Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Thursday, January 12, 2017

NHÀ THƠ SẦM THAM (715-770) - Nguyễn Ngọc Kiên dịch thơ


       

         NHÀ THƠ SẦM THAM (715-770)  
                                 
Sầm Tham là người Nam Dương, tỉnh Hà Nam (Trung Quốc). Cha ông từng làm Thứ sử (hai lần), và đã qua đời lúc Sầm Tham còn nhỏ.
Nhà nghèo, ông phải tìm cách tự học. Năm 744 đời Đường Huyền Tông (ở ngôi: 712-756), Sầm Tham thi đỗ Tiến sĩ lúc 29 tuổi, được bổ làm một chức quan nhỏ là Binh tào Tham quân.
Năm 749, ông theo tướng Cao Tiên Chi đến An Tây  (ra biên ải lần thứ nhất), nhưng chẳng bao lâu lại trở về kinh đô Trường An.
Năm 754, ông ra biên ải lần thứ hai, làm Phán quan cho Tiết độ sứ An Tây là Phong Thường Thanh. Thời kỳ này, ông sáng tác rất nhiều thơ về chủ đề "biên tái".
Sau loạn An Sử (755-763), từ Tửu Tuyền (nay thuộc Cam Túc), Sầm Tham đến Phượng Tường (nay thuộc Bảo Kê, Thiểm Tây) là nơi Đường Túc Tông (ở ngôi: 756-762) đang ở. Được bạn thân là nhà thơ Đỗ Phủ và Phòng Quân tiến cử, ông được giữ chức Hữu bổ khuyết.
Thời Đường Đại Tông (ở ngôi: 762-779), Sầm Tham lại ra biên ải (lần thứ ba). Năm 766, ông được bổ làm Thứ sử Gia Châu (nên ông xưng là Sầm Gia Châu), nhưng sau đó bị bãi chức .
Lâm cảnh đói nghèo, năm 770, Sầm Tham mất trong quán trọ tại Thành Đô (nay là tỉnh lỵ tỉnh Tứ Xuyên) lúc 55 tuổi.
Tác phẩm của ông để lại có Sầm Gia Châu thi tập (Tập thơ của họ Sầm ở Gia Châu) gồm 8 quyển.
(Theo Kiwipedia)


 Phiên âm: Thích trung tác

Tẩu Mã tây lai dục đáo thiên,
Từ gia kiến nguyệt lưỡng hồi viên.
Kim dạ bất tri hà xứ túc,
Bình sa vạn lý tuyệt nhân yên.

Dịch nghĩa: Ở trong sa mạc cảm tác
Giục ngựa chạy về phía Tây, muốn đến tận chân trời
 Rời nhà ra đi, đã thấy trăng hai lần tròn
 Đêm nay không biết ngủ ở đâu
 Trên sa mạc muôn dặm, tuyệt không thấy bóng người và khói bếp.

Dịch thơ: Viết trong sa mạc
Ngựa sải về Tây muốn tới trời
Xa nhà chốc đã hai mùa rồi
Đêm nay chẳng biết  tìm đâu ngủ
Vạn dặm cát xa chẳng khói, người.

見渭水思秦川

渭水東流去,
何時到雍州.
憑添兩行淚,
寄向故園流.

 Phiên âm: Kiến Vị thuỷ tư Tần xuyên
Vị thuỷ đông như khứ,
Hà thời đáo Ung Châu.
Bằng thiêm lưỡng hàng lệ,
Ký hướng cố viên lưu.

Dịch nghĩa: Thấy sông Vị nhớ Tần Xuyên
Song Vị chảy về đông
Bao giờ tới châu Ung
Nếu chở thêm được hai dòng lệ
Xin gửi đưa giùm về quê hương

Dịch thơ: Thấy sông Vị nhớ Xuyên
Sông Vị chảy về Đông
Bao giờ tới châu Ung
Nếu thêm đôi dòng lệ
Xin gửi về cố hương


Phiên âm: Sơn phòng xuân sự

Lương viên nhật mộ loạn phi nha,
Cực mục tiêu điều tam lưỡng gia.
Đình thụ bất tri nhân khứ tận,
Xuân lai hoàn phát cựu thì hoa.

Dịch nghĩa: Cảnh xuân trong nhà trên núi
Trong vườn Lương, lúc chiều tà những con quạ bay hỗn loạn
Cố trông hết tầm mắt cũng chỉ thấy vài ba nhà tiêu điều
Cây trong sân không biết rằng người ta đã đi hết
Xuân về lại nở những bông hoa thời xa xưa.

Dịch thơ: Cảnh xuân trong nhà trên núi
Quạ náo vườn Lương buổi chiều tà
Xa trông xơ xác chỉ mấy nhà
Cây sân không biết người đi hết
Xuân đến như xưa …. vẫn nở hoa

Chú thích về danh từ Lương Viên 梁園: Vườn Lương Viên. Sách Tây Kinh Tạp Ký chép: Đời Nam Bắc triều (420-581), Lương Hiếu Vương là con thứ vua Lương Vũ Đế (502-550) mở vườn Đông Uyển ở trong thành Thư Dương chu vi hàng mấy dặm, để làm chỗ chiêu tập hào kiệt bốn phương và những người du thuyết trong thiên hạ. Lương thường cùng tân khách và cung nhân hội yến trong vườn, rồi thả thuyền câu cá trong ao. Đời sau gọi vườn Đông Uyển là Lương Viên.


Nguồn: Đỗ Bằng Đoàn-Bùi Khánh Đản, Đường thi trích dịch, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, NXB Văn học, 2006.

READ MORE - NHÀ THƠ SẦM THAM (715-770) - Nguyễn Ngọc Kiên dịch thơ

XUÂN VỀ, TẾT ĐẾN - Thơ Chu Vương Miện


          Tác giả Chu Vương Miện


XUÂN VỀ

Thì năm nào cũng vậy
hết dê cút khỉ tới
hết khỉ dông gà về
đói vẫn hoàn là đói
rét vẫn hoàn là rét
trên phần đất lũ lụt
dài lê thê
khổ này tiếp khổ kia
hoạ này đến họạ nọ
gà vịt trâu bò
theo nhau ra lòng bể
bơi với sóng trùng khơi
để lại phận người
chìm trong nước ?
nước rút ít ngày
lại ngập ngay
ngồi trên nóc nhà
nóc cây
nóc đụn rơm
mần thơ lục bát
may còn cái thân không ?
ứa nưóc mắt lưng tròng
miệng nhai hột thóc
thế cơm
ngày qua tháng đến
buồn tiếp buồn ?
ơi cố hương quê hưong
ơi Giang Nam
ơi trái khế ngọt
ơi trái bòn bon
ơi trái bồ hòn
nuốt mãi nghẹn họng


TẾT ĐẾN

Chó không đến
chỉ có tết và mèo đến
nghèo
mùa xuân đến theo
gạo không có
chỉ có nồi và niêu
vất chổng chơ trên gác bếp
gia chủ bệnh liệt nằm chèo queo
không thuốc không thang
không nước lã
vợ xa con xa
bàn thờ lạnh ngắt
không khói không nhang
vắng hẳn ông bà
nhìn mấy cục gạch
mấy que củi ngổn ngang
cần một bát cháo
một đóm lửa
Cho ngày tháng qua
mấy mươi năm
trót sinh ra
khổ tới già 
văng vẳng nơi xa
tiếng gáy gà
như giấc mơ

 Chu Vương Miện

READ MORE - XUÂN VỀ, TẾT ĐẾN - Thơ Chu Vương Miện

MÙA ĐÔNG KHÔNG BÌNH THƯỜNG - Thơ Nguyễn Khôi


   
                         Nhà thơ Nguyễn Khôi

READ MORE - MÙA ĐÔNG KHÔNG BÌNH THƯỜNG - Thơ Nguyễn Khôi