Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Sunday, January 5, 2014

PHẠM NGỌC THÁI VỚI TẬP "PHÊ BÌNH & TIỂU LUẬN THI CA " - Cô giáo Hoàng giới thiệu

                                                                                                                                                                                                                   


                                                                  
     Đó là tác phẩm thuộc loại phê bình văn học của nhà thơ Phạm Ngọc Thái đã chính thức ra mắt bạn đọc - Nxb Văn hoá  Thông tin 2013, dày gần 300 trang với 49 bài viết - kể cả những bài bình trong chùm. Tập sách gồm hai phần:

-   PHẦN I :   Phạm Ngọc Thái bình thơ & tiểu luận.

-   PHẦN II:   Thơ Phạm Ngọc Thái với lời bình

     Dẫu tôi đã đọc khá nhiều thơ và những bài bình của ông đăng trên văn đàn mạng từ mấy năm nay, thế mà khi cầm quyển sách ông tặng, tôi cứ lan man đọc hết trang này đến trang khác một cách say mê, cuốn hút. Một tập phê bình và tiểu luận thi ca sâu sắc, thực hay. Kể cả mảng ông bình thơ các thi nhân xưa - nay, cũng như thơ của chính ông đã được chọn lọc qua những bài bình từ các văn nghệ sĩ, nhà giáo cùng các trí thức khác. Đúng theo lời nhà bình luận văn học Nguyễn Đình Chúc đánh giá:

     "Thi ca Phạm Ngọc Thái dù là thơ tình hay thơ đời, những bài đã đạt độ viên mãn về ý tưởng nhân văn cũng như ngôn ngữ nghệ thuật là rất nhiều. Mức độ hay của mỗi bài khác nhau, song những tình thi đó đều có thể làm rung cảm trái tim ta... Chưa từng có thi nhân nào sáng tác được nhiều thơ tình hay đến thế!... Rồi mai sau ông sẽ có cả trăm bài thơ tình đứng trường cửu với đời và nền văn học nước nhà".
 
    Hoặc nghệ sĩ sân khấu và điện ảnh -  Anh Trần trong "Lời nói đầu" tác phẩm, đã viết:

 -   Dù đó là bài ông bình cho đời hay đời bình thơ của ông, đều hiện lên một thi nhân Phạm Ngọc Thái tài hoa. Không chỉ sáng tác được nhiều thơ hay, ông còn là một tay bút bình luận thi ca sắc sảo. Văn của ông súc tích cũng như thơ ông, nó có hồn và giàu cảm xúc để lôi cuốn lòng người. Bạn sẽ thấy cả một thế giới thơ huyền diệu với những lời bình sắc sảo đã được chau chuốt, gọt giũa rất đáng chiêm ngưỡng.
 
    Nói riêng về mảng thơ hay Phạm Ngọc Thái được nhiều tác giả bình, như:

    Nguyễn Đình Chúc bình Váy Thiếu Nữ Bay, là bài thơ mang tính nhân loại có phong cách rất Hồ Xuân Hương, với một bài bình luận về chân dung thi nhân rất nổi tiếng của anh, tiêu đề "Phạm Ngọc Thái có chân dung một nhà thơ tình lớn của dân tộc". Cả hai bài ấy đều được in trong tập sách này.

     Đến những tác giả khác bình đăng trên các trang mạng Việt toàn cầu trong mấy năm qua:

    Hoàng Thị Thảo - Cảm nhận về một bài thơ tình hay "Anh vẫn ở bên hồ Tây";  Nhà giáo Đình Bồng - Phạm Ngọc Thái với chùm thơ áo trắng;  Chuyên viên Trần Tứ Đức - Phạm Ngọc Thái với chùm thơ hay về tình yêu & đàn bà. Trong đó tác giả đánh giá Người Đàn Bà Trắng là một đỉnh cao thi ca;  NS.Anh Trần - Xem Tranh Bán Loã Thể, một kỳ tác thi ca!  Trần Việt Thịnh - Phạm Ngọc Thái người hai lần thi sĩ...


Cô giáo Nguyễn Thị Hoàng
      Riêng tôi cũng đã bình hai bài thơ hay của ông: "Cảm xúc về Con Đường Phượng Đỏ" và "Em ơi! Thành phố lại mưa", mà tôi cho rằng tình thơ hay vào hàng tuyệt tác. Bởi vậy, cũng nghệ sĩ Anh Trần mới có nhận xét trong bài viết giới thiệu tập sách, rằng:

-   Đọc tập "Phê bình & tiểu luận thi ca", tác phẩm sẽ mở ra cánh cửa để bạn đọc có dịp khám phá một tâm hồn sâu sắc, một trí tuệ tài năng và mang đến cho mọi người sự đam mê, hấp dẫn trên từng trang sách...

     Tuy nhiên, ở mảng thơ của thi nhân với lời bình qua nhiều tác giả - Có tới vài ba chục bài bình chưa hề xuất hiện trên văn đàn các trang mạng. Phần lớn tiểu phẩm của những tác giả ấy chỉ đăng trên báo, tạp chí hoặc in trong một tuyển văn thơ nào đó.

    Thí dụ, Tạp chí Tháp Bút Thủ đô, Sông Hương, Hồn Việt, tạp chí Nhà văn, báo Người Hà Nội... cùng các trang văn học trong cả nước.  Những bài bình hay đã được nhà thơ chọn lọc cho in vào tập "Phê bình & tiểu luận thi ca" vừa xuất bản này. Chẳng hạn:

     Nhà thơ Trúc Thông bình Chiều Hoàng Hôn của Phạm Ngọc Thái đăng trên báo Đài Tiếng nói Việt Nam, đồng thời in trong Tuyển "100 bài thơ hay có lời bình", Nxb Thanh niên;  Phương Tuấn bình Em Về Biển;  Hoàng Ngọc - Cô Quét Lá Đêm Hồ; Tuyết Thuý - Sáng Thu Vàng;  Xuân Hùng - Biển Hát;  Phạm Thành Công - Tiếng Hát Đời Thường;  Trần Ngọc - Em Bán Xoài;  Trương Vũ Tiến - Trước Núi Mỹ Nhân;  Như Ý - Một Góc Hồ Tây;  Ngọc Trâm - Thông Và Biển;  v.v...

     (Còn tiếp)

Cô Giáo Hoàng
cogiao.hoang61@gmail.com
READ MORE - PHẠM NGỌC THÁI VỚI TẬP "PHÊ BÌNH & TIỂU LUẬN THI CA " - Cô giáo Hoàng giới thiệu

MÙA CHIM ÉN BAY - thơ Hoàng Anh 79



Anh nhớ những mùa chim én bay
Xôn xao hai đứa ngắm chân mây
Bóng ngã tà huy vương tóc rối
Xuân về Phố Núi ướp hương say.

Lóng lánh mùa vàng ươm mộng đẹp
Nhà em chớm nở nụ tầm xuân
Nụ hôn thề thốt thơm môi ngọt
Hôm ấy trời như xuống thật gần.

Trái tim anh lạc chốn phù hoa
Bụi đỏ đường quen đã nhạt nhòa
Mấy mùa phượng nở sân trường nắng
Em mắt vợi buồn một phía xa.

Thời gian lăn lắc bao giờ đợi
Qua cầu chợt thức giấc ngủ mê
Chim bay mải miết rừng sương trắng
Núi phố đường mây che lối về.

Ngày 2/1/2014
Hoàng Anh 79.

READ MORE - MÙA CHIM ÉN BAY - thơ Hoàng Anh 79

ĐỌC "MỘT MÌNH VÁ ÁO" - THƠ NGUYỆT LÃNG - Châu Thạch





MỘT MÌNH VÁ ÁO
 Nguyệt Lãng

chiếc áo một ngày không hẹn, rách.
vụng về sợi chỉ mấy đường may
cây kim sứt mũi đâm vào vải
những tiếng buồn thiu giữa ngón tay!

con chim b́ìm bịp gù trong lá
ai giấu niềm đau ở cuối vườn
ta giấu niềm đau nơi mảnh vá
mảnh vá quàng như một vết thương!...


Lời bình: Châu Thạch

Có những bài thơ khi đọc xong, nếu trong ta có vết thương ḷòng thì bài thơ hình như hàn gắn lại cho vơi bớt nỗi đau, nhưng cũng có những bài thơ đọc xong, dầu trong ta không có vết thương nào cũng thấy lòng nhói đau như có vết, còn nếu trong ta có vết thì bài thơ khơi thêm niềm đau ấy âm ỷ trong lòng ta măi miết. Cả hai lọai thơ ấy đều là những bài thơ hay mà tác giả của nó phải là những thi sĩ tài hoa, đă từng sâu nhiệm trường đời. Với tôi bài thơ “Một mình vá áo” là bài thơ thuộc lọai thứ hai, nó đă hành hạ tôi chẳng khác chi cây kim sứt mũi đâm vào vết thương mà tôi lầm rằng thời gian đă làm liền da lại. Chỉ với câu thơ đầu tiên của “một mình vá áo” Nguyệt Lãng đă đưa tôi vào cảm giác bất ngờ và liên tưởng đến biết bao điều bất hạnh đột xuất trong một đời người:

            Chiếc áo một ngày không hẹn, rách.

Không hẹn, dấu phết, rách: Chữ “rách” khác chi một tai nạn ập xuống đầu, một biến cố đến trong giây phút mà con người không đóan trước. Tất nhiên chiếc áo không hẹn mà rách là việc bình thường, nhưng ở đây còn có ngụ ý nói về một đổ vở xảy ra trong cuộc đời luôn biến động.

Rồi thì tác giả làm gì với chiếc áo rách của mình đây?:

                Vụng về sợi chỉ mấy đường may

Áo rách thì bỏ đi và may áo mới. Áo rách mà đem vá lại cho ta một hình ảnh rất buồn về sự gượng ép hàn gắn vết thương, về cuộc sống nghèo nàn của chủ nó. Đã thế, áo được vá lại một cách vụng về. Điều đó nói lên chủ áo là người phong lưu chưa từng biết vá áo, nay phải gượng gạo vá lại chiếc áo của ḿnh nên đường may mới phải vụng về. Không nữa, thì cũng nói lên người chủ áo cô đơn chẳng có một người nữ nào sống bên mình.

Hai câu thơ đầu chỉ là phác họa một bức tranh.

Hai câu thơ sau mới là hòan thiện bức tranh buồn vô hạn:

                     Cây kim sứt mũi đâm vào vải
                     Những tiếng buồn thiu giữa ngón tay

Không ai vá áo bằng cây kim sứt mũi, chỉ có nhà thơ Nguyệt Lãng của chúng ta mới vá áo một cách tài tử như vậy mà thôi, Kiểu vá áo nầy nếu không phải của anh chàng lè phè thì là của anh chàng đang sa cơ lỡ vận, và hình ảnh vá áo kiểu nầy nếu không làm cho người ta cười thì làm cho người ta khóc. Trong bài thơ nầy hình ảnh vá áo là hình ảnh làm cho người ta khóc vì:

                     Những tiếng buồn thiu giữa ngón tay.

Tiếng của cây kim cụt đầu đâm vào vải là tiếng kêu rất nhỏ. Những tiếng kêu rất nhỏ nhưng vào thơ Nguyệt Lăng thành tiếng dội u buồn, Điều kỳ lạ là những tiếng buồn ấy chỉ ở giữa những ngón tay nhưng người đọc lại thấy rằng cả tác giả khi viết thơ và cả mình khi đọc thơ đều có nỗi đau âm ỉ, kéo dài của những vết thương tron lòng do cây kim cụt đầu, do đường may thô thiển của sợi chỉ gây nên.

Bốn câu thơ ở vế đầu là phần mở của bài thơ, Phần mở chỉ giới thiệu cái h́nh ảnh c̣n lẻ loi trong góc tối, phát họa niềm đau c̣n ẩn chứa trong ḷng. Bài thơ không có vế thân bài, chỉ có phần kết luận, và ở phần kết luận tác giả mở toang--6 cánh cửa để nỗi đau trong ḷng ḿnh tràn ra trùm lên cảnh vật trong tiếng gù ấm ức của con chim b́m bịp ở cuối vườn:

                      Con chim bìm bịp gù trong lá
                      Ai giấu niềm đau ở cuối vườn

Không mấy ai từng nghe tiếng chim bìm bịp, nhưng đă nghe được th́ì không mấy ai cảm thấy hài lòng, Chim bìm bịp không hót, chim bìm bịp gù, và tiếng gù như nỗi đau ẩn chứa trong lòng, và nỗi đau ấy dầu ẩn chứa trong lòng nhưng âm thanh lại loan ra như sóng, trùm niềm đau lên cây lá, trăng sao, xói niềm đau vào lòng người nghe sao mà da diết quá. Tác giả tưởng rằng “ai dấu niềm đau ở cuối vườn” nhưng niềm đau ở cuối vườn không ai dấu, đó là niềm đau ở trong lòng tác giả, nó đă thành ma nhập vào hồn tiếng gù của con chim bìm bịp. Hăy tưởng tượng tiếng buồn đi trong đường chỉ và tiếng buồn vọng lên từ con chim gù trong lá. Tiếng buồn nào lớn hơn? Tiếng buồn nào đau hơn? Và tiếng buồn nào sẽ làm ta rơi lệ? Với tôi cả hai tiếng buồn đều như nhau, vì cả hai đều một thể, là nỗi khắc khỏai của tâm hồn, là sự quặn thắt của con tim, là tâm tư sầu thảm của con người vừa nghèo túng vừa cô đơn đang ngồi vá lại chiếc áo rách với cây kim đă bị gảy đầu,với sợi chỉ chắc lượm được từ đâu đó.

Hai câu thơ cuối của bài thơ như sau:

                     Ta giấu niềm đau nơi mảnh vá
                     Mảnh vá quàng như một vết thương

Niềm đau làm sao giấu nơi mảnh vá được?

 Bởi vì mảnh vá thể hiện niềm đau của tác giả: vá một đường chỉ thì niềm đau còn ít, vá hai đường chỉ thì niềm đau tăng lên, mà vá ba đường chỉ trở lên thì niềm đau vở ̣ra đến lạnh cả không gian, làm se thắt đến cả tiếng chim gù trong lá. Dưới con mắt tác giả mảnh vá được hình dung như một vết thương, và một nghịch lý đã xảy ra giữa vết thương trên áo và vết thương trong lòng tác giả. Vết thương trên áo thì được vá liền nhưng vết thương trong lòng thì lại xé tọac thêm ra. Bởi vậy tác giả nói “ta giấu niềm đau trong mảnh vá” không phải là muốn nói niềm đau được vá lại mà là để ám chỉ đến vết thường trong lòng giống như mảnh vá hằn lên trên vải, nó sẽ tồn tại và nó chỉ rụi tàn khi nào thân xác như chiếc áo trở thành tro bụi.


Bài thơ “Một mình vá áo” là một bài thơ cô đọng và hàm xúc. Đó là một bài thơ ẩn dụ, dùng cây kim, mảnh vá để nói đến niềm đau, sự ấm ức, nỗi khắc khỏai và tiếng kêu thương sâu kín trong tâm hồn ấy đă làm cọng hưởng cả tiếng chim trời, cả cây lá ở cuối vườn kia.

Đọc “Một mình vá áo” để ta cảm thấy cô đơn, để ta cảm thấy âm thầm đau đớn, và để ta cảm thấy cả cơi lòng chùng xuống chịu đựng nỗi buồn ẩn chưa trong sợi chỉ, giữa ngón tay và thóat xác thành tiếng gù của con chim bìm bịp, để ta và tác giả hòa nhập cùng nhau mang nỗi buồn dài năm tháng ./.

                                                                 Châu Thạch


READ MORE - ĐỌC "MỘT MÌNH VÁ ÁO" - THƠ NGUYỆT LÃNG - Châu Thạch

Truyện truyền kì LIÊN HÀ TIỀU THƯ - Kha Tiệm Ly

Tác giả Kha Tiệm Ly

  

  1. Cuồng sĩ họ Cao 
 Năm Quang Tự 23 chiến tranh Trung Nhựt bùng nổ (1894). Triều Thanh cực kì hỗn loạn. Bên trong thì quyền thần tranh quyền, thái giám hiếp vua, sơn dã giặc cướp nổi lên như ong, giang sơn bị chia năm xẻ bảy bởi liệt cường xâu xé. Mỗi địa phương thì cường hào ác bá mặc sức vơ vét của tiền. Đời sống nhân dân cực kì bi thảm.

Tại kinh đô, bọn cơ hội thì mua tước bán quyền hoặc làm tay sai cho bọn Nhật để cầu chút  vinh hoa. Lớp trí thức, văn nghệ sĩ, có kẻ hùa theo giặc để an thân, dù đa phần vẫn giữ được sĩ khí, nhưng lại bóp bụng đứng bên lề nhìn vận nước điêu linh, hoặc mượn rượu cho qua ngày tháng.

Tại Ngưu thôn- cách  kinh đô vài trăm dặm- có một người không biết từ đâu đến,  ban ngày thì ra chợ viết mướn với bầu rượu bên mình, thỉnh thoảng mở nắp uống suông. Lúc ngà say, mọi việc đều bỏ, bèn lấy giấy bút làm thơ phú thao thao bất tuyệt, ý tình cao ngất trăng sao, có khi liên tục mấy mươi bài. Ai thích thì tặng cho, còn không thì để mặc bay theo gió cuốn.  Kẻ sĩ trong thôn trầm trồ thán phục, cho là kẻ thất thời; còn bọn thất phu lại bảo là cuồng dại. Chiều về, trước khi chui rút vào cái lều tạm bợ bên miếu Thành Hoàng ở cuối ấp, gã luôn chia sẻ cho Thành Hoàng một ít rượu thịt trong ngày kiếm được; lại thường xuyên bày trước bệ thờ mà chén tạc chén thù với… pho tượng, đến khi say khướt mới thôi!
Một buổi ra chợ, nghe phía bắc bị “giặc lùn” chiếm đóng, gã liên tiếp nốc cạn mấy bầu, tức giận bừng lên mặt, bèn viết liền một mạch “Biên Cương Nộ Khí Phú”, rồi sang sảng đọc lên. Bài phú hào hùng, tràn lòng yêu nước. Hảo hán, sĩ phu đều dừng lại lắng nghe, một lòng thù giặc, tuốt gươm cổ vũ. Có một khách thương hồ, hiếu kì đến xem, bỗng chạy đến quì trước gã:

-  Ôi! Cao ân nhân! Sao ngài lại lưu lạc đến đây!
          
 Rồi nói cùng mọi người:

-  Quí vị ơi! Đây là Cao huyện lệnh Thanh Mai đó! Ngài là Bao Thanh Thiên của huyện tôi!  Chỉ vì ngài hết mực yêu dân mà phải như thế nầy đây!...      
 Mọi người sững sờ nhìn nhau.

Ngày đó gã say mèm. Chiều về, đến miếu Thành Hoàng, chỉ pho tượng mà mắng:

-   Ta thấy bá tánh không tệ với ngươi, ngày ngày khói hương nghi ngút, hoa quả đủ đầy. Ta cũng quý ngươi là kẻ có công với xã tắc mà xớt chia phần rượu thịt. Nay biên cương bị giặc hoành hành mà ngươi lại điềm nhiên ngồi đó mà nhìn, chẳng thẹn hay sao? Thật uổng phí nhang đèn thiên hạ và rượu thịt của ta!
-           
Nói xong, dằn mạnh bài phú trên bệ, rồi huơ tay đùa cả hoa quả, lư hương xuống đất. Trước khi đi còn mắng:

-   Hãy xem đi! Như vậy còn nhẹ cho ngươi! Để ta xem khi giặc tràn vào đây, hình tượng của ngươi còn không cho biết!  
     
 Hôm sau, người Ngưu thôn không thấy bóng gã nữa.

  1. Với bọn thư sinh

Đất nước nằm trên miệng hỏa sơn mà kinh đô vẫn ngựa xe nhộn nhịp. Những chốn ăn chơi cũng chật ních người. Tửu điếm nhỏ năm xưa nay cũng sáng sủa hơn. Gã chọn một bàn cuối dãy, gọi rượu uống suông. Như thông lệ, khi rượu tàng tàng, thì chữ  trong người lại tuôn ra ào ạt, phóng bút chẳng ngừng tay. Bên kia, một nhóm thực khách ba nam một nữ - dáng dấp thư hương-  cùng nhìn gã, xì xào to nhỏ rồi kéo qua, âm thầm đứng bên gã. Một người cung kính nói:

- Đúng là Cao thám hoa tiên sinh đây rồi! Tiểu sinh nay mới thấy được Thái sơn. Vô cùng vinh hạnh!
Gã nhìn mọi người dè dặt:

- Huynh đệ chắc lầm rồi. Ta chỉ là một hàn sĩ ngông cuồng, nào phải …

- Tiên sinh chớ khiêm nhường nữa! “Biên Cương Nộ Khí Phú” của người bốn biển vang danh, trẻ con cũng thuộc làu làu, huống chi là bọn tiểu sinh thuần việc bút nghiên?

Một kẻ khác:

-   Tiên sinh tánh tình hào phóng, vậy có thể cho phép bọn bất tài nầy được ngồi uống cùng chén rượu được không?
-           
 Cao (từ đây gọi là Cao) cười, nhẹ gật:

-    Bốn biển đều là anh em. Các huynh đệ cần gì khách khí như vậy?
-           
Thế là thịt đầy mâm, rượu tràn vò, liên tục chén tạc chén thù. Cao ái ngại:

-   Các huynh đệ hôm nay muốn gặp kẻ tầm thường nầy chắc chẳng phải để uống rượu đó chứ? Có gì xin cứ nói thẳng ra thì hơn.
       
 Như mở cờ trong dạ, một người vừa đưa cho Cao một xấp thủ cảo, vừa nói:

-   Chẳng giấu gì tiên sinh. Bọn tiểu sinh từ còn để chỏm đã miệt mài kinh sách. Vắt ruột gan, thi phú cũng được ngàn bài, mà tiếng tăm vẫn chưa ra đầu ngõ! Bèn cùng tâng bốc lẫn nhau, chỉ mong danh thoát ra thiên lý, mà hiệu quả không như mong đợi; lại còn làm trò cười cho thiên hạ! Nay, nếu tiên sinh chịu bỏ chút thời gian viết cho lời bạt, thì bọn tiểu sinh sợ gì tên chẳng vượt chín tầng mây?
-           
 Cao nhận thủ cảo, lật vài trang xem rồi trả lại:

-  Rất tiếc ta phải phụ lòng các huynh đệ!
        
 Cả bọn nhìn nhau, một người nói;

-   Nếu tiên sinh thuận ý, thì hằng ngày sẽ có rượu thịt ê hề, áo gấm hài da. Tội tình gì rút trong lều cỏ, uống rượu suông như thế nầy?
         
 Cao cả giận:

-   Với ta mà các ngươi còn đem lợi mà dụ ư? Cũng vì lợi mà bao người đã đánh mất lương tri! Quân tử vì lợi mà hóa tiểu nhân, Hào hán vì lợi mà thành vô lại. Quan vì lợi mà khổ cho muôn nhà; vua vì lợi mà họa cho lê dân trăm họ. Ta đã bỏ quan trường thì thiết gì danh, ham gì lợi, mà các ngươi lại đem ra trao đổi?

Nữ nhân bây giờ mới nói:

 - Nhưng tiên sinh cũng cho biết lý do chứ?

-  Hừm!..  Lý do? (chỉ vào thủ cảo). Những thứ nầy là thơ, là văn đó sao?

Thấy cả bọn không vui. Cao nhẹ giọng:

-   Người bình văn có lòng tự trọng không thể viết bừa; cũng như kẻ trước tác chớ vì lợi lộc, tiếng tăm mà chẳng từ thủ đoạn! Nhưng đã mấy ai làm được? Hãy xem bọn cầm bút chốn  kinh thành, hằng ngày mặc áo gấm hài thêu, ăn sơn hào hải vị, xuống ngựa lên xe. Hỏi ngân lượng ở đâu chúng có khi “văn chương hạ giới rẻ như bèo”? Nếu chẳng phải đành bẻ cong ngòi bút để tán dương phường vô lại, hay kể cả kẻ thù chiếm lấn biên cương? Đó là phường bồi bút! Hoặc ngoan ngoãn cúi đầu viết theo vương lịnh. Đó là hạng bút nô tài! Kẻ sĩ chân chính luôn đắn đo từng ý tưởng, để khỏi muộn màng khi xuống bút, giống như tên bật khỏi dây cung, làm sao bắt lại? Văn chương cũng không thuần là thứ để kẻ sĩ gởi gấm tâm tư; càng không phải để mua vui trong buổi trà dư tửu hậu; mà phải có chủ đích hẳn hoi. Dù chẳng là hùng binh nhưng cũng phải góp phần đánh đuổi giặc thù, dù chẳng phải gươm thiêng nhưng cũng phải chung vai đập tan cường quyền, bạo lực. Kẻ cầm bút phải có sứ mạng dẫn quần sinh tới chỗ toàn chân, đưa bá tánh đến nơi toàn mỹ. “Văn dĩ tải đạo” bao giờ cũng đúng.

 Nhìn cả bọn, Cao tiếp:

-   Sáng tác nhiều chưa phải là hay, đó là chưa nói làm tốn hao giấy mực! Kẻ nào phân biệt được tác phẩm nào hay, tác phẩm nào dở thì cũng đáng quí rồi; Kẻ biết mình viết tồi, thì một ngày cũng được thăng hoa. Các ngươi đã dám nhận mình là dở thì rất đáng cho Cao ta bái phục! Chẳng bằng có hàng ngàn kẻ tự xưng mình là văn nhân thi sĩ, khoe khoang là người của “Khôi Nguyên Văn Bút”,  của “Bách Tú Tao Đàn”, mà văn viết khô như đơn thuốc, thơ đọc nghe điếc tai hơn tiếng mõ thầy chùa. Thế mà chưa hề biết dốt, lại xem mình như đỉnh Thái Sơn; dưới mắt không người. Những kẻ đó so với bọn ngươi, còn thua xa lắm.
           
 Cao đứng dậy cáo từ:

 - Ta có tật “rượu vào lời ra”, Các huynh đệ chớ chấp. Ta đi đây!

  1. Liêu trai kì ngộ

 Trăng thượng tuần lên cao,  ánh sáng vàng vọt cũng đủ xuyên qua mái tranh rách nát của người hàn sĩ đang uống rượu một mình trên án thư bề bộn bút mực giấy tờ. Ngọn đèn hiu  hắt vận cả sức tàn để chống chọi lại làn gió nhẹ của buổi tàn thu. Cao lấy tay che gió thì phát hiện hương thơm phảng phất, rồi ngơp cả phòng làm mất hẳn mùi ẩm mốc. Bèn nhìn lên thì thấy một bóng hồng đứng trước cửa tự lúc nào! Cao sững sờ. Bóng hồng thướt tha tiến tới, nhoẻn miệng cười, chấp tay, cúi đầu thi lễ, giọng trong như suối reo:

 - Kính chào tiên sinh! Tiện thiếp đường đột xin người chớ chấp!
 Dưới ánh đèn tranh tối, nhưng Cao cũng thấy được mỹ nhân áo lụa như mây, mặt xinh như ngọc, mắt phụng mày thanh, môi thắm như hoa, dung nhan thoát tục. Cao chưa hết bàng hoàng; nữ nhân bèn tiếp:

- Nghe đại danh như sấm ngang trời, lòng hằng ước ao diện kiến, ngặt vì quan san cản lối hài hoa. Nay Bắc Đẩu chói lòa ngợp đất Trường An, lòng hối thúc không sao cầm được, đành đạp tường giáo huấn, bẻ cửa Nho phong, mong cùng được tiên sinh uống chén Mao Đài, ngâm câu chánh khí, phỏng có được chăng?

Giọng nàng như oanh hót mà nghi phong xem chừng đáng bậc anh thư. Cao kính nể đôi phần:

- Ta chỉ sợ mái tranh nầy không đáng tiếp chân nàng!

- Chỉ có kẻ thất phu mới đánh giá trị một người bằng dáng vẻ bên ngoài. Nhìn bao cẩn ngà thì cứ cho rằng bên trong là bảo kiếm, đó là phường giá áo túi cơm; nhìn người áo vải lại cho là hạng tầm thường, đó là bọn có mắt không tròng!Tiên sinh nghĩ thiếp là hạng người nào vậy?

Bèn lấy trong túi gấm, chất đầy mâm sơn hào, mỹ tửu. Cao chợt nói:

- Ta không thể uống rượu mà không biết người đối diện với mình là ai. Dám hỏi…

Nữ nhân nghiêm giọng:

- Thiếp là Liên Hà, phụ thân là Trần Viết Bình…

 Cao trố mắt, đứng phắt dậy:

- Trần Án Sát đại nhân? Chứ không phải ngài cùng gia quyến đã bị đày ra biên ngoại đó sao?

Đôi mắt kiều nữ đượm buồn. Cao ngậm ngùi:

- Cây ngay bị đốn trước! Người trung can nghĩa khí lại bị  hãm hại, tù đày! Đây là thời gì vậy? Nhưng may mắn nào… tiểu thư lại thoát được về đây?

Liên Hà cắn nhẹ môi như cố nén niềm chua xót:

- Chuyện dài dòng lắm không thể phút giây mà kể hết. Hơn nữa, thiếp không muốn tiên sinh bận lòng về chuyện của  gia quyến thiếp mà mất vui cho cuộc hạnh ngộ nầy.

Bèn rượu rót tràn tràn. Lời lời châu ngọc. Chén tạc chén thù., xem chừng tâm đầu ý hợp lắm. Liên Hà
uống rất hào, rượu hâm hồng đôi má làm nàng càng đẹp não nùng. Dáng mai lả lướt mà mỗi lời bung ra đều mang tánh khí trượng phu:

-  “Muốn giục ngựa hồng tung thẳng vó

Gươm thù khua mà hào kiệt ở nơi đâu?

Kinh điển năm xe đành đứng ngó,

Nhìn giang san mà thẹn với Vũ Hầu!”

Rồi dòng châu lả chả. Cao buốt cả lòng, thương cho kẻ trâm anh mà lặn hụp chốn phong trần. Liên Hà lại rót tràn, hai người cùng uống. Rượu vào, văn chương thi phú cứ mãi tuôn ra. Cao cao hứng nói:

- Được cùng tiểu thư uống rượu hôm nay thì thế gian nầy không còn người cho ta đối ẩm nữa rồi!

Và rượu cũng cạn bầu. Hai người đều say khướt.

Không biết đến lúc nào, nhưng khi nghe bên ngoài tiếng vỗ cánh của cú ăn đêm và ngọn tàn thu lạnh lùng làm chàng chợt tỉnh. Cao choàng tay qua lấy chăn; xúc giác là lạ, vội mở mắt ra, kinh hoàng khi thấy Liên Hà nằm bên với yếm đào lệch lạc đang thiêm thiếp giấc nồng; rồi nhìn lại mình, mình trần trùi trụi. Cao bưng đầu kêu khổ:

- Ta đắc tội rồi!

Liên Hà cười khúc khích:

- Vậy thì thiếp cũng đắc tội với chàng! Vạn sự tùy duyên, có chi mà ngại?

Bèn ngồi dậy. Yếm đào rơi xuống. Cao vội nhắm mắt, quay mặt, để tránh đôi bồng đảo thanh xuân lộ lộ. Liên Hà bảo:

- Biết tháo ra mà không biết buộc vào mới là đắc tội!

Cao chần chừ. Nàng đổi giọng dỗi hờn:

- Không buộc lại giùm thì thiếp để nguyên vậy mà về đó!

Nghe những lời phóng khoáng của Liên Hà, Cao cũng bình tâm lại đôi phần. Đang run run mân mê dây yếm  thì bất ngờ bị Liên Hà tát mạnh vào tay; lại cười nghiêng ngửa:

- Lại định buộc vào thật à? Ai đời kẻ đã từng  to tiếng “mắng bọn tham quan”, thẳng tay “điểm mặt quân thù”,  mà lại khù khờ đến thế?

Rồi vật Cao xuống. Bây giờ Cao mới thực sự đắm đuối và ngây ngất bởi hương thơm từ hình hài diễm tuyệt của nàng toát ra. Hiểu được ý Cao; Liền  Hà giải thích:

- Từ khi vừa chào đời, da thịt thiếp đã thơm ngát hương sen. Phụ thân đặt tên thiếp là Liên Hà vì lẽ đó!

Ngoài trời trăng sao trong vắt mà trong phòng lại “mưa gió” tơi bời. Gà chợt gáy canh năm, Liên Hà hốt hoảng bật ngưới ngồi dậy, choàng vội xiêm y, hối hả lược giắt trâm cài mà miệng vẫn tươi cười; ánh mắt bén ngót nhìn sang Cao, tủm tỉm:

- Tên cuồng sĩ thô bạo nầy làm tiểu thư ta quên mất cả thời gian! Ngày mai ngươi biết tay ta!

Cao sững sờ, chưa kịp hỏi lời nào thì thoắt một cáí, Liên Hà  mất dạng!

Tối hôm sau quả nhiên Liên Hà đến, mặt hoa rạng rỡ. Cao cả mừng, vội bế nàng vào phòng. Liên Hà giẫy nẩy:

- Tên cuồng sĩ nầy nay sao hung hãn như giặc phương phương Đông vậy?

Sau cơn mưa gió, Liên Hà nghiêm nghị nói, giọng sắc như dao:

- Từ nhỏ thiếp sống trong quan phủ, luôn buộc ràng trong khung phép lễ nghi, chưa hề biết mùi ong bướm. Thế mà nay vì quý chàng là kẻ tài hoa, trọng chàng là người trí dũng mà cột tự đến tìm trâu. Chớ cho là liễu ngõ hoa tường, e không phải lẽ!

 Cao tha thiết:

- Ta dù chưa chứng huệ nhãn, nhưng cũng tự hào nhìn được ruột gan của kẻ đứng sau tường! Ta trọng nàng là cân quắc anh thư, khác hẳn với phường hồng nhan yểu điệu, tối ngày chỉ biết trau chuốt dáng người, tô điểm phấn son. Ta kính yêu nàng không hết, nàng bất tất nói những lời khó nghe như thế mà làm tổn thương ta.

Liên Hà ôm Cao vào lòng, vui vẻ nói:

- May mắn cho thiếp đã chọn chẳng lầm người. Được một tri kỉ như chàng rõ là không uổng một đời má hồng trang điểm, mài miệt bút nghiên.

4. Thành hoàng xuất hiện

Nhưng rồi liên tục nhiều hôm Liên Hà không đến, Cao ban ngày vào ra trông ngóng, đêm về thì uống rượu đợi chờ cho tới canh hai; mà phương trời vẫn biền biệt bóng chim. Dung quang lẹ làng héo úa. Một tối đang ngồi nhắm rượu với lòng buồn vời vợi,  nghe ngoài hiên sương rơi lộp bộp như  tiếng bước chân trên xác lá khô. Lòng khấp khởi mừng thầm. Liếp cửa lay động, nhưng lại là một hảo hán râu hàm tua tủa, hắn vừa bước vào vừa nói; giọng như chuông ngân:

- Lão bằng hữu nay uống rượu không mời ta sao?

Cao định thần nhìn, hơi chột dạ khi nhận ra mặt hảo hán y trang như pho tượng Thành Hoàng quen thuộc ở thôn Ngưu dạo nọ! Cao đứng dậy vái chào; bình thản nói:

- Lâu quá không gặp! Thần nhân có muốn lấy mạng kẻ ngông cuồng nầy thì cũng đợi uống xong tuần rượu đã!

Thành Hoàng đặt mạnh hai vò rượu lớn xuống bàn; dằn thêm mấy đùi dê luộc, cười lớn:

- Từ lâu ta đã nợ lão bằng hữu khá nhiều rượu thịt. Nay không cho ta trả lại, thì ta lấy mạng thật đó! Ha ha! Hừm! “Thần nhân” cái con quái gì! Cứ gọi nhau là huynh đệ cho dễ nghe hơn: Ta là Ngưu huynh, đệ là Cao đệ. Được không? Hà hà!

Lời Ngưu phóng khoáng, Cao nghe nhẹ cả ruột gan. Tị hiếm thần- người phút chốc tan biến mà tưởng chừng như thân thiết tự lúc nào!  Ngưu chỉ vào chén rượu trước mặt Cao:

- Uống rượu bằng chén đút sữa cho hài nhi mà đòi “Uống Rượu Với Tống Giang” sao? Ha ha!
Nói xong cầm đùi dê mà xé, bưng vò mà ực. Rượu tuôn ướt cả hàm râu tua tủa, cả chiếc áo dày bụi phong trần, dơ bẩn như pho tượng tại miếu Thành Hoàng cả năm mới được một lần tắm rửa! Cao cũng chẳng vừa, tu liền một phát. Cả hai lấy tay quẹt miệng:

- Sảng khoái!

- Sảng khoái!

Lúc rượu tàng tàng, bỗng Cao bưng mặt rấm rứt. Ngưu thản nhiên nói:

- “Giang sơn vô lệ khấp anh hùng”, nhưng anh hùng thừa lệ khóc giang san!
Cao lau mắt:

- Non sông đang nằm trên chào dầu sôi, mà ta ngày đêm uống rượu, đệ thấy làm nhục lắm!

- Ta thì có chí hướng của ta. Còn đệ thế nào?

- Thái hậu nắm đại quyền mà mắt mờ như cú ban ngày, lại còn thích lời ton hót. Quần thần thì đa phần thủ cựu, tham lam. Hoàng đế vì đi theo biến pháp của Khang, Lương tiên sinh mà phải bị giam cầm (1898- chính biến Mậu Tuất). Phong trào Duy Tân tan rã, nhưng đã đánh thức lòng kẻ sĩ muôn nơi. Đệ cũng phải theo con đường đó mà thôi! Bằng không...

- Bằng không khi tổ quốc nằm trong tay giặc thì chúng sẽ làm thịt tên cuồng ngông “Biên Cương Nộ Khí” mà nhắm rượu đó! Ha ha .

Ngưu nói lớn:

- Vậy phận ai nấy lo. Giờ uống rượu đã!

Cả hai bèn nốc cạn, rồi cùng đập tan bầu. Ngưu dứt khoát:

- Ta đi đây! Hẹn tái kiến!

5. Ba sinh hương lửa

Rồi vù như cơn lốc, mất hút. Cao còn bâng khuâng, miên man nghĩ ngợi, thì gian phòng bỗng ngợp hương sen. Liên Hà đến. Cao mừng vui ra mặt, không thốt được lời nào. Liên Hà nhìn quanh, nhăn mặt:

- Y như là bãi sa trường.! Thần nhân uống rượu có khác!

Cao nhìn nàng. Hiểu ý Cao, bèn nói:

- Thiếp đến từ đầu hôm nhưng thấy hai người uống rượu nên không tiện vào đó thôi.

Bèn tự tay quét dọn tươm tất, rồi lấy một gói thuốc bột pha vào nước, bảo Cao:

- Đây là “Giải tửu chỉ phong tán”.Phụ thân thiếp thường dùng khi quá chén đó.

Cao đón lấy, cười cười nói:

- Được thấy mặt nàng thì bao nhiêu rượu trong người ta cũng  tan biến hết!

Liên Hà điểm nhẹ ngón tay vào trán Cao:

- Tên cuồng sĩ nầy biết nói nịnh từ bao giờ vậy? Đừng lắm chuyện nữa, thời gian chẳng còn bao nhiêu.
Nghỉ sớm đi thôi!

Đêm đó hương lửa càng nồng, nhưng đến canh năm nàng cũng vội vã ra đi; Cao níu áo nàng:

- Nàng ở lại luôn đây có phải hơn không. Tôi tình gì mà tự làm khổ mình như vậy?
Liên Hà cười ngất:

- Chứ không phải sợ thiếp không đến nữa à? Mới hay, tình yêu làm cho trí sĩ cũng hóa dại khờ; anh hùng hảo hán cũng hóa ngu ngơ! Chàng ở trường hợp nào vậy?

 Cao chữa thẹn:

- Còn với hồng nhan thì sao?

Liên Hà liếc dài:

- Thì dám trốn cha trốn mẹ để đến với chàng đây!

Nói xong, vụt ra cửa, để lại hương sen quyện đặc cả phòng.

Rồi đêm nào cũng đến. Có nàng nói nói cười cười, không khí gian nhà sôi động cả lên. Nhưng một lần mặt hoa lại ủ dột, vóc liễu xanh xao. Cao hỏi mãi, nàng mới cầm tay Cao đặt trên bụng mình mà rằng:

- Tại cái nghiệp chướng nầy đây!

Cao mừng rơn, nhưng Liên Hà lại châu rơi lã chã. Cao vỗ về:

- Hay là nàng sợ búa rìu dư luận, lễ giáo gia phong đổ ập xuống nàng? Ta lại để nàng thiệt thòi thế hay sao?

Liên Hà lắc đầu:

- Những thứ tầm thường ấy không làm gì thiếp được đâu! Có điều chúng ta không còn nhiều thời gian nữa!

- Sao nàng lại nói những điều không hay như vậy?

 Liên Hà lau vội mắt, nghiêm giọng nói:

- “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Nay giặc đã tràn đến kinh thành. Hoàng đế anh minh đã bị mụ già Từ Hi bức tử. Đất nước đang hồi điêu đứng mà lại nằm trong tay một đứa trẻ còn bú sữa Phổ Nghi thì thế cuộc làm sao cứu vãn? Bên ngoài súng giặc ầm ầm mà triều nội quan liêu vẫn còn mê ngủ, tìm trăm phương ngàn kế để mưu cầu lợi ích riêng tư; tham vị cố quyền cho con cháu đời đời hưởng lộc! Mà chẳng hề biết “nước mất nhà tan”! Kết bè kết phái mà củng cố quân quyền, chánh vị, chẳng cần biết “hiền tài là nguyên khí quốc gia”; bỏ ngoài tai “vạn ngôn biến pháp”. “Biên Cương Nộ Khí” của chàng là lưỡi gươm đâm nhói dạ quân thù, là bó đuốc thắp sáng lòng yêu nước, thì nơi nầy chẳng phải là chỗ ở lâu dài. Thiếp đã trộm biết chí hướng của chàng, mà sao giờ nầy chim bằng vẫn chưa tung gió? Đừng vì chút quyến luyến thường tình mà đắc tội với non sông.

- Nhưng thân thư sinh trói gà không chặt này, thì ngoài việc cầm bút để viết mấy bài thơ lếu láo ra, còn làm gì được?

Nàng nghiêm giọng:

- Chàng thử lòng thiếp đó phải không? Những lời chàng nói với Thành Hoàng, thiếp đã nghe không sót một lời. Hảo hán chẳng cần kẻ vai u thịt bắp; anh hùng nào tị hiềm người bạch diện thư sinh? Thanh gươm có thể chiếm được thành trì nhưng không thể vỗ yên trăm họ! “Biên Cương Nộ Khí” của chàng là tiếng trống thúc quân, là ngọn lửa nấu sôi lòng yêu nước, là ngọn lưỡi đao chém thẳng vào mặt quân thù, khiến chúng ngày ăn đêm ngủ không yên. Điều nầy không nói lên sự uy dũng tuyệt vời của ngòi bút hay sao?

Ngưng một lát, bèn tiếp:

- Thân của chàng không đủ cho chúng làm “mồi” một bữa rượu đâu. Hãy kíp mà lo!

Cao ngần ngừ:

- Ta đã có dự tính rồi, nhưng mà… còn nàng, còn giọt máu của chúng ta?

Nàng cau mặt:

- Nam tử anh hùng, đầu đội trời, chân đạp đất thì chớ vướng bận những chuyện thường tình như vậy! Chuyện an nguy của tổ quốc mới là trọng đại. Phần thiếp, chàng hãy an tâm, thiếp có muốn chết lần thứ hai cũng chẳng được đâu!

Cao trố mắt , kinh ngạc tột cùng:

- Nàng nói gì lạ vậy? “Chết lần thứ hai”?

Mặt hoa ủ dột nhưng thần sắc cương nghị lạ thường:

- Bây giờ thì không thể giấu chàng nữa được rồi! Thiếp chẳng phải là người!

- Nàng!

Liên Hà rấm rứt:

- Trần gia bị đày ra biên ngoại. Dọc đường gian thần cho sát thủ theo giết sạch cả nhà, mà thiếp còn sống được sao?

Chợt nhìn Cao đắm đuối, mỉm cười, miệng vẫn đẹp như hoa:

- Lại sợ con ma nầy móc ruột, moi tim à?

Cao ôm chặt nàng vào lòng:

- Dù yêu tinh quỷ quái ta cũng chẳng sờn, huống chi chỉ là con ma đáng yêu nầy!

Rồi mây mưa một trận tơi bời, giường nghiêng chiếu lệch. Tàn cuộc thì sao mai cũng vừa ló dạng. Tiếng gà trong xóm liên tục gáy vang. Nàng vội kéo Cao dậy, rồi đột nhiên cắn nhẹ vào cổ tay chàng, đoạn nói:

- Để chàng nhớ mãi đến thiếp!

Tức thì ở chỗ vết cắn hiện lên hình một đóa sen hồng, lại phảng phất hương thơm thoang thoảng. Gà lại gáy rộ. Nàng vôi vàng sửa lại xiêm y, ngậm ngùi:

- Thời gian không còn nữa. Thiếp đi đây!

Cao nắm lấy tay nàng, buồn đau hiện đầy môi mắt. Nàng xỉ ngón tay nhẹ vào trán chàng, cười cười:

- Thiếp có… chết đâu mà mặt mày như đưa đám vậy? Ngày trùng cửu năm Nhâm Tí hẹn nhau tại miếu Thành Hoàng. Chàng chớ quên!

5. Tái ngộ

Cách nạng Tân Hợi thành công (1911), đế chế Thanh triều sụp đổ, hoàng đế Phổ Nghi thoái vị, bè lũ gian thần kẻ bị giết, kẻ bị tù đày. Qua năm sau (1912 - Nhâm Tí), nhớ lời Liên Hà, Cao trở lại Ngưu Thôn.

Miếu Thành Hoàng xem khang trang hơn, khói hương nghi ngút. Hỏi thăm, người trong làng cho biết, “Ngài” rất hiển linh, Ngưu thôn võ thuận phong điều, bá tánh an cư lạc nghiệp.

Cao nhìn pho tượng được tô son thếp vàng, uy phong ngời ngợi. Đang kính cẩn rót rượu khấn, thì giọng ồm ồm quen thuộc, tiếp theo là tiếng cười ha hả:

- Kẻ mời rượu phải uống trước để xem có độc không đã! Ha ha!

Cao giật thót người, nhìn lên. Pho tượng bằng gỗ từ từ chuyển động rồi uyển chuyển bước xuống bục, vỗ nhẹ vai Cao mà chàng cơ hồ xương cốt như vỡ vụn ra:

- Hiền đệ! Đã lâu không gặp! Nay phải uống cho thỏa. Ta đang thèm rượu đây!

Cao cả vui. Thế là thịt bày đầy, rượu rót tràn, rổn rảng nói cười sảng khoái. Nhìn bộ dạng nốc rượu của Thành Hoàng, Cao cười:

- Rượu bá tánh cúng đầy mà xem chừng Ngưu huynh đói rượu lắm vậy?

- Hừ! Uống rượu mà không tri kỉ thì có thú vị gì!

Bỗng nghe hương sen thoang thoảng. Cả hai nhìn ra cửa, rồi cùng đứng lên với một thái độ khác nhau. Thành Hoàng thi lễ:

- Trần công nương giá lâm!

Cao nghẹn ngào:

- Hiền thê!

Liên Hà tươi cười, vừa thư thả bước vào, vừa chỉ đứa bé dẫn theo:

- Hãy xem có đáng là hậu duệ của Cao gia không nào?

Nhìn đứa bé dáng thông minh đỉnh ngộ, Cao tràn hạnh phúc:

- Thật vất vả cho nàng! Ơn Thái Sơn nầy…

Thành Hoàng nôn nóng, ngắt lời:

- Chuyện ơn nghĩa không phải nói lúc nầy! Giờ uống rượu đã! Còn nhiều chuyện vui hơn mà hiền đệ chưa biết được đâu.

Theo lời Thành Hoàng, Đại nhân Trần Án Sát đã được phong hầu. Tử tôn đời đời hưởng lộc. Cao ngùi ngùi nhìn vợ:

- Dù sao, nơi dương gian nầy nhạc phụ cũng không người nói dõi. Hay là ta cho con mang họ Trần, và đặt tên là Bảo Bảo, nghĩa là vật quý nhất của vợ chồng ta. Hiền thê nghĩ thế nào?

Liên Hà rưng lệ, lặng thinh. Thành Hoàng cười lớn:

- Ha ha! Vậy mới gọi là NGHĨA chứ! Được cùng đệ kết nghĩa anh em, đời ta không phí! Ha ha! Hãy uống mừng sum họp đi nào!

Bèn dốc cả bầu, rượu tràn ra miệng, tuôn xuống ướt cả râu, cả áo. Vài mươi bận như vậy thì giọng lè nhè:

- Không có gì vui bằng vợ chồng đoàn tụ. Hiền đệ và đệ tức (em dâu) cứ xem đây là nhà của mình. Ta có tật khi say trời gầm cũng không biết. Chớ lo!…. Hề hề!

Rồi ôm Bảo Bảo Vào lòng:

- Cháu ngoan! Tối nay ngủ với bá bá nhé!

*

Trong đời lang bạc, ta thượng được nghe những chuyện li kì. Mùa xuân năm Bính Ngọ có dịp hồi kinh, ta bèn đem chuyện trên kể cho ân sư là La thượng thư. Nghe xong, người bảo: “Đây cũng là chuyện lạ, ngươi hãy viết tiếp vào “Tứ Phương Kì Truyện” cho hậu thế mua vui”. 

KHA TIỆM LY


(KTNN SỐ 840)
READ MORE - Truyện truyền kì LIÊN HÀ TIỀU THƯ - Kha Tiệm Ly