Vua
Minh Mạng (tên hoàng tử là Nguyễn Phúc Đảm)
lên làm vua năm Canh Thìn (1820). Ông là một vị vua có tri thức uyên thâm, biết
nhìn xa thấy rộng. Khi lên làm vua, ông biết lo lắng nhiều việc: lo xây dựng
chính trị, phát triển giáo dục, văn hóa xã hội v.v... chắc là ông rất tâm đắc
câu phương châm mà người xưa thường nói: "Tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ". Nghĩa là muốn cho dân chúng yên ổn, làm ăn phát đạt thì phải lo điều
hành cai quản nhà nước thật nghiêm minh, chặt chẽ. Nhưng muốn vậy thì trước
tiên phải lo dàn xếp nội bộ gia tộc được êm thấm theo khuôn phép rõ ràng.
Lưu ý:
READ MORE - Ý NGHĨA BÀI THƠ ĐẶT TÊN KÉP CỦA VUA MINH MẠNG - Nguyễn Hồng Trân
Minh
Mạng cũng đã biết từ nhiều đời vua trước đây ở trong nước và nước ngoài do việc
tề gia không tốt nên đã sinh ra tranh chấp quyền hành trong nội bộ hoàng gia
dẫn đến ngai vàng bị sụp đổ, triều đình nát tan. Vì thế, ông lo lắng cho cơ
nghiệp nhà Nguyễn. Nếu không tìm cách tề gia cho nghiêm chỉnh thì cũng dẫn đến số
phận như thế thôi. Cho nên Minh Mạng đã nghĩ ra nhiều cách để duy trì đế nghiệp
của mình và con cháu kế tục lâu dài về sau. Trong đó có một cách mang đậm sắc
thái văn hóa, tâm lý xã hội. Đó là cách đặt tên kép. Nghĩa là bên cạnh tên chính, phải ghép thêm một tên phía
trước theo phân định bắt buộc để biết vị trí, thứ lớp của mình trong hàng ngũ
của hoàng tộc. Nhưng trình bày việc đó như thế nào cho tế nhị với các hoàng tử
anh em để họ dễ chấp thuận là việc không dễ dàng. Minh Mạng biết rằng anh em
mình ai cũng yêu thích thơ văn nên ông bèn nghĩ ra cách tạo ra những bài thơ có
ý nghĩa xã hội-nhân văn thâm thúy.
Nhà vua đã sáng tác ra 11 bài thơ kiểu "ngũ ngôn, tứ cú" để dễ đọc, dễ nhớ. Trong đó có một bài gọi là "Đế hệ thi" và 10 bài gọi là "Phiên hệ thi".
Nhà vua đã sáng tác ra 11 bài thơ kiểu "ngũ ngôn, tứ cú" để dễ đọc, dễ nhớ. Trong đó có một bài gọi là "Đế hệ thi" và 10 bài gọi là "Phiên hệ thi".
Bài
"Đế hệ thi" dùng để đặt tên kép cho các con cháu nội nhà vua từ vua
Thiệu Trị trở về sau; còn bài "Phiên hệ thi" để tặng cho con cháu các
ông hoàng anh em ruột của vua Minh Mạng. Còn 10 “Phiên hệ thi” là để tặng cho
10 anh em ruột của vua Minh Mạng để cứ theo đó mà đặt tên kép cho dễ phân biệt
các thế hệ bà con trong dòng tộc nhà Nguyễn. Về 10 bài “Phiên hệ thi”, tôi
sẽ trình bày vào dịp khác.
Sau
đây tôi xin trình bày rõ về bài “Đế hệ thi”
Bài
"Đế hệ thi" là một bài thơ
chữ Hán thuộc thể loại “Ngũ ngôn Tứ cú” (Chỉ có 4 câu, mỗi câu 5 chữ) như sau:
Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh.
Bảo Quý Định Long Trường.
Hiền Năng Kham Kế Thuật.
Thế Thoại Quốc Gia Xương
Bài thơ này trong Thế
tộc phả Nguyễn Phước đã dịch nội dung ý nghĩa thành thơ như sau:
Huấn nghiệp lớn do Tổ Tiên gầy dựng
Gắng giữ gìn cho xứng ân sâu
Phồn vinh thịnh đạt dài lâu
Anh tài hiền đức cùng nhau bảo toàn
Đời đời nối nghiệp tiền nhân
Nước nhà hưng thịnh muôn phần phát huy.
Đời đời nối nghiệp tiền nhân
Nước nhà hưng thịnh muôn phần phát huy.
Bài
thơ này gồm 20 chữ. Từ chữ đầu tiên cho đến chữ cuối cùng, mỗi chữ có một ý
nghĩa sâu xa. Người ta đã truyền lại lời giải thích của vua Minh Mạng theo từng
chữ thành câu thơ như sau:
1.MIÊN : Trường cửu phước
duyên trên hết.
2.HƯỜNG : Oai hùng đúc kết
thế gia.
3.ƯNG : Nên danh xây
dựng sơn hà.
4.BỬU : Bối báu lợi tha quần chúng.
5.VĨNH : Bền chí hùng anh ca tụng.
6.BẢO : Ôm lòng khí
dũng bình sanh
7.QUÝ : Cao sang vinh
hạnh công thành.
8.ĐỊNH :
Tiên quyết thi hành oanh liệt
9.LONG : Vương tướng
rồng tiên nối nghiệp.
10.TRƯỜNG : Vĩnh cửu nối tiếp giống nòi.
11.HIỀN : Tài đức phúc ấm sáng soi.
12.NĂNG : Gương nơi khuôn
phép bờ cõi.
13.KHAM : Đảm đương mọi cơ
cấu giỏi
14.KẾ : Hoạch sách
mây khói cân phân.
15.THUẬT : Biên chép lời đúng
ý dân.
16.THẾ : Mãi thọ cận
thân gia tộc.
17.THOẠI : Ngọc quí tha hồ
phước lộc.
18.QUỐC : Dân phục nằm gốc
giang san.
19.GIA : Muôn nhà Nguyễn vẫn huy hoàng
20.XƯƠNG : Phồn thịnh bình an
thiên hạ.
Khi đặt tên kép cho cháu chắt của vua Minh Mạng thì cứ lấy
tên chính của người đó ghép với một chữ trong bài thơ "Đế hệ thi" theo thứ tự từng đời từ cao xuống thấp, mỗi đời
một chữ. Khi có tên kép rồi thì có thể không cần ghi họ (họ coi như được ẩn) người
ta vẫn hiểu đó là thuộc họ tộc Nguyễn Phước. Thí dụ: Miên Tông là vua Thiệu Trị (con vua Minh Mạng). Ghi đầy đủ là
Nguyễn Phước Miên Tông; Vua Tự Đức là Hường
Nhậm (Hường hoặc Hồng đều như nhau), là con vua Thiệu Trị; Ưng Chân là vua Dục Đức (con nuôi của
vua Tự Đức, con đẻ của Nguyễn Phước Hồng Y); Bửu Lân là vua Thành Thái , con vua Dục Đức, tức NP. Ưng Chân); Vĩnh Thụy là vua Bảo Đại (con vua Khải Định
tức là NP Bửu Đảo).
Những
người không làm vua nhưng thuộc dòng đế hệ của vua Minh Mạng cũng được đặt tên
kép (theo hàng từng đời, từng chữ) và được ẩn họ như thế. Thí dụ: Nhà thơ Ưng Bình (hiệu Thúc Dạ Thị) là con cụ
Nguyễn Phúc Hồng Thiết, cháu nội cụ
Nguyễn Phúc Miên Trinh (Nhà thơ Túy Lý Vương). Nhà Hán học: Nguyễn
Phước Vĩnh Cao là con cụ Nguyễn Phước
Bửu Kế. (chữ Hán Phúc hay Phước đều
như nhau).
Như
vậy bài "Đế hệ thị" của của
vua Minh Mạng chỉ mới thực dụng được câu đầu tiên "Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh" thì đã hết chế độ nhà vua Nguyễn
ở Việt Nam. Tuy vậy, sự ảnh hưởng của tục lệ này khá đậm nét ở Huế nên trong
thực tế xã hội hiện nay vẫn còn nhiều người ở thế hệ sau của Hoàng tộc Ming
Mạng vẫn thích đặt tên kép để kỷ niệm nguồn gốc tổ tông là con cháu nội nhà vua
nhưng vẫn kèm theo họ Nguyễn Phước hay Nguyễn Phúc là như nhau.
Theo
Thế phả của Nguyễn Phước tộc có ghi thêm rằng:
Bài “Đế hệ thi” được
khắc trong một cuốn sách bằng vàng (kim sách),
cất trong hòm vàng (kim quỹ) để lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Các
bài Phiên hệ thi cũng được khắc trong các cuốn sách
bằng bạc.
Nói chung, con
cháu các hệ Chánh từ Vua Minh Mang trở về sau, kể cả các Phòng thuộc hệ Chánh,
đều đặt họ tên kép theo cách nói trên”.
Ngoài ra, Minh Mạng
còn quy định cách viết chữ Hán theo từng bộ đi kèm với mỗi chữ trong
bài Đế hệ thi là một bộ Ngự Chế Mạng Danh Thi:
Miên (có bộ miên chữ Hán), Hồng (bộ nhân), Ưng (bộ thị), Bửu (bộ sơn), Vĩnh (bộ ngọc), Bảo (bộ phụ), Quý (bộ nhân), Định (bộ
ngôn), Long ( bộ thủ), Trường (bộ hòa),
Hiền (bộ bối), Năng (bộ
lực), Kham (bộ thủ), Kế (bộ ngôn), Thuật (bộ
tâm), Thế (bộ ngọc), Thoại (bộ
thạch), Quốc (bộ đại), Gia (bộ hòa), Xương (bộ
tiểu),
Nghĩa là anh em ruột của vua phải đặt tên có cùng một bộ.
Ví dụ: Vua Thiệu Trị, có chữ lót là Miên, và tên là Tông (thuộc bộ “miên”: (宀) và tất cả các anh em của Vua Thiệu Trị cũng
đều phải có tên chữ Hán có bộ Miên như thế cả, còn các con của vua Thiệu Trị
thì tên đặt theo chữ Hán phải có bộ “nhân” (亻), con kế ngôi của vua Thiệu Trị là vua Tự Đức
(Hồng Nhậm) có bộ nhân (亻) trong tên chữ Hán, nhưng con của các vị Hoàng Tử anh
em ruột của vua Thiệu Trị thì phải đặt tên không được có bộ nhân (亻), trừ con Vua Thiệu Trị).
Lưu ý:
Có tài liệu đã nói rằng 11
bài thơ này không phải chính vua Minh Mạng sáng tác, mà là Đông các học sĩ Đinh
Hồng Phiên (người quê ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An), có tài liệu ghi là
Nguyễn Đình Phiên là tác giả của 11 bài thơ ấy. Chuyện này tôi cho rằng đây là
một sự ngộ nhận của ai đó mà thôi, chưa có tài liệu thật chính xác để khẳng
định điều đó. Vì vua Minh Mạng là một ông vua sành thơ và cũng thông thái chữ
Hán, không lẽ nào nhà vua không sáng tác được bài “Đệ hệ thi” và “Phiên hệ thi”
hay sao mà lại nhờ người khác sáng tác rồi lấy tên cho mình? Thật là vô lý!
Theo tôi nghĩ rằng 11 bài thơ ấy là do vua Minh Mạng đưa
ra nội dung, mục đích, ý tưởng và giao cho một vị quan chịu trách nhiệm soạn
thảo ra rồi trình lên nhà vua xem xét, sửa đổi cho hoàn chỉnh rồi mới chính
thức ban hành để làm Ngọc phả Hoàng tộc nhà Nguyễn.
Năm
Minh Mệnh thứ nhất, ngày 20 tháng 11 năm 1820, Nguyễn Đình Phiên đã tâu lên vua
Minh Mạng : “Bề tôi Đông các học sĩ Nguyễn Đình Phiên cứu đầu, rập đầu trăm
lạy kính tâu về việc: Nay kính vâng chủ kiếm soạn các chữ trong Ngọc Phổ.
Hãy kính đấy. Kinh cẩn xếp thành 11 bài 4 câu 20 chũ, cộng 220 chữ kính
cẩn trình bày theo thứ tự. Kính chờ Thánh thượng xét đoán” (bản dịch từ
chữ Hán, Châu bản triều Nguyễn, tở 223 đến 235).
Bài
“Đế hệ thi”, Đinh Hồng Phiên viết:
Miên hồng khai bửu tộ
Bảo định ứng trinh tường
Toản tự di nhân viễn
Gia hy tích dận trường.
Đọc
bài thảo, vua Minh Minh Mạng ban đầu sửa chữ Khai thành chữ Ưng.
Câu thứ hai vua sửa lại là Long quý định bảo trường. Câu ba, Toản
tự di nhân viễn, vua sửa lại là Hiền năng kham kế thuật. Câu bốn:
các chữ hy tích dận trường
vua sửa thành Thụy Quốc gia xương.
Rồi vua lại sửa câu bốn một lần nữa, thành Thế Thọ Quốc Gia Xương. Sau đó vua
chỉnh lại Thế Thụy. Rồi vua tham khảo ý kiến anh em mình
và các trí thức trong triều, một lần sửa nữa mới chính thức thành: Miên Hường Ưng
Bửu Vĩnh/ Bảo Quý Định Long Trường/ Hiền Năng Kham Kế Thuật /
Thế Thụy Quốc Gia Xương.
Như vậy chúng ta cũng đủ hiểu rằng bài “Đế hệ thi” không phải là hoàn toàn
do Đinh Hồng Phiên sáng tác.
Có
lẽ vì người hậu duệ của cụ Phiên là ông Đinh Văn Niêm đọc một tài liệu chữ Hán
lưu trữ tại thư viện Quốc gia Việt Nam có ghi bút tích của cụ Phiên nói rằng cụ
viết bài “Đế hệ thi” và“P hiên hệ thi” để làm kim sách cho nhà vua.
Bởi vì cụ Phiên là người văn hay chữ đẹp nên vua Minh
Mạng mới sai lo việc soạn thảo để nhà vua xem xét sửa chữa
rồi mới chính thức ban hành,
chứ không do
cụ Đinh Hồng Phiên sáng
tác hoàn toàn 11 bài thơ đó. Thế
nhưng báo Văn hóa Nghệ An cũng như một số bài viết trên báo chí đã có người vội
vàng đưa lên bài “Tìm lại tác giả bài “Đế hệ thi” và “Phiên hệ thi”.
Nội dung bài đó nói rằng bài “Đế hệ thi” và “Phiên hệ
thi” là của tác giả Đinh Hồng Phiên người Nghệ An. Một số cứ liệu nêu ra trong
bài đó là không chứng minh được là cụ Phiên là tác giả độc nhất của 11 bài thơ
đó. Chắc cụ Phiên ở thế giới âm cũng phải
chạy đến và lạy vua Minh Mạng mà tạ lỗi đã phạm Thượng vì để cho con cháu tâng
bốc mình quá đáng!...
*****
Tài liệu tham khảo:
1.Nguyễn Phước Tộc
Thế phả. Nxb Thuận Hóa , Huế 1995.
2.Niên biểu lịch sử
Việt nam. Nxb. Văn hóa Thông tin. Hà Nội 1999.
3.Kim sách và ngân sách triều Nguyễn Tg: Tôn Thất
Thọ (Đã đăng trên X&N số 342-tháng 10/2009 ký là Tôn Châu Quân)
4.“Nghiên cứu Huế” do nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Châu Phan chủ biên, tập 8, ấn hành tại Huế quý I/2012 , do NXB Thuận Hóa và Trung Tâm nghiên cứu Huế xuất bản.
4.“Nghiên cứu Huế” do nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Châu Phan chủ biên, tập 8, ấn hành tại Huế quý I/2012 , do NXB Thuận Hóa và Trung Tâm nghiên cứu Huế xuất bản.
NGUYỄN HỒNG TRÂN
Cựu GV Đại học Huế
nghongtran38@gmail.com