Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Thursday, January 27, 2022

TẾT UỐNG RƯỢU VỚI CHỦ NHÀ TRỌ - Thơ Kha Tiệm Ly


 


TẾT UỐNG RƯỢU VỚI CHỦ NHÀ TRỌ
 
Ta cô độc trên bước đường vô định,
Quán trọ nghèo nàn không một nhành mai.
Vắng ly rượu đệ huynh, vắng lời người tri kỷ,
Càng ước mơ mái ấm, một vòng tay.
 
Chủ quán biếu ta thịt mỡ, dưa hành,
Ta mời quán uống cùng nhau bầu rượu.
Có bạn, có dưa hành thịt mỡ,
Mà Tết nầy sao lạnh lẽo buồn tanh!
 
"Uống đi khách! Có chi mà tư lự,
Cuộc đời nầy, ta, khách mấy lần vui?
Ta năm tháng đón, đưa người lữ thứ,
Rồi một ngày, đời cũng tiễn ta thôi!"
 
"Uống đi quán! Tình quán ta ghi dạ,
Gặp nhau đôi ngày, nhưng cũng gọi là duyên.
Dẫu mới quen, nhưng có đâu xa lạ,
Bởi ngũ hồ, bốn biển cũng anh em!"
 
Có thịt mở, dưa hành mà thiếu câu đối đỏ *
Có rượu tưng tưng, làm sai tét bét chẳng ai cười:
Đối rằng:
"Khi vô lại, thằng hề mà lên ngôi ngự trị
Thì hảo hán anh hùng nào khác thứ đồ chơi!"
 
Kha Tiệm Ly

* Trộm ý thơ Tú Xương


READ MORE - TẾT UỐNG RƯỢU VỚI CHỦ NHÀ TRỌ - Thơ Kha Tiệm Ly

NHÂN NĂM DẦN, BIỆN HỘ CHO “NHỚ RỪNG” THƠ THẾ LỮ - Châu Thạch



Thế Lữ là một trong nhưng cây bút đi đầu của phong trào thơ mới. Tác phẩm ghi lại dấu ấn của ông là bài thơ “Nhớ Rừng”. Từ ngày bài thơ được phổ biến đến nay đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực ca tụng nó. Nhà thơ Phạm Đức Nhì trong bài viết “Hai cái bẩy nguy hiểm của Nhớ Rừng” * đã có một cái nhìn khác mà nhà văn Lê Xuân Quang nhận xét đại ý là “Cách suy nghĩ phân tích Thơ của ông Phạm Đức Nhì trong cảm thụ Thi ca có những ‘phát kiến…mới’ thiên về thực dụng…”     
Trong cái nhìn “phát kiến…mới” nầy nhà thơ Phạm Đức Nhì đã phê phán bài thơ “Nhớ Rừng” đại ý như sau:
   
1/ Con hổ trong vườn bách thú tuy vẫn khao khát tự do, vẫn mơ “giấc mộng ngàn to lớn” nhưng đã mất hết ý chí chiến đấu, đã đành bó tay cam chịu, chấp nhận thực tại phũ phàng:
 
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
    
2/ Con hổ khao khát tự do. Nhưng nếu được tự do nó sẽ trở thành một bạo chúa, áp dụng chế độ độc tài với “thần dân” của nó:
 
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể muôn của loài”
    
Trong phần kết luận bài viết, nhà thơ Phạm Đức Nhì đã nhận dình về bài thơ “Nhớ Rừng” có một câu như sau:
“Nhớ Rừng giống như cô gái nhảy xinh đẹp, thân hình sexy, hấp dẫn nhưng mắc chứng bệnh SIDA nguy hiểm.”
   
Và sau đó trong một bài viết với đề tài “Không sợ thừa! Chỉ sợ quá muộn” * để trao đổi với nhà văn Lê Xuân Quang, nhà thơ Phạm Đức Nhì nhấn mạnh hai hành động của Hổ trong vườn bách thú là “bó tay cam chịu số phận” và “mơ ước được tự do sẽ lại làm bạo chúa” là hai cái bẩy nguy hiểm làm thui chột ý chí chiến đấu và cổ vũ cho lòng ham muốn độc tài, hiếp đáp người khác của những thế hệ Việt Nam trước và hiện tại. 
  
Đọc những bài viết của nhà thơ Phạm Đức Nhì tôi xin mạo muội góp một vài ý kiến thổ thiển của mình để biện hộ cho nhớ rừng của Thế Lữ. Dẫu ý kiến của tôi có khác biệt nhưng tôi xin bày tỏ lòng cảm mến và khâm phục của tôi đến nhà thơ Phạm Đức Nhì là cây bút thơ và văn điêu luyện mà tôi luôn trân trọng.
 
- Thứ nhất: Tôi xin nói về con Hổ có khi nào “Bó tay cam chịu, chấp nhận thực tại phủ phàng” không?.
Như đã thấy, nhà thơ Phạm Đức Nhì đã bôi đậm câu thơ “Nơi ta không còn được thấy bao giờ” và dựa vào câu thơ ấy mà quả quyết là con Hổ đã mất hết ý chí chiến đấu, cam chịu thân phận tù tội của mình. Để biết nhận xét nầy đúng hay là oan cho con Hổ, trước hết ta hãy tìm hiểu con Hổ là biểu tượng của cái gì. 
  
Trong nhiều nền văn hoá trên thế giới, con Hổ là biểu tượng của đẳng cấp chiến binh, toát lên vẽ đẹp hung vĩ và sức mạnh. Trong Tam Quốc Chí, ngũ hổ tướng của nhà Thục là Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Huỳnh Trung và Mã Siêu là nhưng mãnh tướng bất khuất mà đến nay thế gian vẫn tôn thờ, trong đó Triệu Tử Long được phong là Hổ Oai Tướng Quân. Trong truyện Kiều, Từ Hải là bậc anh hùng đã được Nguyễn Du tôn vinh bằng bộ râu của con Hổ: “Râu hùm. Hàm én mày ngài/Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”
 
Vậy khi nhà thơ Thế Lữ nhốt một con Hổ vào sở thú trong bài thơ của ông thì ông sẽ nhốt con Hổ nào? Chẳng lẽ ông lại đi nhốt con Hổ bạc nhược mất sức chiến đấu hay sao? Hay là ông sẽ nhốt con Hổ biểu tượng của sự cao cả, của bậc anh hùng, của ý chí bất khuất ở trên. Bài thơ cho ta thấy ông đã nhốt con Hổ “Oai linh rừng thẳm” là con Hổ mang đầy đủ biểu tượng của một anh hùng. 
  
Kinh nghiệm cho ta thấy không có con vật hoang dã nào, dầu con chim, con sóc cũng không chịu nằm yên trong lồng huống chi là con Hổ. Chỉ trong một phút yếu lòng nhớ rừng xưa con Hổ mới than một câu tưởng như là nó đã bị thuần hoá: “Nơi ta không còn được thấy bao giờ”, nhưng thật ra thế giới bên trong của Hổ vẫn ngùn ngụt ngọn lửa bất khuất. Ngọn lửa đó thể hiện ở chổ nó nhớ rừng da diết, nó khinh thường “những cảnh sửa sang tầm thường, giả dối” và nó khinh không chịu “ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi/ với cặp báo chuồng bên vô tư lự”. Hổ đang bị thúc thủ nên nó phải than vãn, nhưng nó đang chờ thời cơ để vùng dậy.
 
- Thứ Hai: Làm sao dám quả quyết con Hổ nếu được tự do sẽ chuyên chế, độc tài, hiếp đáp thần dân mình?
 
Ở trên ta thấy rằng nhà thơ Phạm Đức Nhì đã dùng nhưng câu thơ “Trong hang tối mắt thần khi đã quắc/ Là khiến cho mọi vật đều im hơi/Ta biết ta chúa tể của muôn loài” để kết tội cho Hổ của Thế Lữ là con vật xấu xa, là bạo chúa. Thật ra ba câu thơ trên biểu hiện tác phong, uy vũ của một minh quân. Nếu vua mà không có uy vũ nầy thì làm sao trị quốc bình thiên hạ cho được. Ở đây ta để ý hai chữ “mắt thần”. Mắt thần đương nhiên không phải mắt của bạo chúa mà “mắt thần” là mắt của bậc công chính. Khi “mắt thần” đã quắc thì uy lực từ chính nghĩa làm cho mọi vật đều im hơi. Nếu là mắt của bạo chúa thì “ở đâu có đàn áp, ở đó có đấu tranh”, sẽ không có sự im hơi bao giờ.
   
Trong nền văn hoá dân gian Việt, hình tượng của con vật hung bạo, tàn ác là con Sói, còn hình tượng của Hổ mang ý nghĩa nhân đạo, quyền uy khiến Hổ sở hữu một phẩm hạnh rất cao để trở thành linh vật của tôn giáo. Vậy khi Thế Lữ đưa con Hổ vào bài thơ là đưa một linh vật có bản chất tốt nên không bao giờ có “cái tính muốn làm bạo chúa đã là máu thịt, đã là bản chất của loài hổ.” như lời kết tội Hổ trong bài viết của nhà thơ Phạm Đức Nhì. 
 
 - Thứ ba: Bài thơ “Nhớ Rừng” có phải là cái bẩy nguy hiểm như nhà thơ Phạm Đức Nhì đã nói không?
 
-  Tất cả mọi người khi đọc bài thơ “Nhớ Rừng” đều thấy buồn thương cho con Hổ trong vườn bách thú và lòng tự nhiên phấn khích muốn đạp đổ tất cả để vượt trên cuộc sống bình thường, chật hẹp, tù túng. 
 
  -- Nhà thơ Thế Lữ đưa hình ảnh con Hổ bị nhốt trong vườn bách thú không phải để chúng ta đọc xong là buồn chán rũ rượi hay đọc xong là mơ ước chuyện cướp bóc, hành hạ tha nhân. Đây là hình ảnh của thế hệ ông bị 100 năm đô hộ giặc Tây. Con người đọc lời than van da diết của con Hổ “gặm một khối căm hờ trong củi sắt” để không bao giờ chịu làm con Hổ như thế, để đứng lên phá xích xiềng, để được sống như Hổ nơi rừng núi oai linh, hùng ví ngày xưa.
 
- Mấy ai trong chúng ta khi đọc xong bài thơ nầy lại muốn mình làm thân phận của con Hổ kia. Vậy thì kết tội bài thơ như là “Cô gái nhảy, xinh đẹp mà bị bệnh SIDA” làm lây lan căn bệnh đó khiến cho nhiều thế hệ băng hoại thì thật ra oan khiên quá cho bài thơ, cho Hổ là loài có biểu tượng tốt đẹp và cho thi sĩ là người vì nỗi ray rức cho thân phận nô lệ của mình, của thế hệ mình mà phổ vào thơ, hầu đưa ra một hình ảnh ẩn dụ, để cho người đọc “cảm thụ bằng sự rung động của nhịp tim, kích thích trí tưởng tượng phong phú trong mỗi bộ não …” như lời nhà văn Lê Xuân Quang đã viết.” 
Vậy: 
“Nhớ Rừng” tuy là một bài thơ chất chưa tâm trạng tủi nhục của con Hổ trong vườn bách thú nhưng nó không phải là một bài thơ tiêu cực, mà là một bài thơ tích cực, phơi bày sự giả tạo, buồn chán của kiếp sống nô lệ tù tội, khôn khéo trong hoàn cảnh cấm đoán ngôn luận trong thời Pháp thuộc để khích động tinh thần yêu nước, khiến cho cả thế hệ nhìn Hổ mà ngẫm đến mình, đứng lên phá vòng cương toả.
 
Hình như giai đoạn sau nầy nhà thơ Thế Lữ còn làm những bài thơ đấu tranh cụ thể hơn, tích cực hơn nhưng rồi ngày nay đã mai một hết, chỉ “Nhớ Rừng” vẫn còn vang bóng. Điều đó chứng tỏ “Nhớ Rừng” là bài thơ đúng đắn nên đã sống và còn sống lâu dài. Nó sống thì nó không phải là một con bệnh SiDA được, và khi “Nhớ Rừng” sống thì chứng tỏ con Hổ của “Nhớ Rừng”, của Thế Lữ không một khuyết điểm nào nên nền văn học đã nuôi nấng nó.
                                    
Châu Thạch 
 
* Bài đăng trên chuvuongmien.blogspot.com, lexuanquang.org, v..v.




 
NHỚ RỪNG
(Tặng Nguyễn Tường Tam)
(Lời con Hổ ở vườn Bách thú) 
 
Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt, 
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua. 
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ, 
Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm 
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi. 
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi, 
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự. 
 
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ, 
Thủa tung hoành, hống hách những ngày xưa. 
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già, 
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi, 
Với khi thét khúc trường ca dữ dội 
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng, 
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng, 
Vờn bóng âm-thầm, lá gai, cỏ sắc. 
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc 
Là khiến cho mọi vật đều im hơi. 
Ta biết ta chúa tể muôn của loài 
Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi. 
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối, 
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan? 
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn 
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới? 
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội 
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng? 
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng 
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt 
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật? 
Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu? 
 
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu 
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi, 
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối: 
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng; 
Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng 
Len dưới nách những mô gò thấp kém; 
Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm 
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu 
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u. 
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ! 
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị, 
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa 
Nơi ta không còn được thấy bao giờ! 
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán 
Ta đang theo giấc mộng ngàn to lớn 
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi 
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi! 
                          
Thế Lữ
(1936) 

READ MORE - NHÂN NĂM DẦN, BIỆN HỘ CHO “NHỚ RỪNG” THƠ THẾ LỮ - Châu Thạch

CON HỔ THIẾU TƯ CÁCH -Truyện cổ Triều Tiên -Tác giả: William Elliot Griffis - Người dịch: Nguyễn Khắc Phước



CON HỔ THIẾU TƯ CÁCH

Truyện cổ Triều Tiên

Tác giả: William Elliot Griffis

Nguyên tác bằng tiếng Anh đăng trên https://fairytalez.com/region/korean/ 

 

Lão Sơn Lâm là tên do dân làng đặt cho một con hổ vằn tuyệt đẹp sống giữa vùng cao nguyên Kang Wen, một tỉnh nằm dọc theo bờ biển. Những người thợ săn hiếm khi nhìn thấy nó, và trong số những con hổ đồng loại của mình, Sơn Lâm khoe rằng, mặc dù thường bị bắn, nó chưa bao giờ bị thương; còn đối với những cái bẫy - nó biết rành và cười nhạo những thiết bị mà con người sử dụng bắt nó để lột da, thứ mà họ rất thèm muốn. Vào mùa hè, nó kiếm mồi trên những ngọn núi cao và sống bằng thịt nai béo. Vào mùa đông, khi tuyết rơi dày đặc, gió giật mạnh và cái lạnh khủng khiếp giam giữ con người trong các cánh cửa, thì nó thường đi về các bản làng. Ở đó, nó lượn quanh các chuồng gia súc với hy vọng chụp và lôi ra một con lừa non, một con bê béo hoặc một con lợn sữa. Nó thường thành công, và là nỗi khiếp sợ của người và loài vật trong vùng.

 

Một ngày mùa thu, nó lục lọi khắp những ngọn núi thấp hơn. Dù những nơi ấy rất xa bản làng, nó vẫn luôn chú ý đến bẫy và thợ săn, nhưng dường như không có gì nguy hiểm. Nó rất đói và hy vọng kiếm đươc mồi. Nhưng khi đi tới một tảng đá lớn,  đột nhiên nó nhìn thấy trên đường có một vài dấu chân, mà nó nghĩ  là của một con hổ lớn bằng nó. Lão Sơn Lâm dừng lại, hung dữ ngoe nguẩy đuôi như thách thức, thể hiện sự sẵn sàng chiến đấu bằng cách gầm gừ và trong tư thế vồ chụp đối thủ. Nó ngạc nhiên khi thấy con hổ kia cũng làm những động tác tương tự. Lão Sơn Lâm chắc chắn rằng sẽ có một cuộc đấu  khủng khiếp, nhưng đây là những gì nó  muốn, vì tất nhiên nó sẽ giành chiến thắng.

 

Nhưng sau một cú nhảy vọt trên không trung, lão Sơn Lâm hạ cánh xuống một cái hố và một đống hùm bà lằng đổ lên mình nó. Không có một con hổ nào khác, nhưng thay vào đó là một nắp gỗ nặng đóng lại trên đầu nó sau cú va chạm và nó nằm trong bóng tối. Lão Sơn Lâm cuối cùng đã bị mắc bẩy. Đúng vậy, người thợ săn đã che cái hố bằng cây và lá, và trên những cây gỗ thẳng đứng, phủ đầy dây leo và cây bụi, có treo một tấm kính soi mặt. Lão Sơn Lâm thường nhìn thấy khuôn mặt và cơ thể của mình trong suối khi nó khom mình uống nước, nhưng lần này, nó đã bị lừa  khiến nó tưởng rằng có một con hổ thật muốn chiến đấu với mình.

 

Chẳng bao lâu, một vị tu sĩ Phật giáo đi ngang qua, được biết là người thường đối xử tốt với tất cả mọi loài chúng sinh. Nghe thấy tiếng động vật rên rỉ, ngài mở bẫy và nhấc nắp lên thì thấy Lão  Sơn Lâm ở phía dưới đang liếm cái chân bầm tím của nó.

Lão Sơn Lâm nói: Làm ơn, ông ơi, hãy cứu tôi ra. Tôi bị thương nặng.

 

Để cứu con hổ, vị tu sĩ nhấc một khúc gỗ lên và trượt nó xuống, cho đến khi một đầu chạm đáy hố. Con hổ bám cây gỗ leo lên và đi ra ngoài. Để bày tỏ lòng cảm ơn, nó nói với vị tu sĩ:

 

-Tôi vô cùng biết ơn ngài, ngài đã giúp tôi thoát khó khăn. Tuy nhiên, vì tôi đang đói lắm, tôi phải ăn thịt ngài.

 

Rất ngạc nhiên và phẫn nộ, vị tu sĩ phản đối sự vô lương thấp hèn đó. Ít nhất, đó là cách cư xử quá tồi tệ và hoàn toàn trái với quy luật của núi rừng, và ngài nhờ đến một cái cây lớn để quyết định phải trái. Qua tiếng lá xào xạc, cái cây tuyên bố rằng con người được tự do và con hổ vừa là kẻ vô ơn vừa là kẻ hỗn láo.

 

Lão Sơn Lâm vẫn chưa hài lòng, nhất là khi vị tu sĩ này béo bất thường và sẽ là một bữa tối rất ngon. Tuy nhiên, nó cho phép vị tu sĩ kháng cáo một lần nữa và lần này trọng tài là một tảng đá lớn.

 

Tảng đá nói: -Vị tu sĩ chắc chắn đúng, Lão Sơn Lâm đáng kính ạ, và ngươi hoàn toàn sai. Chủ nhân của ngươi, Chúa Núi, người cưỡi trên con bò xanh và con ngựa đầu trọc để trừng phạt kẻ thù của mình, chắc chắn sẽ quở trách ngươi nếu ngươi ăn thịt vị tu sĩ này. Ngươi sẽ không phải là sứ giả phù hợp của Chúa Núi nếu ngươi vô ơn đến mức ăn thịt người đã cứu ngươi khỏi chết đói  trong bẫy. Đó là cách cư xử tồi tệ đáng kinh ngạc dù chỉ mới là ý định.

 

Lão Sơn Lâm cảm thấy xấu hổ, nhưng mắt vẫn trừng trừng vì đói, vì vậy, để chắc chắn cứu được mạng mình, vị tu sĩ đề nghị cho cóc Đốm Lưng làm quan xét xử. Con hổ đồng ý.

 

Nhưng con cóc, với đôi mắt viền vàng, trông rất khôn ngoan, và thay vì trả lời nhanh như cây và đá, nó đã cân nhắc rất lâu. Trái tim của vị tu sĩ chùng xuống, trong khi con hổ nuốt nước bọt như thể đang hình dung bữa tiệc sắp tới của nó. Nó cảm thấy chắc chắn rằng cóc Đốm Lưng sẽ quyết định có lợi cho nó.

 

-Tôi phải đi xem cái bẫy trước khi tôi có thể quyết định, Đốm Lưng nói nghiêm nghị như một quan tòa. Ngay sau đó, cả ba đều nhảy hoặc đi bộ đến cái bẫy. Con hổ, nhờ di chuyển nhanh, đã ở đó trước, đó chính là điều mà cóc muốn, vì nó là bạn của vị tu sĩ. Trong khi Sơn Lâm đang chờ, Đốm Lưng nhanh mắt tìm kiếm một vết nứt trên một tảng đá gần đó.

 

Thế là, trong khi Đốm Lưng và Sơn Lâm đang nghiên cứu vụ việc, vị tu sĩ tự cứu mình bằng cách chạy vào bên trong cổng tu viện. Cuối cùng, Đốm Lưng quyết định chống lại  Sơn Lâm và ủng hộ người bạn tu sĩ, ngay khi nó vừa kết thúc phán quyết của mình,  nó liền lao vào khe đá. Khi đã bò xa vào bên trong, cóc gọi hổ là kẻ vũ phu và con thú vô ơn, và thách hổ muốn là gì thì làm.

 

Lão Sơn Lâm nổi điên lên vì cơn thịnh nộ và cơn đói đến nỗi tài khéo léo của nó dường như biến thành sự ngu ngốc. Nó cào vào tảng đá để kéo con cóc và xé xác nó thành từng mảnh. Nhưng Đốm Lưng đã an toàn bên trong, chỉ cười. Không làm hại được cóc, hổ nổi trận lôi đình.

 

Càng nóng nảy, hổ càng mất đi sự thông minh. Chọc mũi vào vết nứt, nó cọ xát mạnh vào tảng đá thô ráp đến nỗi mũi và lưỡi nó chảy máu đến chết. Khi người thợ săn đến, anh ta ngạc nhiên trước những gì mình thấy, nhưng anh ta vui mừng vì biết mình sắp giàu có bằng cách bán bộ lông, xương và móng vuốt của hổ; vì ở Triều Tiên thời đó, không có gì quý giá bằng những thứ từ xác hổ. Về phần cóc Đốm Lưng, nó kể cho con cháu mấy đời sau câu chuyện về việc nó nhanh trí vượt trội hơn Lão Sơn Lâm thế nào.


&&&



Tiểu sử tác giả

William Elliot Griffis

 

Sinh tại Philadelphia vào năm 1843, tác giả William Elliot Griffis là một tác giả cực kỳ thành công và đã xuất bản một số cuốn truyện cổ tích vào những năm 1900. Là một mục sư tích cực ở Hoa Kỳ vào những năm 1800, ông đã làm việc tại một số nhà thờ ở Boston và New York, trước khi nghỉ hưu từ chức vụ thánh chức vào năm 1903 để viết và thuyết trình. Thư tịch phong phú của ông bao gồm các tác phẩm về văn hóa và di sản Nhật Bản, và ông đã giúp tác giả Inazo Nitobe viết cuốn Bushido nổi tiếng: Linh hồn của Nhật Bản.

Với tư cách là tác giả và giáo sư, nhiều chuyến đi của ông đến châu Âu, và đặc biệt là Hà Lan, đã giúp hình thành sự đánh giá cao của ông về các nền văn hóa châu Âu. Trong nhiều năm, ông tiếp tục xuất bản các bộ sưu tập văn học dân gian từ khắp nơi trên thế giới, với các tựa đề như Thế giới cổ tích Nhật Bản: Ba mươi lăm câu chuyện từ nền văn hóa thần tiên của Nhật Bản, Những người tình của đom đóm và những câu chuyện cổ tích khác của Nhật Bản cổ, Truyện cổ tích Bỉ , Truyện cổ Thụy Sĩ, Truyện cổ xứ Wales, Truyện cổ tích Hàn Quốc và Truyện cổ tích Nhật Bản. Mặc dù không được biết đến nhiều như Hans Christian Anderson, nhưng Griffis thực sự đã đóng góp rất nhiều cho thế giới văn hóa dân gian. Ông mất ở Florida năm 1928.

 


READ MORE - CON HỔ THIẾU TƯ CÁCH -Truyện cổ Triều Tiên -Tác giả: William Elliot Griffis - Người dịch: Nguyễn Khắc Phước