Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Monday, August 13, 2018

DÙNG DẰNG SUỐI MỌOC - Nguyễn Đại Duẫn



DÙNG DẰNG SUỐI MỌOC


Hè cùng bạn đến Phong Nha
Suối reo vui hát tình ca ngân dài
Gương trong soi cảnh ban mai
Tựa hồ lạc chốn Thiên thai bềnh bồng
Thả hồn làn nước mát trong
Cho ta ngụp lặn mênh mông nắng hè
Đa tình suối Moọc mãi mê
Dùng dằng lòng chẳng muốn về
Người ơi!


Nguyễn Đại Duẫn
Quảng Bình
Hội viên Hội VHNT Trường Sơn
DĐ: 0977194533




READ MORE - DÙNG DẰNG SUỐI MỌOC - Nguyễn Đại Duẫn

TÍNH DÂN GIAN TRONG THƠ PHẠM NGỌC THÁI - Bùi Văn Dong


TÍNH DÂN GIAN TRONG THƠ PHẠM NGỌC THÁI
Bùi Văn Dong
                                           
Trích tiểu luận 
"Phạm Ngọc Thái - Con người và thi ca" 
- Tập sách sắp xuất bản.



   Thơ đời Phạm Ngọc Thái rất sâu sắc nỗi kiếp người. Ở đây, không chỉ nói về sự vất vả, lam lũ kiếm miếng cơm, manh áo của những con người lao động, nó còn phản ảnh cả chủ nghĩa nhân đạo trong đó. Những con người nghèo khổ luôn là tầng lớp phải chịu nhiều sự bất công, bị quyền lực dẫm đạp, chà xéo.

1/. Bài “CÔ QUÉT LÁ ĐÊM HỒ” -
       Trước hết, ta hãy nghe tác giả tả hình ảnh trong hai câu đầu:
                        Một đêm hồ nước đầy sương gió
                        Người đi không rõ mặt người
     Cái bóng người "không nhìn rõ mặt" này, chỉ cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nghĩa đen, tức là gương mặt họ đã bị nhoà nhoạt đi trong trời đêm sương gió - Nhưng nghĩa bóng, nó phản ảnh họ chính là lớp người, những kiếp đời thấp hèn, sống mà không có... "nhân ảnh" trong xã hội. Con người lao động tầng lớp thấp ấy, vừa lầm lụi gió sương vừa là bọt bèo ở chốn cộng đồng:
                       Em quét lá lẫn đời, lẫn kiếp
                       Tiếng chổi mòn kêu xiết vào tim!
     Kiếp sống của họ cũng chỉ giống như những chiếc chổi tre, bị kéo mòn vẹt đi trên đường đời. Cái tiếng chổi đời, chổi kiếp ấy... đã trích vào trái tim đau của người thi sĩ. Anh cùng với thiên nhiên ru quanh cô quét lá:
                       Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ vắng
                       Em thầm thì quét lá, bên tôi!
     Tả về nỗi người, cảnh đời mà thơ như mộng:
                      Em hoá thành thơ rơi lặng lẽ
                      Trong cõi lòng tôi buồn triền miên

     Nhà thơ buồn, đau với những nỗi đời trong xã hội? Khoảng không gian bao trùm lên phố khuya vừa thực, lại vừa ảo. “thực”: là cảnh trời đất gió sương, lá cây rơi xào xạc, hàng dương liễu hiu hắt bên hồ với một vầng trăng cô đơn:
                      Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng
                      Con nai vàng chết bóng thu xưa...
     Cái bòng trăng cũng cô độc, bơ vơ như người thi sĩ = còn “ảo”: vì câu thơ đã chứa cả linh hồn cùng trái tim người. Không phải cái bóng trăng nó lạc lõng, cô đơn đâu? mà chính là nhà thơ đấy! Anh cảm đồng với thân phận cô quét lá, xót xa với nỗi kiếp người cần lao, để những giọt thơ rơi ra.
     Ta hỏi: Tại sao bóng của rừng thu lại vào đây? - Đấy là cõi mộng của nhà thơ. Vốn là một thi sĩ đa tình, nhìn cảnh phố khuya - Phạm Ngọc Thái ngỡ như mình đang đứng trong bóng rừng thu xưa của cố thi nhân Lưu Trọng Lư: có con nai vàng đang ngơ ngác… Nhưng nếu con nai vàng nó vẫn sống nhởn nhơ, tung tăng nhảy trong rừng thu đẹp như tranh vẽ (thì đó lại là thơ của Lưu Trọng Lư) - Ý thơ sẽ trở nên mâu thuẫn với cảnh đời bọt bèo, lầm lụi của cô quét lá đêm trong chốn dân gian. Bởi thế, con nai vàng phải chết!  Mới là thơ Phạm Ngọc Thái.
      "Con nai vàng chết bóng thu xưa..." - Câu thơ mang ý nghĩa tượng trưng. Nó muốn nói rằng: Những con người lao động nghèo khổ, phải kiếm miếng cơm, manh áo, vật vã chốn đời thường - thì đầu óc nào mà mộng mơ đến cảnh con nai vàng đẹp như tranh cổ tích của cố thi nhân!? Cho nên, hình ảnh "con nai vàng chết" đã phản ảnh tới sự mất mát, không chỉ về vật chất mà cả tinh thần của người lao động. Đây là hai câu thơ hay nhất bài!              
     Thế rổi, cả hồn vía nhà thơ nhập vào cô quét lá. Anh nhìn theo mãi cái bóng đi xa dần ở phố đêm kia:
                        Cô quét lá đêm hồ khe khẽ vào khuya...

   Cái bóng người quét lá lẩn khuất trong đêm, như thân phận nhân gian lầm lụi hết kiếp này, qua kiếp khác. Thơ giàu tính nhạc và thấm đẫm tình người. Về phương pháp tư duy, ta hãy đem đối chiếu với bài "Đây thôn Vỹ Dạ" của thi nhân Hàn Mặc Tử - Như một số nhà bình luận có nhận định: âm hưởng trong thơ Phạm Ngọc Thái, ảnh hưởng khá sâu sắc thơ Hàn Mặc Tử. Đó là lối cảm xúc thơ theo thi pháp "tương ứng cảm quan" của trường phái thơ tượng trưng ở châu Âu đầu thế kỷ XX. Ở trong bài "Đây thôn Vỹ Dạ", khi Hàn Mặc Tử nói về cái duyên phận hẩm hiu, cách trở giữa thi nhân với nàng Hoàng Cúc bằng hinh ảnh tượng trưng:
                       Gió theo lối gió, mây đường mây
                       Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...      
     Nghĩa là: Anh theo đường anh, em đường em / Duyên phận đôi ta có thế thôi! -  Phân chia, cách biệt như  con gió với làn mây ở trên trời. Tâm trạng thì u hoài, buồn nản tựa dòng nước lặng lờ bên những bông hoa bắp phật phờ lay ở bờ sông.
     Còn trong bài "Cô quét lá đêm hồ", tác giả dùng hình ảnh cái chổi mòn quét cả đời, cả kiếp... làm tượng trưng nói về thân phận người lao động như đã phân tích trên.
    Trong đoạn thơ cuối của bài "Đây thôn Vỹ Dạ": Hàn Mặc Tử mơ tưởng hình bóng người thương, nhói lên những uẩn khúc trong lòng:
                      Mơ khách đường xa, khách đường xa
                      Áo em trắng quá nhìn không ra
                      Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
                      Ai biết tình ai có đậm đà?
     Thì trong bài thơ Phạm Ngọc Thái, ta nhận thấy cái tâm trạng cảm hoài của nhà thơ về cô quét lá, những thân phận mịt mờ, lầm lụi trong chốn dân gian:
                     Tôi đứng trông em mịt mờ ảnh vọng
                     Cô quét lá đêm hồ khe khẽ vào khuya...
     Còn về cấu tứ - Hai bài thơ đều được chia làm ba khúc, mười hai câu, phong dáng tư duy tương đối giống nhau.
    "Cô quét lá đêm hồ" là một bài thơ đời sâu sắc và hay.
 


2/. “EM BÁN XOÀI” -
      Nói về những kiếp đời vất vưởng, lang thang trong chốn nhân quần. Bài thơ vẽ lên một khung cảnh ở thành phố biển Nha Trang, dưới bóng hàng dừa xứ sở. Đó là những cô gái “bán xoài” nổi trôi, để kiếm sống qua ngày:
                       Em bán xoài đi đêm trên cát trắng
                       Bãi biển chập chờn
                                    kiếp đời các cô gái lang thang
                       Dưới hàng dừa se sẽ gió ru êm
                       Dẫy cột đèn đứng đêm côi lạnh.
     Xót thương cho các thân phận lạc loài ấy, cả đến những chiếc cột đèn đã được nhân cách hóa, linh hồn của chúng cũng hắt hiu trong đêm giá lạnh. Hàng dừa thì se sẽ ru quanh các cô gái, lời ru ngọt ngào của quê hương.
     Nghe nói: ngày ấy, nhà thơ trở về sau cuộc chiến tranh. Anh đi ngang qua đây và đã gặp những cô gái bán xoài:
                       Xoài em chín, đêm tàn canh em đón khách...
                       Giọt thơ buồn như ngọc sương rơi
     Các cô gái đã bị xô đẩy ra bên lề cuộc sống. Dòng thơ như những giọt sương, rơi buồn bã xuống các kiếp đời. Làn điệu êm và tha thiết đến lạ lùng. Tác giả đã khắc họa một thế giới bao quanh, bằng hình ảnh của một biển cả mịt mùng sóng bão. Nó giống như miệng của con thuồng luồng khổng lồ, chỉ muốn nuốt chửng những thân phận nhỏ nhoi, yếu đuối kia:
                       Biển to lớn - Bóng em nhỏ thẫm
                       Linh hồn treo ngoài thế giới em đi
                      Trên những cành dừa hay trong đám mây qua?
     Những thân phận vất vưởng không có nơi bám víu, có khác nào kiếp đời bạc bẽo của nàng Kiều đang hiển hiện lên?
                      Thế giới em đi "vòng thiên la địa võng"
                      Tóc còn xanh, em bán kiếp đời trôi...
     Hình ảnh chúng vật vờ, cát bụi. Những chiếc cột đèn lại được tái hiện đứng hiu hắt trong đêm, ánh đèn mờ mịt tựa các linh hồn đang khắc khoải. Như lời Kinh Thánh đã nói: Ta sinh ra từ cát bụi lại trở về cát bụi…
      Cảm đồng trong cõi nhân gian, nhà thơ cùng với hàng dừa quê hương cất lời ru em, tiếng ru chan chứa tình đời:
                      Các cô gái đi đêm như các cột đèn
                      Bóng nuốt lẫn vào bờ cát ấy...
                      Biển ru ta và ta ru em
                      Dưới hàng dừa xứ sở gió ngàn năm...
     Chủ nghĩa nhân văn của bài thơ, chính là lòng thương người và nỗi đau nơi nhân tình thế thái. 

3/. “LÀM MA EM VỢ” -
     Là một bài thơ có tính xã hội học sâu sắc, in lần đầu tiên trong tập "Rung động trái tim", Nxb Thanh niên 2009. đã được nhà văn Đào Viết Minh binh rất khúc triết. Mấy điều đáng lưu ý:
a-  Bài thơ rất giàu bản sắc dân gian. Về tính triết học, nó dựa theo thuyết bản mệnh trong kinh phật. Tôi xin trích hai câu cuói của bài để phân tích:
                      Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ, (*)
                      Anh ở vì chưng trả nợ đời
(*)  Theo kinh phật: Chỉ có người đã chết mới hết nợ đời! Ý của câu thơ, tác giả muốn vấn an hương hồn em: Em chết, coi như đã trả hết nợ đời đó em! Cầu mong hương hồn em được siêu thoát nơi suối vàng. Nhà văn Đào Viết Minh đã bình như sau:
     " Bài thơ tuy cũng dựa trên một nỗi đời cụ thể, nhưng nó có cấu trúc của một bài thơ tượng trưng. Theo quan điểm về nỗi kiếp đoạn trường nơi bể khổ dân tình của cụ Nguyễn Du, thông qua thân phận nàng Kiều - Nàng Kiều trải qua bao khổ nạn, nhục nhã ê chề. Mấy lần phải đắm tấm thân ngà ngọc của mình trong chốn thanh lâu nhơ nhuốc, đến mức phải tìm cách quyên sinh cho thoát nợ. Nàng đã nhảy xuống sông Tiền Đường để chết... nhưng rồi lại được Giác Duyên vớt cứu - Nghĩa là, theo thuyết bản mệnh, món nợ kiếp của nàng Kiều chưa hết. Nàng vẫn phải sống để trả nốt nợ đời:
                      Làm cho sống đọa, thác đầy
                      Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi
                                                                ( Kiều )
     Trở lại với bài thơ "Làm ma em vợ" của Phạm Ngọc Thái, với câu:
                      Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ,
     Ý của câu thơ như đã phân tích trên. Còn câu thơ dưới:
                      Anh ở vì chưng trả nợ đời
     Anh còn sống, chẳng qua vì đời chưa hết nợ. Trả hết nợ đời rồi, anh cũng đi thôi! ".
     Và nhà bình luận kết luận rằng: "Làm ma em vợ" là tiếng khóc bật ra từ trong nỗi kiếp dân tình.

b-  Chìm sâu trong bài thơ, nó mang ý nghĩa phê phán xã hội, vẫn còn nhiều sự bất nhân. Ngay câu mở đầu:
                     Em kết liễu, tự giải thoát mình khỏi "kiếp"!
     "sống" mà phải tìm cách tự kết liễu mình để thoát khỏi cảnh sống, thì không biết có  kiếp nạn nào khốn khổ hơn? Suy cho cùng, nó cũng chỉ là một nạn nhân của xã hội mà thôi.
c- Cấu tứ bài thơ súc tích, tình thơ cảm động, sâu sắc nghĩa đời. "Nghĩa tử là nghĩa tận", nhà thơ đã cầu nguyện cho em:
                     Anh thắp cho em một nén nhang đời
                     Và lễ tạ: nam-mô-di-phật!
      Ở đoạn thứ hai, lời thơ mang âm hưởng như những tiếng khóc tang nơi dân dã:
                     Người sống đưa chân người chết đây
                     Đầu bạc làm ma mái xanh này
                     Mẹ, cha... queo quắt còn ham thọ
                     Em nhởn thanh xuân lại vội quay.
     Ý tứ đã được gạn lọc để hợp với hoàn cảnh, nông nỗi về cái chết của người em.
     Xét về cả nội dung và ngôn ngữ nghệ thuật: "Làm ma em vợ" có chân dung của một bích phẩm thi ca! Cho dù thời thế có biến đổi, lịch sử có thăng trầm... thì tình thơ vẫn có khả năng tồn tại trường cửu cùng năm tháng.
     Ta hãy đọc cả đoạn thơ cuối:
                     Em ơi, chữ "kiếp" trước chữ "người"!
                     Sống cần cố gắng, chết rồi thôi
                     Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ,
                     Anh ở vì chưng trả nợ đời.
     Tác giả đã kết hợp cả duy tâm và duy vật biện chứng để phản ảnh quan niệm, màu sắc tín ngưỡng xã hội trong mối quan hệ cuộc sống, cá nhân với cộng đồng. Bài thơ chỉ có ba đoạn, mười hai câu, mà ý nghĩa rất sâu sắc! Nó có thể trở thành một trong những bài khóc tang có giá trị điển hình.

4/.   “NỖI TRĂN TRỞ NGƯỜI ĐI TÌM VÀNG” -
     Tác giả đã sáng tác bài thơ này trong những năm tháng ở nước ngoài vào cuối thế kỷ XX. Thi phẩm đã được xuất bản lần đầu tiên trong tập "Có một khoảng trời", Nxb Hà Nội 1990 - Để phản ảnh một bối cảnh xã hội, sự bi hài trong cuộc sống, nhiều nơi dân tình rơi vào sự đói nghèo, hoạn nạn. Sau đó bài thơ đã được nhà văn Khánh Hòa bình rất sâu sắc. Trong bài viết này, tôi lược trích bài bình của nhà văn Khánh Hòa, xin giới thiệu cùng bạn đọc.
      LỜI BÌNH: Vào những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, các đoàn người xuất khẩu lao động ồ ạt đổ ra nước ngoài. Bối cảnh trong nước hỗn độn. Nền kinh tế xã hội sa sút, đời sống dân tình, nhất là nhiều vùng quê rơi vào cảnh nghèo khổ đáng báo động. Thế giới thì đảo loạn. Sang thập niên 90, Xô Viết Nga tan vỡ và hàng loạt các nước XHCN Đông Âu bị sụp đổ. Sương mù chủ nghĩa bao phủ bầu trời, như ở trong bài Trở Về của tập thơ Người Đàn Bà Trắng, tác giả đã viết:
                        Đông Âu bão giật xiêu Thành Mác
                        Bốn bể chân trời lạc khói sương...
     Những trăn trở riêng chung của tác giả, trước thực cảnh các đám dân dã đi tha phương kiếm sống:
                        Tôi sống âm thầm
                                      trong một đoàn người hỗn hợp
                        Rời quê qua bên kia biển sóng
                        Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh nghèo đi
   Những lớp người này phần lớn đều thuộc con em các gia đình nghèo khổ, tình cảm quê hương gắn bó rất tha thiết. Song cảnh tượng diễn ra nơi đất khách, quê người thì thật kinh khủng - đến mức đạo lý sống tưởng chừng không còn chỗ để dung thân. Nhiều khi tranh giành, dối lừa nhau làm ăn không kém gì cảnh chợ giời:
                        Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ
                        Đứa mách qué lại vân vi dễ sống...
     Lòng anh luôn bị dày vò, xa xót:
                        Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng?
                        Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên!
 
   Tiếng thơ từ trong trái tim đau bật ra, mặn đắng hơn cả dòng nước mắt. Ta hãy nghe xem cái giá phải trả của những kẻ đi xuất khẩu lao động đó, như thế nào:
                      Ai mang bán vàng mười giữa phiên chợ đông (1)
- Câu (1) này: Sử dụng ý thơ của Nguyễn Duy: Còn chút vàng mười mang ra bán nốt/-  "vàng mười" ở đây, chính là thứ vàng của lương tâm - Nghèo cực quá, thì đến cả tâm hồn cũng phải mang mà bán cho quỉ sứ! Nền tảng xã hội quá thấp, cá nhân làm sao có thể giữ cho mình trong sạch được? Huống hồ, quan hệ cuộc đời còn có cả gia đình và những người thân. Nếu nhà thơ kia,  có lúc còn phải mang cả "một chút vàng mười" còn sót lại trong mình ra phiên chợ người mà bán, thì hẳn cái thứ vàng kiếm được của đám người lao động tha phương, giá đổi chua chát hơn nhiều:
                        Tôi tìm chắt những bụi vàng như anh lính lê-dương
                                                             lọc sàng từng đống rác...(2)
- Câu (2): Phỏng theo tích truyện Bông Hồng Vàng của nhà văn Nga Pau-Tốp-xki -  Có người lính lê-dương làm cận vệ cho một viên tướng Pháp. Trong chuyến sang chiến trường Đông Dương, viên tướng ấy mang theo một cô con gái nhỏ. Trước khi bị tử trận, viên tướng còn kịp dặn lại người lính cận vệ của mình: Hãy mang cô con gái của ông về trao lại cho mẹ nó ở Pa Ri!
     Trên đường về Pháp lênh đênh qua đại dương, bé gái ngây thơ cứ thầm ao ước có một Bông Hồng Vàng. “ Bông hồng vàng “ chính là biểu tượng, cho ước mơ hạnh phúc của cuộc đời bé gái. Những tháng năm sau đó, cuộc sống cực khổ đã xô đẩy anh lính trở thành một người quét rác nghèo hèn, sống trong một túp lều xiêu vẹo dưới gầm cầu ngoại ô Pa Ri. Ngày ngày, khi quét qua các cửa hiệu kim hoàn, người quét rác lại chắt vét lấy những nắm cấn rác có dính chút bụi vàng mang về nơi mình ở. Năm này qua năm khác, dần dà anh ta cũng tích được một ít vàng, đủ để nhờ người thợ kim hoàn làm cho cô bé gái một bông hồng vàng nhỏ. Cô bé ấy giờ đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp ở Pa Ri.
      Trớ trêu, bông hồng vàng chưa kịp gửi đi cho cô gái, thì người quét rác đã chết trong đói nghèo và tủi nhục. Xác anh nằm trên một manh chiếu mục, đầu vẫn gối lên bông hồng vàng nhỏ, sau đó bị người thợ kim hoàn đến lấy đi mất… không đến được tay cô gái.
 
      Vậy là, thứ vàng mười lương tâm mà nhà thơ kia đã phải mang ra chợ người để bán, cũng như vàng của kẻ quét rác lăn lộn kiếm từ trong rác bẩn cuộc đời, với loại vàng mà đám người lao động làm thuê ở nước ngoài kiếm được:
                        Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác
                        Nhưng giá vàng tính cũng như nhau.
       Nó đã phải đổi bằng sự tủi cực và nhục nhã. Đem cả ba thứ vàng đó đặt lên chiếc bàn giá của lương tri, thì chúng đều phải trả cái giá đổi như nhau mà thôi. Nó phục lại một bối cảnh xã hội đầy mâu thuẫn, đạo lý bị tha hoá. Dung lượng thơ có sức chứa tính thời đại rất lớn. Nỗi đau và tình thương yêu giằng xé trong lòng những con người ấy. Kịch tính biết bao, khi chính họ lại phải sống với nhau thật bi hài:
                        Giả dại ở đời thường mà khôn lại trong mơ...
     Bài thơ tuy là tự sự bản thân, nhưng đã trở thành đại diện cho một lớp dân sinh đông đảo nhất xã hội. Cuối cùng tác giả lý giải về mục đích, mà những nỗi đời trớ trêu ấy đã phải chịu đựng:
                      Nhưng tôi đã có một thỏi vàng, thứ vàng rất thật
                      Đánh một đoá hồng vàng, tôi trao đứa con thơ
                      Người vợ quê hương mỏi mắt đợi chờ
                      Một chút nữa với bạn bè thân hữu...
     Chỉ với hơn hai mươi câu thơ: Nỗi Trăn Trở Người Đi Tìm Vàng phục lại cả một "một tấn đời"! Bài thơ có ý nghĩa nhân văn sâu sắc và tính điển hình thời đại. Trong một giai đoạn có nhiều biến động phức tạp xẩy ra, cả trong nước và trên thế giới. 
               
                BÙI VĂN DONG
     Nguyên GV Trường ĐH Quốc gia.

     NR: 35 phố chợ Gia Lâm, Hà Nội
READ MORE - TÍNH DÂN GIAN TRONG THƠ PHẠM NGỌC THÁI - Bùi Văn Dong

SOI... - Thơ Tịnh Đàm



      Nhà thơ Tịnh Đàm


SOI...

Soi tôi,
Một ánh mắt buồn
Một môi điềm đạm
Vẫn luôn mỉm cười !
Một khuôn mặt
Kém sắc tươi
Gầy hao như thể...
Đợi người vuốt ve.

Soi tôi,
Cánh võng sau hè
Đong đưa...
Dỗ mộng
Mà nghe xót lòng !

Đời vui,
Được mấy ước mong ?
Trò đùa số phận
Rớt trong tay người !

Bây giờ,
Soi bóng tôi ơi...
Tuổi hoàng hôn
Đếm ...
Đầy vơi nỗi niềm !

TỊNH ĐÀM
(Hóc Môn, TP.HCM)

READ MORE - SOI... - Thơ Tịnh Đàm

ĐÊM ẤY MƯA RƠI - Thủy Điền


    


    ĐÊM ẤY MƯA RƠI 

    Sau khi vụ việc xảy ra ít hôm. Những ông láng giềng của hắn như: Chủ tiệm Dược phòng, tiệm Bánh mì, tiệm Đóng giầy, tiệm Thuốc lá v...v.... xì xầm. Sao mà vợ chồng lão chủ nhà hàng "Sài Gòn"  nầy nghe nói mấy ngày nay về Việt nam du lịch, mà cả tuần nay vẫn thấy lão và gia đình còn lẫn quẩn nơi đây và cũng chẳng thấy mở cửa tiệm bán buôn gì cả. Không biết có chuyện gì ? Ngộ nghĩnh thật.

      Qua cơn kinh hoàng ấy, cả đêm nhà hắn dường như không ai ngủ được, mãi cho đến gần sáng thì mọi người mới bắt đầu chợp mắt. Riêng hắn thì hoàn toàn chịu thua. Tay cầm ly Cà- phê, tay chóng càm, miệng lầm bầm : Chẳng lẽ mình nuôi Ong tay áo sao ta ? Mà nó cũng cùng số phận như mình, cũng bị trói, cũng bị đè đầu xuống thảm, chứ nó có được chúng tha đâu hay là nó dở trò "Đóng kịch " Câu hỏi ? Được đặt ra mà không giải được. Mọi chuyện cứ vẫn còn lòng vòng trong đầu hắn cho đến hôm nay.

      Mùa hè năm 20....trời oi bức, thiên hạ ùn nhau đi nghỉ phép hàng năm như thường lệ, quán xá ế ẩm, cảnh người lưa thưa. Hắn nhìn xung quanh và bảo vợ, thôi sẵn cơ hội nầy mình cũng đóng cửa tiệm tạm một tháng về Việt nam chơi. Trước thăm gia đình, bạn bè, sau du hí, đồng thời cho một số anh em Công nhân cùng nghỉ luôn một thể, để họ có thời gian rộng rãi muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì thì làm khi xong chúng ta về bắt đầu làm việc tiếp. Em thấy sao? Bà vợ gật đầu đồng ý và chọn ngày lên đường.

      Trước ngày đi là một tháng, nào là phải đến Toà Đại sứ để xin Visa, nào điện thoại mua vé máy bay, nào liên lạc báo tin với gia đình bên Việt nam v...v...! Trong sự chuẩn bị nầy, khâu quan trọng nhất là khâu liên lạc với họ hàng, anh em hiện đang ở nước ngoài như hắn, xem ai có muốn gởi quà cáp gì về cho gia đình ở Việt nam không, hắn sẽ giúp hộ cho. Đương nhiên, nếu không có cơ hội thì thôi, còn có cơ hội thì không ít hay nhiều người ta cũng cố gắng chiếu cố đến gia đình của họ nơi quê nhà. Mục đích là giúp đở và tạo niềm vui.

      Vòng một tua thu gom, giờ trong tay hắn đã có một số quà và tiền mặt khá lớn cộng với số tiền vợ chồng hắn dự định mang theo trong chuyến du lịch. Không dự định đi chơi thì không nghĩ tới, nhưng khi dự định rồi trong công việc hàng ngày ai ai cũng thấy vợ chồng hắn dường như có chiều hướng lo ra. Nghĩa là: Ngày nào hắn cũng mang cái chủ đề thú vị ấy ra bàn luận, đi đâu, làm gì hai vợ chồng hắn cũng đề cập đến nó. Không những những người tây sống lân cận cũng biết chớ đừng nói những người việc sống chung quanh và những người cùng làm việc với hắn làm sao không biết được.

      Từ những tiếng đồn đại khắp nơi, không biết sao mọi dự định đã lọt vào tai kẻ xấu.

      Đêm ấy, đêm 30, trời đen như mực, u tối khắp cả vùng. khi sắp hết giờ hoạt động của nhà hàng vào khoảng 23 giờ đêm, thời gian chỉ còn mươi phút nữa là nhà hàng tắt đèn, đóng cửa thì bỗng dưng có ba người lạ mặt xông vào, mặt đeo nạ, tay cầm súng ngắn, lên đạn. Một người ra lệnh ! Tắt đèn, khóa cửa tiệm, ngắt dây điện thoại và hai người còn lại nhẩy vào trấn áp, trói tay, bịt miệng, đè đầu úp mặt xuống thảm không được cử động. Chúng ra lệnh hai vợ chồng hắn phải mang hết tiền bạc và đồ quí ra dâng cho hắn, nếu không làm theo sự yêu cầu của chúng, chúng sẽ bắn nát đầu. Sợ quá, dạ dạ....vâng vâng hai vợ chồng hắn mang dâng tất cả chẳng chừa lại đồng nào. Thậm chí cái gì trong người hai vợ chồng hắn chúng cũng không chê, kế đến là trói tiếp hai vợ chồng hắn luôn. Khi xong chuyện chúng mở cửa và leo lên xe ra đi một cách an toàn trong một đêm u tối về nơi phương trời vô định.

      Số người bị trói chẳng cựa kẹ gì được cả và vẫn nằm yên bất động. Vì quá sợ hãi, cứ nghĩ chúng còn vang vang đâu đó nên chẳng ai dám ngốc đầu dậy. Đúng một giờ sau thấy tình hình yên tĩnh cả nhà hắn mò mò dậy và tìm cách cắt dây trói rồi tự tháo gở cho nhau. Cùng lúc họ gọi di động báo Cảnh sát cứu giúp. Nghe tin, Cảnh sát mang ba, bốn xe, bật đèn đỏ, hụ còi trấn áp trước cổng nhà hàng. Cảnh sát nghĩ chúng còn đâu đó, có súng sẽ chống trả lại để thoát thân. Ai ngờ ! Chúng đã ra đi hơn một tiếng đồng hồ và có lẽ bọn chúng đang tạm dừng đâu đó uống vài chai bia để ăn mừng chiến thắng.

      Chờ hoài- chờ mãi, phóng loa gọi đầu thú, hơn hai mươi phút chẳng thấy đụng định, Cảnh sát mặt áo giáp tung cửa xông vào, bọn cướp đâu không thấy mà chỉ thấy cả nhà hắn đang mếu máo khóc như mưa với những gương mặt còn sợ hãi chưa tan. Lấy lời khai của chủ nhà xong, cảnh sát chúc mọi người an lành, ra về và tiếp tục cuộc điều tra sau đó.

      Mãi đến ngày hôm nay, sự việc vẫn còn trong vòng bí ẩn và những giọt nước mắt rơi vẫn còn in đậm trên đôi má.

                                           Thủy Điền
                                            12-08-2018

READ MORE - ĐÊM ẤY MƯA RƠI - Thủy Điền

CHÙM THƠ HUY UYÊN VỀ QUẢNG TRỊ (tt)



                         Nhà thơ Huy Uyên


Quảng-trị, hẹn một ngày về

Không về đâu ơi người em Quảng-trị
biền biệt xa quê góc bể chân trời
ai bỏ đi giọt lệ tình cố-lý
để tháng ngày hoài mãi với chơi vơi.

Đã tới vụ mùa phải không em gái
nụ cười xưa còn lại chút ấm lòng
một người đi,đi hoài đi mãi
để rồi ai ở lại đợi chờ, trông.

Chiều về em có ngồi lại bên sông
nhớ ai xưa mà vọng-sầu-cố-xứ
mai độ vào xuân chín nụ
hỏi anh có về, có nhớ em không ?

Đường về Hải-lăng ngập ngừng mây kéo
phố Đông-hà nghiêng mấy quán chợ buồn
qua Cam-lộ tình mây trôi mấy nẽo
để ai đi mà hát khúc Triệu-phong thôn.

Không về đâu ơi người em Quảng-trị
mai xa người theo nổi nhớ quê-hương
em có đứng bên đường
đợi anh về không nhỉ ?
từ lúc nắng lên cho tới chiều buông.

Ơi em gái quê có trái tim thật buồn
bao năm chờ người đi không trở lại.


Về Quảng-trị 2

Dặm sầu vắt ngang Thành-cổ
mùa về theo mắt ai xưa
mà hồn như còn đem bỏ
bốn mươi năm quên lối về.

Chuông ai gọi hồn La-vang
mân-côi bóng che tình mẹ
Quảng-trị qua đi dâu bể
chim bay ríu rít gọi đàn.

Quảng-trị nắng pha mắt lệ
em đâu mà chưa thấy về
năm canh thao thức Mĩ-thủy
gọi hoài sao em không nghe ?

Bến-hải bao năm đợi người
xẽ chia đắng cay Nam, Bắc
cho tình ngày tháng xa trôi
đứng bên cầu Hiền-lương, khóc.

Một thời Cồn-tiên, Dốc-miếu
lên cao xuống thấp đêm dài
bên đồi trong chiều hàng liễu
thả tóc như nhớ thương ai.

Rockpile một mình lẻ bóng
bên đồi gió hắt hiu lay
đường lên Khe-sanh xa lắm
cớ sao thương nhớ vơi đầy.

Nghiêng treo mấy nhịp Dakrong
ngút ngàn mây trời sông nước
Lao-bão (xa) ranh giới hai miền
Đen-sà-vằn đợi chờ 
sao người đành quên thề ước.

Gặp em cơn mưa đường 9
sân bay Tà-cơn chiều sương
rừng đồi một thời lửa đạn
thương ai xác bỏ chiến-trường.

Bốn mươi năm(mây) ngũ lưng đèo
thức dậy đọng sầu thung-lũng
qua rồi trận mạc buồn hiu
quay về bao mùa lá rụng .

Những bãi ngô vàng xanh ngắt
có đẫm máu người năm xưa
lên đồi nhớ ai mà khóc
đau rồi nước-mắt-chan-mưa.

Em đi trọn mấy đường trần
về đây treo sầu nhớ mãi

Thạch-hãn giờ chết bên sông
lòng ai có sầu tê-tái.


Xa rồi Quảng-trị
       
Cầm bằng ngày đó tôi về
đứng bên sông nhìn Nhan-biều, Ái-tử
xao xuyến chi tình trải mấy khúc quê
lặng lẽ đổ chuông chùa Sắc-tứ.

Bao năm xa rồi Quảng-trị
nghẹn lòng từng bước con xa
nước mắt chan cơm
vọng tình cố-lý
nơi xưa đâu còn đọng lại quê nhà.

Chiều thả buồn qua phố Trí-bưu
hồn người bơ vơ lạc nơi thành cổ
đạn bom xưa mãi tới bây giờ
chinh-chiến điêu linh đầy tiếc nhớ.

Lối trái về ngang tới chợ
bà con nghèo hai buổi cháo rau
dọc đường xưa Trần-hưng-Đạo
vật vờ lối quanh sương khói dãi dầu.

Ngày rộn lòng xao xuyến An-tiêm
gởi tình cho ai xuôi Bồ-bản
dấu ai nước mắt
em nụ cười duyên
để tôi cả đời mang ra mặt trận.

Bao năm rồi gởi lòng về Thạch-hãn
hỏi hàng tre xanh che mấy đường làng
nhớ thương người xa quê từ bận
gởi dặm sầu tha thiết Long-hưng.

Một thời gởi tình ở lại La-vang
xóm chài bên cầu nhiều đêm không ngủ
quán chợ đìu hiu hắt bóng đèn đường
nghe trong đêm bài ca buồn cố-xứ.

Tôi một mình quay về Quảng-trị
đường Gia-long mưa lất phất bay buồn
em ở đâu mà phố giờ hoang-phế
ngậm ngùi đêm trôi lạc cõi mù sương
Quảng-trị ơi có buồn ?


Hạnh-hoa thôn

Hai mắt em hồ như đuôi lá răm
sáng nay về đâu mà coi đìu hiu lắm
về Trí-bưu giáo đường đầy nắng
hay Hạnh-hoa-thôn chuyến chợ phiên buồn.

Ai theo em để kịp cùng đường
nơi triền quê và bầy nghé ọ
bên sông em gái làng hồng đôi má
và hàng tre còn đọng lại hơi sương.

Hạnh-hoa-thôn nắng lên mùa vụ
thoáng môi ai hơi ấm,ắp giọng cười
hay em đi rồi bỏ lại mình tôi
bước thơ thẩn lòng căng bão tố.

Chiều chuông nhà thờ chầm chậm đổ
giọng người êm dịu tiếng kinh cầu
ngày hai ta chia đôi bóng nhỏ
giáo-xứ buồn còn lại trong nhau.

Bao năm qua mắt đỏ lệ người
đợi bóng chiều nghiêng về chung bước
Hạnh-hoa-thôn tiếng gọi quá xa xôi
tình ở lại mà người thôi xa mất.

                               Huy Uyên

READ MORE - CHÙM THƠ HUY UYÊN VỀ QUẢNG TRỊ (tt)