhất. Trước đó chỉ có từ đệ thất đến đệ tứ. Mọi thay đổi theo thời gian ....
 
Có một bài dân ca liên hệ mật thiết với dân Quảng Trị:
    
Mẹ bồng con ngồi cầu Ái Tử*                   
Thiếp trông chồng đứng núi Vọng Phu                   
Trông chồng bóng xế trăng lu                 
Xuất gia đầu Phật đi tu cho rồi

(*Có nơi ghi là “Mẹ bồng con ra cầu Ái Tử)

 Bài này sáng tác theo thể song thất lục bát vào thời kỳ Nam Tiến vượt Hoành Sơn, vượt sông Danh (Linh Giang) còn gọi là sông Ranh (chia hai ranh giới) thời Trịnh- Nguyễn phân tranh.
     
[Có những hòn vọng phu dọc theo duyên hải Việt Nam dài hơn hai ngàn cây số ...,  ở đó, dân thường hay trông thấy những ngọn núi có hình dáng mẹ bồng con cho nên gọi là "Hòn Vọng Phu". Nhưng, chỉ có một ngọn được chính thức gọi là "Hòn Vọng Phu " - La Mère et L’Enfant. Đó là ngọn núi tọa lạc ở phía Tây Bắc Ninh Hòa, Khánh Hòa, giáp với tỉnh Phú Yên].
   
Chúng ta biết rằng vào năm 1570, Chúa Nguyễn Hoàng dời dinh đến làng Trà Bát phía Nam Ái Tử, cũng thuộc huyện Triệu Phong. Đến năm 1660 thì Chúa lại dời dinh về phía Đông làng Ái Tử, dinh ấy gọi là Cát Dinh. Vào lúc đó, Chúa Nguyễn Hoàng còn vâng lệnh vua Lê Thế Tông và Chúa Trịnh Tùng ra Thanh Hóa để bàn việc ... Chúa Nguyễn đến thăm quan Thái Phó Nguyễn Hữu Liên và được cho xem bài văn ứng thi của thí sinh Đào Duy Từ tỏ bày thiên tài an bang tế thế. Trọng người tài giỏi, Chúa Nguyễn đã thân hành đến nhà, giúp đỡ tiền bạc cho Đào Duy Từ lo thang thuốc cho mẹ già, cùng an ủi việc Đào Duy Từ bị đánh rớt khoa thi lý do con nhà "xướng ca vô loại". Sau đó, Đào Duy Từ chịu tang mẹ là bà Vũ Kim Chi vừa mới tự sát vì sự tố cáo và áp bức của tên xã trưởng Lưu Minh Phương (theo Thái Văn Kiểm).
  
Chúa Nguyễn dặn dò với Đào Duy Từ rằng "-Lão Phu về Nam trước, đắp sẵn bái trướng chờ đợi tiên sinh. Nay, lão phu đã 70 tuổi rồi, nếu chẳng may thất lộc thì cũng không quên dạy, truyền lại cho con cháu đón tiên sinh về Nam để nghe lời chỉ dạy của tiên sinh mà lập nghiệp lâu dài.”
  
Từ đó, hai người có sự tương thân, tương kính. Nơi chỗ ở của Đào có treo một tấm hình vẻ Lưu Huyền Đức, Quan Vân Trường và Trương Dực Đức dầm mưa đội tuyết để thỉnh cầu Khổng Minh. Hai người cảm hứng bèn làm nên một bài thơ như sau:

Chúa Nguyễn xướng: 

Vó ngựa sườn non đá chập chùng
Cầu hiền lặn lội biết bao công

Đào Duy Từ tiếp:       

Đem câu phò Hán ra dò ý                                        
Lấy nghĩa tôn Lưu để ướm lòng
    
Chúa Nguyễn:

Lãnh thổ đoán chia ba xứ sở                                        
Biên thùy vạch sẵn một dòng sông
  
Đào Duy Từ:
                
Ví chăng không có lời Nguyên Trực
Thì biết đâu mà đón Ngọa Long.
        
Mấy năm sau Đào Duy Từ rời quê hương Thanh Hóa vào Nam tìm Nguyễn Hoàng, nhưng chúa Nguyễn bận đi kinh lý, hai bên không gặp được nhau. Đào Duy Từ bèn đi thẳng vào Bình Định làm gia nhân và chăn trâu cho nhà phú hộ Chúc Trịnh Long ở làng Tùng Châu, rồi sau được quan Khâm Lý Trần Đức Hòa, vì đọc bài "Ngọa Long Cương Vãn",  biết rõ tài năng của họ Đào, nên tuyển dụng và gả con gái cho Đào Duy Từ.
   
Hai bài ngâm với chúa Nguyễn và bài "Ngọa Long cương vãn", Đào Duy Từ  so sánh mình với con rồng nằm trên đồi cao, đang chờ cát nhật để xuất hiện.
   
Chúa Nguyển Hoàng mất năm Qúy Sữu 1613, hưởng thọ 90 tuổi (1525-1613), nhằm niên hiệu Hoàng Định thứ 14 đời vua Lê Kính Tông. Lúc lâm chung đã dặn kỷ con là Phúc Nguyên rằng "-Ngày trước ta ra Thanh Hóa đã gặp Đào Duy Từ. Là một bậc kỳ tài và có uớc hẹn với ta. Nếu ông ta có đến thì phải trọng dụng ngay.”
  
Phúc Nguyên được dân ba vùng Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên thương mến và thường gọi là Chúa Sãi, vì Chúa vận y phục và ăn chay trường như một nhà tu hành đạo Phật. Ở huyện Triệu Phong có một cái chợ gọi là chợ Sãi do chúa lập thời kỳ đó rất phồn thịnh.
  
Chúa Sãi nối nghiệp lớn của chúa Tiên Nguyễn Hoàng, là người con chí hiếu nghe lời cha trối, bèn họp triều thần bàn họp việc nước. Sau đó, Trần Đức Hòa tiến cử Đào Duy Từ. Chúa đọc bài "Ngọa long cương vãn", nhận thấy tài ba lỗi lạc của Đào Duy Từ nên trọng dụng ngay.

Sau này Đào Duy Từ đã xây hai chiến lũy mà nổi tiếng là lũy Thầy đã ngăn cản quân của vua Lê-Chúa Trịnh.
   
Năm 1626, Chúa Sãi dời dinh vào làng Phúc An (thường gọi là Phước Yên - vì húy) thuộc huyện Quảng Điền-Thừa Thiên. Thời đó trong dân gian còn lưu truyền mấy câu:

Nhớ em, anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, ngại phá Tam Giang
Phá Tam Giang ngày rày đã cạn
Truông nhà Hồ nội tán cấm nghiêm
   
- Nội tán tức là ông Nguyễn Khoa Đăng đã dẹp yên bọn giặc cướp vùng Hồ Xá -Vĩnh Linh thuộc tỉnh Quảng Trị. Bên ngoài Ái Tử là Đông Hà, nơi đây có con sông sau này gọi là sông sông Hiền Lương (Bến Hải) do chữ Bến Hói ngày xưa, nay đọc chại thành Bến Hải, nơi chia cắt (vỉ tuyến 17) đất nước Việt Nam suốt 20 năm. Đến nay vẫn còn là dấu ấn của một thời chiến tranh.
  
Thành phố cũ Quảng Trị bị bom đạn chiến tranh cày nát. Nay một thành phố mới được thành lập, dấu tích vẫn còn lại cái cổ thành Đinh Công Tráng mà thôi.
    
Khu hành chính của tỉnh Quảng Trị nay được di dời ra Đông Hà. Nơi đây bây giờ to lớn, nhà cửa mọc lên và trải rộng ra với diện tích gấp 3,4 lần ngày xưa.
    
Lịch sử đã sang trang, dấu tích vẫn còn đó, nhưng lớp người lớn lên trước thì cứ dần dần vơi đi. Tre già, măng mọc, và cứ thế ..., người dân Quảng Trị vì thời cuộc đã tứ tán đi khắp nơi lập nghiệp. Tuy nhiên, bất cứ ở đâu, họ đều mong nhớ và hoài thương quê hương, nơi mang nhiều kỷ niệm của thời thơ ấu.
                                                              Giáng Ngọc
                                                                           giangngochn29@gmail.com
                                                            (CHLB Đức)


*****

Phần sưu tầm của VNQT:

Ngọa Long cương vãn
Đào Duy Từ

Cửa xe chầu trực sớm trưa
Thấy thiên Võ cử đời xưa luận rằng
An, nguy, trị, loạn, đạo hằng
Biết thời sự ấy ở chưng sĩ hiền
Hán từ tộ rắn vận thuyền
Ba phân chân vạc, bốn bên tranh hùng
Nhân tài tuy khắp đời dùng
Đua chen trường lợi áng công vội giành
Nào ai lấy đạo giữ mình
Kẻ đua với Nguỵ, người dành về Ngô
Nam Dương có kẻ ẩn nho
Khổng Minh là chữ, trượng phu khác loài
Một mình vẹn đủ ba tài
Phúc ta gẫm ắt ý trời hậu vay
Điềm lành thuỵ lạ đã hay
Đời này sinh có tài này ắt nên
Bèn xem lằng lặng một hiên
Nhà tranh lều cỏ tính quen bơ sờ
Ba căn phong nguyệt hứng thừa
Bốn mùa đều có xuân ưa bốn mùa
Nước non khéo vẽ nên đồ
Thấp cao phượng diễu, quanh co rồng nằm
Vững bền chủ khách chiêu đăm
Minh đường rộng mở thiên tâm phẳng bằng
Tri âm những đấng khác hằng
Trúc tùng bầu bạn, mây giăng láng giềng
Đất lành cấu khí linh thiêng
Một bầu thế giới thiên nhiên hữu tình
Lâm tuyền trong có thị thành
Phàm trần tựa ít, cảnh thanh thêm nhiều
Thú vui bốn thú thêm yêu
Kìa ngư, nọ mục, ấy tiều, này canh
Hạc già chực cửa nghe kinh
Trái dâng màu thắm, thức xanh vượn quỳ
Gác tường bóng trúc thưa che
Ngõ đua hạnh tía, hiên khoe cúc vàng
Khúc cầm cổ cẩm cung xoang
Ca ngâm Lương phủ đạo càng hứng mau
Cửa kho vô tận xiết đâu
Thú vui ta thú, ai dầu mặc ai
Thanh nhàn dưỡng tính hôm mai
Ghềnh trong cuốc nguyệt, bãi ngoài cày mây
Lợi danh nào chút nhúng tay
Chẳng hiềm tạo vật, không say thế tình
Dựa song hé bức mành mành
Gẫm chưng trời đất công danh mấy người
Doãn chưa đặng lễ Thang mời
Cày kia chưa dễ buông nơi nội Sằn
Lã dù chưa gặp xe Văn
Câu kia chưa dễ gác cần Bàn Khê
Gẫm xem thánh nọ hiền kia
Tài này nào có khác gì tài xưa
Làu thông trận pháp binh cơ
Lược thao đã đọc thất thư lại bàn
Huyền vi làu biết thế gian
Máy linh trời đất tuần hoàn làu thông
Thảo lai trong có anh hùng
Miếu đường chống vững thấy còn tài cao
Có phen xem tượng thiên tào
Kìa ngôi khanh tướng nọ sao quân thần
Có phen binh pháp diễn trần
Điểu là xà trận, phong vân ấy đồ
Có phen thơ túi rượu hồ
Thanh y sớm chực, hề nô tối mời
Chốn trong danh giáo có vui
Bàng nhân chẳng biết rằng người ẩn tiên
Hùm ngâm gió thổi tự nhiên
Chúa tôi sao khéo hợp duyên thay là
Ngạc thư mở phút tâu qua
Xe loan tạm khuất hai ba phen vời
Dốc lòng phò chúa giúp đời
Xoay tay kinh tế, ra tài đống lương
Cá mừng gặp nước Nam Dương
Rồng may Thiên Hán vội vàng làm mưa
Chín lần lễ đãi quân sư
Phấn vua lây bén móc mưa gội nhuần
Hai vai gánh nặng quân thân
Chín phần ở thảo, mười phần trọn ngay
Bính quyền việc nẩy đương tay
Lâm cơ chế thắng, một này địch muôn
Trận bày Bác Vọng thiêu đồn
Bạch Hà dụng thuỷ Hầu Đôn chạy dài
Ra cờ mới biết sức trai
Có tài thiệt chiến có tài tâm công
Giá nghiêm thuyền dựa vịnh sông
Đón muôn tên Nguỵ nộp cùng Chu lang
Hoả công dâng chước lạ nhường
Gió ngàn Xích Bích thổi tàn Nguỵ binh
Hoa Dung khiển tướng phân doanh
Gian hùng sớm đã nép mình phá gan
Thần cơ bí kế chước toan
Kinh Châu trước hẹn giục thuyền rước sau
Hoà thân đôi chước dấu nhau
Tiên sinh chước ấy Ngô hầu kế sa
Chước dùng bảy bắt bảy tha
Oai trời nhường ấy giặc đà chạy tênh
Có phen bắc phạt ra binh
Tiết bền vàng đá, nhật tinh ấy lòng
Éo le thiên thuỷ chước dùng
Khương Duy sớm đã kế cùng bó tay
Thần tiên mấy chước xa bày
Đào Châu lá rụng, lò bay phới ngàn
Trên thành làm chước gảy đàn
Sa cơ, Trọng Đạt nép gan kinh hồn
Nỏ trời phục cửa Kiếm Môn
Mã Lăng mất vía Bàng Quyên khác gì
Chước nào chước chẳng ngoan nguỳ
Chốn thì lưu mã, chốn thì mộc ngưu
Rất bền đánh dựng công nhiều
Hoa di tiếng dậy, dã triều danh hay
Khăng khăng một tiết thảo ngay
Tôn phù chính thống sáng tày nhật tinh
Sửa sang nghiêm cẩn phân doanh
Tôi loàn con giặc chạy tênh bời bời
Hán gia chín vạc phù trì
Suy thôi lại thịnh, nguy thì lại an
Công lênh kể ở nhà quan
Cây bằng thạch trụ Thái sơn kia là
Non xanh, nước biếc chẳng già
Trai mà nhường ấy đích là nên trai
So xem đời lẽ đâu hai
Tài này ấy chẳng là tài quân sư
Luận đời Tam Quốc hữu dư
Luận đời tam đại còn chờ nhẫn sau
Hai triều tù gót nhẫn đầu
Bái tướng phong hầu ai dễ dám ghen
Muôn đời nhân vật kính khen
Để công trúc bạch, chép tên cân, thường
Phúc trời còn tỏ lòng cương
Ắt là Hán thất khôn lường thịnh suy
Hưng vong bỉ thái có thì
Chớ đem thành bại mà suy anh hùng
Chốn này thiên hạ đời dùng
Ắt là cũng có Ngoạ Long ra đời
Chúa hay dùng đặng tôi tài
Mừng xem bốn bể dưới trời đều yên

Nguồn: http://www.viethoc.org/phorum/read.php?9,3854
READ MORE - NGỌA LONG CƯƠNG VÃN - Tản mạn về quê hương Quảng Trị - Giáng Ngọc

Thơ Chu Vương Miện - ĐẦU XUÂN, CHIM HÓT



đầu xuân

cuối năm ngày chót lại đầu năm
thánh thót theo nhau nốt dương cầm
giòng nhạc diù nhau vào hư ảo
ta chờ nguội lạnh một hồi âm
ta bước bàng hoàng giữa tháng giêng
hầu như còn đó cỏ hoe vàng
hai bên suờn núi đèo đi giữa
đi về cũng hai nẻo bắc nam
hầu như năm tháng đã vội quên
ta cũng chả còn chốn bình yên
song xưa đã xoá đi gần hết
chỉ giữ duyềnh sâu chút muộn phiền
đầu năm xuân vội đến vội đi
ngó quanh cũng chả sót lại gì
dăm cơn gió muộn lùa hết lá
trơ lòng đường phong giữa lối đi


chim hót

con cò bay lả không bay nữa
nên đành xếp cánh đậu nơi đây
thầy đồ thi keo nào cũng hỏng
bún thang cà cuống thưòng vẫn cay
chuyện đời nhảm quá thêm cò vạc
lũ quạ bay chơi lại sáo nhồng
nguơì nói không hay bằng chim hót
đò nào sau trưóc chả sang sông
thơ văn cũng chỉ chừng nhiêu đó
y chuyện gái trai chuyện phải lòng
lấy đuợc mong răng long tóc bạc
nửa chừng tạm gọi nửa chừng xuân
đất cũ lại chuyển sang đời mới
giống y chang chuột đánh vòng
đánh đủ ngày đêm mà quên nghỉ
y lũ bù nhìn giữ đuợng bông
có kẻ mần thơ kẻ mần thẩn
thơ có khi hay lúc dở òm
thẩn thì lúc nào cũng dở cả
giống con cò mù đứng mổ tôm
cánh đồng vẫn cánh đồng rơm rạ
vẫn là nơi lúa trổ đòng đòng
thi sĩ ở không nhìn đàn sếu
thiếu ăn nằm ngủ chả sang sông
ở không viết vội dăm câu thẩn
lơ ngơ ngủ dưới bụi xưong rồng

chu vương miện
READ MORE - Thơ Chu Vương Miện - ĐẦU XUÂN, CHIM HÓT

Linh Thy - CHÙM THƠ KỶ NIỆM NGÀY 27.7



XIN CẢM ƠN NGƯỜI

Tình thương ấp ủ bấy lâu
Của người lính trấn đỉnh đầu Trường Sơn
Non xanh chỉ có mây vờn
Bao năm chiến đấu căm hờn vút cao

Nay thăm quê cũ ngày nào
Con trai cũng đã mũ sao đăng trình
Nhìn con anh thấy ấm tình
Vợ hiền sao khéo thay mình dạy- nuôi...

Chợt trào ngấn mắt anh vui
Cái điều mơ ước ngọt bùi em chia
Cảm ơn- Người bạn nong- nia...

                                   Những ngày tháng 7


MƯA RỪNG RU CÁNH VÕNG*

Lên đường tuổi chớm đôi mươi
Ngày ra trận tuyến nụ cười vẫn xuân
Tôi –  anh cùng tuổi vào quân
Chiến trường ngày ấy chưa lần dám yêu

Qua nhà ai những xế chiều
Phất phơ tà áo , cánh diều bỗng bay
Rộn ràng trong buổi chia tay
Thẹn thùng không nói, nhớ hoài dáng xưa

Nằm bên rừng vắng đêm mưa
Anh thầm tiếc, mối tình chưa vẹn tình
Giờ đây, lặng ngắm một mình
Trường Sơn trưa nắng bướm xinh chập chờn

Trên cao chỉ có mây vờn
Gió ru cánh võng những cơn mưa rừng
Lòng anh chắc hẳn bâng khuâng
Phải chi ngày ấy một lần thốt lên

Thì nay đâu nhớ mông mênh
Quê nhà em khấn tuổi tên… hương trầm!

* dựa vào một câu chuyện có thật, 
* LT cảm tác, theo lời kể của nhà ngoại cảm Phan T.Bích Hằng.



VẪN KHÚC QUÂN HÀNH 

Hỏi thăm đường đến nhà anh
Hai hàng răm bụt vẫn xanh bên đường
Ngôi nhà thấp thoáng trong sương
Anh vừa về lại chiến trường hôm qua

Đông vui rộn rã tiếng ca
Vẫn từng tiết tấu cùng hoà năm xưa
Những ngày bom dội như mưa
Bạt, lều , mủ vải có chừa ai đâu..!

Xương anh, anh đã bắt cầu...
Cho đàn em bé lên lầu hát ca.. *
Nay về vẫn… " Hành quân xa "....
Nhịp tay anh vỗ vỡ òa... hư không..!!!

Xót xa, xa xót trong lòng
Thương anh nước mắt lưng tròng anh ơi!!!


VẪN TÌM

Sương rừng , gió núi lạnh căm
Bao thu rồi vẫn anh nằm nơi đây
Ve hoà khúc nhạc cùng mây
Ru anh một giấc mơ đầy rừng mơ

Về cùng đồng đội anh chờ
Ngọn suối nào có ai ngờ còn anh
Tìm anh hy vọng mong manh
Tên anh trong bộ sử xanh rạng ngời

Chiến công anh để cho đời
Anh yên nằm - ngắm …một trời đầy hoa.!…

                                   Linh Thy
                         CLB. HTBD, Bến Tre

                      Viết kỉ niệm ngày 27 tháng 7


READ MORE - Linh Thy - CHÙM THƠ KỶ NIỆM NGÀY 27.7

VÀO MÙA - thơ Tuyền Linh


Khi chiếc lá đầu mùa rơi cuối phố
Anh lại mộng mơ có bước em về
Từng giọt nhớ cũng tung tăng rải lộ
Bước ngập ngừng như cất giấu cơn mê
Khi con nắng ngủ quên chiều cuối hạ
Nhường thu vàng trải lụa đón chân xa
Xin em ghé dẫu tình chừ xa lạ
Chuyện buồn vui thì cũng của hai ta
Và… em nhớ mang theo nồng nàn cũ
Những buồn, thương, hờn, giận gối đầu giường
Những lo lắng ngày anh đơn lẻ sống
Đà Lạt bây chừ lạnh lẽo hơn xưa
Vẫn còn đó những ngày xưa tháng cũ
Cảm xúc ngọt ngào dành dụm gởi trao
Chuyện yêu thương mấy ai lường trước được
Để giờ đây nhung nhớ biết dường nào !
Chiều nay bỗng cơn mưa òa trên phố
Nghe lòng đường thầm gọi bước chân ai
Trần Qúy Cáp lối quanh vào xóm trọ
Anh ngậm ngùi nhớ quá những âm xưa
                                Tuyền Linh
  
READ MORE - VÀO MÙA - thơ Tuyền Linh

KỶ NIỆM NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ 27.7 - thơ Bình Địa Mộc



Tác giả Bình Địa Mộc


Ngày Nghĩa Trang
Kính tặng các Anh hùng Liệt sĩ nhân ngày TBLS 27.7

Anh vẫn nằm đây, đúng không
Nghe sớm mai lên bố ra đồng cuốc ruộng
Tia nắng mới ửng hồng cuồn cuộn
Hạt giống nào cũng gieo tự mầm xanh

Trưa quê mình thời gian trôi rất nhanh
Ăn cơm xong mẹ vội vàng xắt chuối
Lứa heo nầy đợi anh về đám cưới
Tháng bảy mồng mười, chị ấy ở làng bên

Anh vẫn nằm đây, cạnh đồng chí chưa đặt tên
Song chiến công thì vô cùng oanh liệt
Giọt sương trắng ngỡ ngàng chiều tinh khiết
Chị lao công nhổ cộng cỏ bần thần

Đồng đội anh ngay ngắn những mộ phần
Như chờ lệnh trước khi vào chiến dịch
Góc ba lô dấu tấm hình con nít
Bỗng tưng bừng đứa chạy, đứa tung tăng

Anh vẫn nằm đây, dùi dặt vầng trăng
Nghe hết thảy âm vang lời sông núi
Đi về phía một thời lầm lũi
Chặt gốc tre làng, quẹt nước mắt, vót chông ...


Sài Gòn, 7.2014
Bình Địa Mộc


Cô Gái Mở Đường
Kính tặng các Anh hùng Liệt sĩ nhân ngày TBLS 27.7

Rời chiến trường bỏ lại cái chân
Đồng đội anh cánh tay còn có thể
Cô gái mở đường hôm qua ngồi nghe chuyện kể
Bom giật rung trời giờ vĩnh viễn lặng yên

Năm tháng đi qua không thể nào quên
Tiếng hát văn công nửa chừng đứt quãng
Cô y tá lao mình ôm vầng trăng lả tả
Cố giữ cho rừng chút sáng nhỏ nhoi

Đêm trường sơn nhớ Bác bồi hồi
Giọng Quảng Bình đọc bài thơ Gởi Mẹ
Dăm cánh võng ngừng đưa tay tràn lệ
Chiều lao xao một chú sóc lạc đường

Rời chiến trường bao nỗi vấn vương
Con suối vắng cởi truồng tắm mát
Thằng kỳ lưng đứa kêu vết thương còn rát quá
Nắng thụt thò mất hút giữa hoàng hôn

Nay trở về cây nạn gỗ xước mòn
Chiếc xe đạp chực nghiêng chiều gió xoáy
Cô gái mở đường năm xưa tí toáy
Rời chiến trường sao em chẳng về theo ?

                          Sài Gòn, tháng 7.2013
                                Bình Địa Mộc
READ MORE - KỶ NIỆM NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ 27.7 - thơ Bình Địa Mộc

CHÙM THƠ HỌC TRÒ - Trúc Thanh Tâm





MÙA THU ÁO TRẮNG

Nhỏ còn thả ngọn tóc bay
Cho hương con gái ngủ hoài trong ta
Ve sầu dạo khúc tình ca
Ta đem tặng nhỏ cành hoa phượng hồng 

Nhỏ về từ đó nhớ mong
Và ta từ đó dặn lòng chờ nhau
Mùa thu áo trắng nôn nao
Một rừng nhan sắc nhỏ đâu khó tìm 

Thời gian chìm giữa lặng im
Mà nghe như có tiếng tim nhịp gần
Gió ru hồn lá bâng khuâng
Nhỏ ơi, nhỏ có khóc thầm riêng ta

Nón nghiêng đường nắng thêu hoa
Ta thương dáng nhỏ kiêu sa mắt buồn
Bỗng dưng lòng lại ghen hờn
Khi cơn gió nhẹ thổi lòn áo bay !




NẮNG TRONG VƯỜN

Trời xanh, xanh lắm nhỏ ơi
Trưa nay có phải nhỏ ngồi đợi anh
Nắng đeo vàng óng trên cành
Có con chim lạ đứng rình trái ngon

Mé vườn anh cứ bồn chồn
Trái tim nhỏ cứ đập dồn qua anh
Thời gian giở chiếc lá xanh
Mắt tình ơi mắt, môi tình ơi môi

Vườn khua con gió lẻ loi
Tình xuân xanh lắm nhỏ ơi ngại gì
Vô tình nắng dột tán cây
Hai đứa nhích lại kề vai đợi chờ !



ÁO EM TRẮNG QUÁ NGÀY XƯA

Một đàn bướm trắng túa ra
Anh như ngợp giữa hương hoa cuộc đời
Nắng soi mắt nhỏ tuyệt vời
Anh như đọc được những lời hồn nhiên

Vở thơm mực tím ngoan hiền
Tay búp măng ép hoa tiên học trò
Nhỏ mười lăm tuổi mộng mơ
Còn anh mơ mộng đợi chờ người dưng !

                    TRÚC THANH TÂM
                        ( Châu Đốc )
READ MORE - CHÙM THƠ HỌC TRÒ - Trúc Thanh Tâm