Cô Lâm Bích Thủy - ái nữ của nhà thơ
tiền chiến Yến Lan vừa gửi đến chúng tôi bài ký về bút danh của nhóm thơ tiền chiến Bàn Thành Tứ
Hữu vang bóng một thời. Thân mời quý bạn đọc cùng xem:
Nhà thơ Yến Lan lúc còn trẻ
Lâm Bích Thủy
Bút danh Hàn Mặc Tử
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng
Trí. Khi mới vào làng thơ, ông lấy bút danh Minh Duệ Thị. Bút danh này ít ai
biết, ông đổi là Phong Trần. Nhìn vóc hạc thư sinh của ông, bác Tấn chọc vui “anh
người mảnh mai như cây sậy, làm sao chịu được Phong Trần mà ước? ” và
cũng bị một bà cụ thâm nho ở Bình Định nói tên này không phù hợp với tính cách
Hàn nên đã khuyên đổi bút danh. Ông Trí bèn lấy chữ đầu của nơi sinh “Lệ Mỹ” và
chữ đầu của quê cha “Thanh Tân” ghép lại thành “Lệ Thanh”. Bút danh này ông rất
vừa ý, nhưng bác Quách Tấn lại trêu. “Bộ anh ngó dễ thương mà hiệu Lệ
Thanh nghe cũng “yểu điệu thục nữ”, vậy tôi gọi anh là
cô Lệ Thanh cho thêm duyên”. Ông Trí chẳng nói gì, ít lâu sau thấy người ta
thấy tên Hàn Mạc Tử xuất hiện trên các báo.
Hàn Mạc có
nghĩa là ”rèm lạnh”, ông cho là độc đáo, đến khoe với bác
Quách Tấn.. Bác Tấn cười mà rằng “Kể cũng ngộ thật. Tránh kiếp PhongTrần lại
đi làm khách hồng nhan. Sợ kiếp hồng nhan đa truân lại đi làm kiếp Rèm Lạnh.
Tránh lờ chui vào lưới, sao lẩn quẩn quá thế?” Ông Trí bực quá “Anh này
thật đa sự, không biết đặt cái đếch gì cho vừa lòng anh”. Bác Tấn hướng cho
ông lối ra “nếu đã có rèm mà thêm bóng trăng vào, hỏi còn cảnh nào nên thơ
bằng?”. Ông Trí bàn với bác Tấn một lúc, rồi lấy bút vạch thêm vành trăng
non lên đầu chữ a ra chữ ă.
Chỉ thêm một cái dấu
thôi mà nghĩa khác hẳn. Từ “Rèm lạnh” giờ thành “Bút mực.” Sau
đó, ông Trí thích chí nói: “Đã có bóng trăng rọi vào, thì từ nay danh tôi
cũng như thơ tôi sẽ mỗi ngày mỗi thêm rạng ngời như bóng trăng”.
Bút danh Chế Lan Viên
Tờ Văn Nghệ - Người văn. Số …. đề
cập đến bút danh này .
PV:
Nghe nói, bút hiệu của nhà thơ Chế Lan Viên xuất phát từ tình bạn với ông (Yến
Lan)?
YL: Nói đúng hơn chữ “Lan Viên” là từ tên tôi và một bài thơ của
tôi. Hoan làm thơ từ lúc 12, 13 tuổi, đầu tiên lấy bút danh từ những địa danh
ngoài quê hương Quảng Trị như: Mai Lĩnh, Thạch Hãn, Thạch Mai. Khoảng 1934, tôi
xa nhà xuống Qui Nhơn học. Đêm trước ngày ra đi, thấy trời đã tối mà cha tôi
vẫn thắp đèn dầu tưới lan, tôi xúc động làm bài thơ
Rồi đây mỗi ngã một thân
đơn
Con ngọn dèn xanh, cha mảnh vườn
Đêm lụi đèn tàn ai gạt bấc
Vườn lan ai ấy tưới thay con
Nghe tôi đọc hết bài thơ, Hoan xúc
động rơm rớm nước mắt. Sau vài giây im lặng, Hoan chậm rải nói “Mình muốn làm
một cái gì đó để kỷ niệm bài thơ và tình bạn của chúng ta”. Và Hoan đã thực
hiện lời nói ấy; các bài thơ đăng trên “Tiếng trẻ” sau này Hoan đều lấy
bút danh là “Lan Viên”.
Đến năm 1936 Hàn Mạc Tử có bài thơ
“Thi sĩ Chàm” tặng Hoan, ghi mấy chữ là “Tặng Chế Bồng Hoan”. Nhà thơ Nguyễn
Viết Lãm nhân lúc đến thăm bạn, ở bên bờ đầm Thị Nại, nơi Hoan đang trọ học.
Xem thấy dòng đề tặng ở trang sách, bèn góp ý với Hoan “Hoan nên ghép hai tên
lại làm kỷ niệm”.
Lúc ấy, bản thảo tập “Điêu tàn” vừa
xong, Hoan lấy bút danh “Chế Lan Viên” và gửi cho Nguyễn Xuân Sanh, nhờ in ở Hà
Nội. Từ đó trên thi đàn văn học Việt Nam người ta thấy bút hiệu – Chế Lan Viên.
Bút danh Yến Lan
Trong làng văn, ai cũng tìm cho mình
một bút danh mang ý nghĩa khó quên; người thì lấy tên làng, tên dòng sông quê
hoặc một kỷ niệm nào đó trong đời. Chắc chắn chỉ có ba tôi, người duy nhất lấy
tên hai thiếu nữ yêu mình làm bút danh:
Thầy
Lang tên thật là Lâm Thanh Lang. (Lan có g) Thầy và 12 học trò quây quần bên
nhau, trong một gian nhà mái ngói âm dương, đối diện với cây me cổ thụ. Trước
khi làm thầy, chàng đã nổi tiếng là người hay thơ, đẹp trai. Các nữ sinh
thường đọc thơ và chuyện ngắn của chàng trên các tạp chí với bút hiệu Xuân
Khai.
Riêng bút danh Xuân Khai, bác Quách
Tấn có thắc mắc:
“…hiệu Xuân Khai có người bảo
rằng do câu thơ cổ “ xuân khai hoa bản địa” mà ra.
Tôi nghĩ tên chú là Lâm Thanh Lang, chữ lang có nghĩa “chàng” hoặc “cây
cau” chứ có phải “Lan” là hoa lan đâu mà dùng “trích cú“ như
vây?”
Tài thơ và cách ăn nói nhỏ nhẹ, có
duyên của chàng làm xiêu lòng nhiều thiếu nữ. Dáng người phong độ, gương mặt ưa
nhìn, ánh mắt trong sáng, tất cả toát lên vẻ thông thái làm các thiếu nữ ở
huyện đêm nhớ, ngày mong…
Họ đến lớp học cốt chỉ để bàn
về thi sĩ hay thơ, đẹp trai hơn là thu lượm kiến thức.
Trong giờ học, thầy đang bình
giảng về thơ, đôi khi học sinh bỗng thấy thầy khựng lại và ánh mắt nhìn ai đó;
học sinh nam theo hướng mắt thầy thì phát hiện ra nơi đó là chỗ ngồi của một
thiếu nữ tình tứ liếc thầy, khiến thầy bối rối ngập ngừng...
Tôi không biết ông già tôi đẹp
trai cỡ nào mà má tôi cũng hay nói tới điều này. Còn anh Quách Giao, con bác
Q,Tấn đã nói với tôi: “Ba em hồi trẻ đẹp trai lắm đó, thiếu nữ nào thấy cũng
mê chứ không phải mình má em đâu”
Lớp học của thầy, có hai thiếu nữ
khá dễ thương; họ cùng tầm tuổi và vóc dáng. Cô tên Yến, cô tên Lan. Hai cô
thương nhau như chị em ruột, đi đâu cũng có nhau. Cả hai đều thương thầm nhớ
trộm; mê thơ và giọng đọc của thầy Lan lắm. Một hôm, không biết là vô tình hay
cố ý, hai cô nói rõ to như để thầy nghe được “Tao với mày chơi thân nhau như
vầy, sau này có lấy chồng, chỉ lấy chung một chàng đẹp trai làm chồng để chúng
mình khỏi xa nhau” . Nghe lõm trọn câu nói của hai nữ sinh, thầy Lang tủm
tỉm cười ý nhị! Ít lâu sau, cô Yến theo gia đình chuyển vào Nha Trang. Tình bạn
của họ bị chia xa. Cô Lan vẫn đều đặn một mình đến lớp thầy Lang học.
Không lấy được chàng thi sĩ, cô Lan
nhất quyết đi tu. Cô vào tu tại chùa Sư Nữ ở Phan Thiết. Cả nhà tỏa khắp nơi
tìm, nhưng bóng dáng cô như biến khỏi mặt đất? May có bà chị họ đi lễ Phật,
gặp, lén báo tin về gia đình. Chàng thi sĩ họ Lâm khăn gói theo anh trai cô,
vào tận chùa đón về. Và bài thơ “Phan Thiết”có 18 câu đã ra đời. Xin
trích:
Ôi Phan Thiết, sông Cầu, Lăng Cô, Đà
Nẵng
Đến một lần chỉ để nhớ mãi không
khuây
Đêm lạnh, tóc mai dầm hướng gió
Nặng tình xanh trăn trở giữa chăn
đơn
Tôi thức uống bầu sao từng hớp nhỏ
Gạn vô lòng chất biếc mỗi tình
thương ….
Tháng 4/1944
Sau bước ngoặc này, cô Lan và thầy
Lang gắn bó hơn. Mặc mẹ kế ngăn cản “ Lấy con Lan là lấy gái nạ dòng”;
mặc cha cô Lan cấm đón. Hai người vẫn lén rủ nhau xuống bãi biển Qui Nhơn, ra
Đập Đá trên những chuyến xe ngựa rất lãng mạng.
Cha cô thấy họ quá quyết tình, đành
chấp nhận để con gái cưng lấy chàng thi sĩ mà không màng đến nữa việc có môn
đăng hộ đối hay không!
Cô Yến ở Nha Trang nghe tin, gửi thư
ra động viên, vun đắp cho hai người nên duyên vợ chồng và tế nhị rút lui lời
thề lấy chung chồng năm xửa năm xưa nữa!
Tội nghiệp, trong lần đi tản
cư, chiếc thuyền chở gia đình cô Yến bị lật làm chết hết! Biết tin, chàng thi
sĩ Xuân Khai, nhớ lời thề ngây thơ của đôi bạn, và để kỷ niệm tình bạn của họ,
ông thay bút danh Xuân Khai thành Yến Lan
Trong cuốn “Phong trào thơ mới
1932-1945” giáo sư Phan Cự Đệ cho rằng, nhóm thơ có cả Bích Khê và Hoàng Diệp.
Ông vẫn giữ ý kiến của mình khi tái bản. Điều này, không đúng. Bác Quách Tấn
khẳng định “Tứ linh chỉ có 4 người: Hàn, Yến, Quách, Chế. Mỗi người
mang tên một linh vật. Theo bác, người đầu tiên dùng bút hiệu của nhóm
Tứ linh trong thi đàn là Hoài Thanh.
Lâm Bích Thủy