|
Tác giả Mang Viên Long |
PHỐ NHỎ, NHỮNG NGÀY MƯA…
Truyện Ngắn
Mang Viên Long
Ông Nhương nói với ông già vừa đến
thuê thay giúp một mặt kính lão bị bể, “Mùa mưa, chỉ ăn thôi chứ không có làm!
Từ sáng đến giờ-gần hết buổi sáng, mà chỉ thay được một cái gọng kính, vỏn vẹn
có tám ngàn đồng bạc!”.
Ông già cười, “Ông còn có “tiền
tươi” tám ngàn, chứ tôi có đồng xu nào đâu?"
- Bác có lương hưu lãnh hằng
tháng, ăn rồi chơi, khỏi lo, chứ tôi có hưu nai gì?
- Thôi ông ơi! Đừng nói tới chuyện
hưu nai nữa! Ông lão nhăn mặt. Ra đi mấy chục năm, bị nghỉ mất sức, mỗi tháng
phát cho mấy trăm ngàn, đủ húp cháo …
Ông Nhương dừng tay mài kính,
ngẩng lên nhìn ông già, cười : “Ông còn có cháo mà húp, chứ nhiều người không
có cháo thì sao? Chẳng hạng như tôi đây nè…”
Ông già im lặng.
Ông Nhương tiếp tục mài kính.
Trời vẫn mưa rào rào ngoài đường.
Con đường vào chợ vắng hoe. Gió thốc vào mái hiên nơi ông Nhương kê chiếc tủ “Sửa
Kính Đeo Mắt” từng cơn, lạnh.
Buổi sáng không có giờ. Bầu trời
xám ngắt.
Ông già bỗng thở dài:
- Mấy quán nhậu, quán cà phê, giải
khát, quán ăn, quán ca-ra-ô-kê… mọc lên khắp hang cùng ngõ hẻm ngày càng nhiều,
không biết thiên hạ tiền đâu mà ngày đêm các quán đều đông nghẹt cả?
Ông Nhương so kính vào gọng, lại
tháo ra, tiếp tục mài.
- Mà phải nhậu ít sao? Ông già nói
tiếp, nhậu từ sáng đến chiều tối còn rào rào như tằm ăn lên… bụng dạ đâu mà ăn
dữ vậy không biết?
- Ông bà mình đã nói rồi, bác
không nhớ sao? Ông Nhương vẫn cắm cúi mài kính. “Dĩ thực như tiên” mà? Ăn rồi
mới làm chứ? Ông Nhương cười khà khà. Không có ăn, ai dại gì mà làm chứ, bác?
- Nhưng làm gì mà nhiều tiền
vậy? Ông già cải lại. Nhậu đến mữa ra, còn nhậu tiếp… mà toàn là đám thanh niên
choai choai thôi. Cỡ bốn năm mươi cũng không thiếu gì ! Ông nào ông nấy cái
bụng to phình mà vẫn còn nhậu tiếp?
- Tiền “chùa" mà, Bác!
- Mình kiếm đồng bạc chảy máu con
mắt, nhưng sao thiên hạ làm gì mà giàu có ăn nhậu la cà hết quán này đến tiệm
nọ mà nhà cửa xe cộ đất đai ngày càng mọc thêm ra nhiều vậy?
- Bác tìm họ mà hỏi đi! Ông
Nhương trao kính cho ông lão. Bác hỏi tôi, làm sao tôi biết?
Ông Nhương nhận tờ giấy bạc mười
ngàn đồng từ trong túi nylong quấn chặt hai lớp của ông già, đưa lên ngắm
nghía, cười : “Vậy là đủ dĩa cơm trưa rồi!” Nhìn lên gương mặt khắc khổ của
ông già Ông nói, "Bác về nhà nằm nghỉ cho khỏe đi, hơi đâu mà thắc mắc cho
thêm mệt tuổi già,bác? Đời này càng nghỉ, càng thêm mệt! Quên đi là tốt nhất!”.
Ông già trùm chiếc áo mưa cánh
dơi, lòng còn hập hực, bước ra hiên, đi dưới cơn mưa đang ào ạt. Ngày không có
mặt trời. Bầu trời một màu mưa trắng bạc.Và gió từng cơn thổi giật làm rung
chuyễn mái hiên tôn,vật vã hai hàng cây bên đường phía ngôi chợ. Nhìn trời, ông
Nhương biết sẽ chẳng có ma nào chịu rời nhà mà đi sửa kính như ông già gân này
nữa. Ông kéo tấm ny lông dày che kín chiếc tủ gương, và đồ nghề-khoát tấm ny lylong
vuông lên đầu-chạy qua bên kia đường để vào chợ tìm dĩa cơm muộn.
Bước vào quán thì chỉ gặp một mình
lão Nhện đang ngôi cắm cúi bên dĩa cơm 5 ngàn như thường lệ. Ông ngồi xuống
chiếc bàn thấp bên cạnh: ” Chà! Hôm nay ông ăn sớm nhé?".
- Đói bụng rồi! Lão Nhện ngước lên
đáp, sớm gì nữa cha nội?
- Sao đói bụng sớm vậy cha?
- Hừ, buổi sáng đâu có gì ăn? Lão
Nhện vẫn cúi mặt lên dĩa cơm đã gần hết.
- Bữa nay kiếm được mấy đồng?
- Đủ dĩa cơm!
- Không còn dư đồng nào sao?
- Không!
Ông Nhương vẫn thường gặp lão Nhện
trong cái quán cơm bình dân cuối dãy chợ này nên đã là chỗ thân tình của lão.
Nhiều bữa cơm chỉ còn lại hai người, có lão Nhện cùng ăn, vừa chuyện trò tào
lao với lão, vừa đùa chọc, dĩa cơm mới mau hết. Nhiều hôm không gặp lão Nhện,
ông Nhương cảm thấy khó nuốt trôi dĩa cơm tứ thời mấy món kho mặn lênh láng dầu
mỡ (mà chẳng biết là loại dầu gì?)! Có bữa kiếm được kha khá, ông kêu cho lão
Nhện thêm một dĩa 5 ngàn nữa để lão cùng ngồi ăn cho có bạn, cho vui, nhưng lão
ta chỉ ăn một hơi là sạch trơn. Tuy tuổi chỉ tròn trèm 60, mà người gầy ốm ,
đen điu, nên trông như một ông lão. Lão Nhện đẩy chiếc ba gác ọch ạch để di
chuyển hàng từ ngoài đường vào chợ cho các con buôn hàng trái cây, rau, các thứ
lỉnh kỉnh vặt vãnh cồng kềnh cần mang vào chợ để kiếm sống hằng ngày. Chiếc xe
qua năm tháng dài không còn dây sên, không còn bàn đạp, ba chiếc bánh chỉ quấn
toàn dây cao su, nên không thể đạp đi dược nữa. Lão chỉ dùng sức để đẩy hay kéo
xe đi thôi. Tối đến ,tìm một góc phố hay sạp hàng nào rộng rãi ngã lưng làm một
giấc thẳng cẳng-thế là hết một ngày. Không ai có thời gian mà tìm hiểu xem lão
từ đâu đến, quê quán, vợ con, gia đình thế nào cả! Và cái tên “lão Nhện” của
lão cũng do mấy bà “nhìn người, đặt tên” cho lão mà thôi. Ông Nhương thầm khen
người nào đầu tiên đã đặt cho lão cái tên “Nhện” rất hợp với thân người ốm nhỏ
mà tay chân khều khào dài thoòng như chân nhện. Gặp mối , lão chỉ chất hàng lên
và kéo đi. Luồn lách trong các lối nhỏ chật chội của khu chợ để giúp chuyễn
hàng, kiếm từng đồng bạc lẻ. Trên dường di, hễ gặp bao giấy, những tấm ny lông
rách, vật dụng bằng nhôm nhựa bị vất bỏ-ông đều dừng lại thu lượm bỏ vào một
bao lớn, cột kỹ, vài ngày đem bán lại cho các điểm mua đồ phế thải rác giấy,
nhôm nhựa kiếm thêm. Có lần lão khoe với ông Nhương, vừa cân xong bao đồ, kiếm được ba chục ngàn đồng. Lão cười hì hì : “Có ba ngày ăn cơm rồi, lo cái quái
gì nữa?" Lão Nhện thường chỉa sẻ niềm vui hiếm hoi nhỏ nhặt như vậy cho ông
Nhương hằng ngày như những đồng bạc kiếm thêm được từ chiếc bao tải chứa đồ phế
thải…
Quán vắng. Chợ thưa. Mưa dầm dề.
Ông Nhương nhìn lên mặt chiếc đồng hồ Telda cũ kỹ đeo tay: đã gần 1 giờ chiều
rồi! Buổi chiều lại sắp đi qua. Trời tối sầm. Mưa đổ rào rào bên ngoài không
dứt. Và gió, gió giật từng cơn như có hướng bão xa ở quanh đây . Ông Nhương
đứng dậy- cảm thấy gây gây lạnh, gượng cười với lão Nhện: “Trời mưa gió kiểu
này, tìm một xó nào khoanh cho rồi chứ làm lụng gì nữa, ông Nhện? “
- Ờ, ờ… Chắc phải ngủ quá, lão cười
hì hì, ngủ đói!
Vừa che tấm nylong lên tủ kính thì
đã có khách sửa kính ghé xe lại sát hiên nhà-
ông Nhương vui vẻ : “Cháu sửa hay
mua kính?"
Cô gái cởi tấm áo mưa cầm
tay-giọng gấp gáp: “Chú sửa giùm cháu lấy ngay được không ạ?”
- Được, ông cười, nhưng cho chú xem
kính sửa gì đã chứ?
Cô gái sực nhớ, gỡ mắt kính đang
đeo, đưa về phía ông Nhương:
- Cháu vô ý vừa làm vỡ mất một mặt
kính sáng nay…
Ông Nhương cầm gương lên xem: “
Chà! mắt cháu bị cận 3 độ sao?”
- Dạ không, 2 độ 75 ạ!
- Mắt kính dày, phải mài hơi
lâu-ông lắc đầu-nhanh cũng mất nửa tiếng cháu à!
- Vậy làm sao cháu kịp vào lớp
dạy. chú?-cô gái hốt hoảng.
- Phải làm chứ ăn đâu mà nhanh
cháu?-Ông cười- phải mài dũa mắt kính cho vừa sít với gọng để không dễ bị
rớt, lâu đấy! Ông nhìn đứng lên gương mặt cô gái còn đọng vài hạt nước mưa chưa
kịp lau, bỗng nhận ra trên khuôn mặt bầu bỉnh hồn nhiên ấy có nhiều nét rất đỗi
giống Ngân xưa. À, mà mấy giờ cháu bắt đầu dạy?
- 6 giờ 45!
- Cháu để kính lại chú làm, trưa
chiều về ghé lấy…
- Đi dạy không kính sao, chú? Giọng cô gái phân vân. Cháu ngồi làm bù nhìn cho học trò chúng giỡn sao?
- Ra bài tập gì đó cho chúng làm
đi! Ông lại cười, chờ đợi.
- Không được, chú à! Cô gái băn
khoăn. Hôm nay là 4 tiết dạy nâng cao cho học sinh giỏi lớp 12, đâu ngồi chơi
được? Vẻ lo lắng, khổ sở hiện lên sắc sảo trong đôi mắt đen láy, hễ rảnh một
phút, là chúng ồn ào quậy phá ngay rồi! Cô gái thở dài, học sinh bây giờ mà
chú?
- Vậy là không ổn rồi, ông giơ tay
lên xem lại giờ, bây giờ đã 6 giò 22 phút rồi!
Nói xong, ông cảm thấy hơi tiếc vì
mới sáng sớm mở hàng đã bỏ lỡ mất một người khách-mà có lẽ, sẽ là người khách
duy nhất cho buổi sáng tầm tã mưa như thế này. Ông chợt nhớ: “ Hay là thế
này…chú có mắt kính nữ 3 độ, cháu cầm đeo đi dạy đỡ nhé? Để kính cũ lại chú
làm, trưa về, ghé lấy, được không?”.
Cô gái reo lên: “Được chú giúp
cho vậy thì tốt quá! Cô ngập ngừng, cháu gởi tiền thế cho kính của chú nhé?
” Cô gái lúi húi mở cặp, lấy ra chiếc bóp giấy nhỏ nàu xanh.
Ông Nhương thản nhiên mở tủ lấy
chiếc kính mới trao cho cô gái cười dễ dãi: “Có bao nhiêu đâu mà cháu phải “ hế chân, thế cẳng” vậy ? Giọng ông trở nên nghiêm nghị. Cháu làm vậy không sợ
chú buồn sao? Chú tin cháu mà!”
- Cháu xin lỗi!
Đeo thử kính vào mắt, cô gái tươi
vui như vừa được cho quà:
- Cháu cám ơn chú! Trưa cháu ghé lại. Chú tốt quá!.
- Chú không tốt đâu. Ông nhìn đăm
đăm vào nét mặt nhân hậu hồn nhiên của cô gái, cười hà hà. Sống mà không còn tin
được vào ai, thì khổ hơn nhiều, cháu à!.
- Chú nói hay lắm! Cô gái đạp xe,
nổ máy.
- Những người có gương mặt như
cháu, không thể phản bội ai được, ông Nhương nói vói theo.
- Sao vậy? Cô gái ngạc nhiên quay
lại với nụ cười, sao chú biết?
Sau câu hỏi không đợi trả lời, cô
gái cho xe chạy nhanh về hướng ngoại ô như cố che dấu một niềm vui đang chớm nở
trong lòng, bóng xe nhòe ngay trong màn mưa dày đục. Gió quất từng cơn rào rào
cùng với tiếng mưa nặng hạt như vãi nước.Từng đợt màn mưa bay xiêng theo cơn
gió –có lúc thổi hắt hẳn vào mái hiên nơi tủ kính của ông Nhương-ông khẽ rùng
mình- chép miệng: “ Mưa…mưa lèm nhèm tối ngày!”.
Đường phố vẫn im vắng trong nỗi
lạnh lẽo bao trùm. Bóng người thấp thoáng. Co ro-vội vã. Ông Nhương đã bao ngày
ngồi nhìn cái góc phố quạnh vắng trong mưa, như nhìn soi vào chính cuộc đời tẻ
lạnh của mình ,nhưng lần này-sáng nay- bỗng thấy những bóng người di chuyễn co
rúm trước mắt kia sao mà nhỏ bé, tội nghiệp đến vậy? Đời người sao mà cô độc và
lạnh lẽo đến vậy?
Từ xa, ông Nhương đã nhận ra mầu
áo mưa của cô gái đang chạy băng qua đường-hướng về phía hiên nhà ông ngồi. Ông
điềm nhiên ngồi nhìn từng cử động của cô gái-dừng xe, bước vào hiên, vội vàng
cởi tấm áo mưa móc lên chiếc cột hiên nhà-nụ cười ánh lên cả đôi mắt ướt: “
Chào chú! Chú chưa nghỉ sao? “.
- Ngồi đợi cháu mà! Ông cười.
- Cháu làm phiền chú nhiều quá!-cô
gái ngồi xuống chiếc ghế để sẵn bên cạnh .
- Chú rất mong có người làm phiền
như vậy mà dễ gì được?
- Vậy chú không có ai “ làm phiền”
cả sao?-Cô gái nhìn đứng lên mặt ông Nhương, vẻ trìu mến-lúc còn trẻ chắc chú
có nhiều người thương lắm phải không?
- Sao cháu hỏi vậy? – ông nhếch
cười- không có ai làm phiền chú cả! Ông buông thõng- từ hơn chục năm nay rồi,
cháu à!
- Chú sống một mình trong căn nhà
này phài không?
- Không phải nhà của chú-ông
dáp,giọng thản nhiên-chú mượn tạm hiên nhà của người bạn học cũ …
Ông Nhương vói tay lấy chiếc kính
đã lắp mặt kính mới đặt vào lòng bàn tay cô gái-“ Cháu đeo vào xem thử đi? ”.
Cô gái gỡ chiếc kính mới ra, đeo
kính cũ đã sửa vào: “ Cháu trông rõ lắm chú à!”.
- Vậy là tốt rồi! Ông nhìn cô gái
như nhìn vào một con mèo con.
- Chú cho cháu gởi tiền…
Ông Nhương không trả lời –hỏi: “
Cháu biết tại sao lúc sáng chú nói người có gương mặt như cháu là không bao giờ
phản bội ai không? “
- Dạ không!- Đôi mắt cô gái chợt
ánh lên- cười e thẹn-Cháu cũng định hỏi lại chú mà!
- Không có gì lạ đâu!-Ông Nhương
liếc nhìn cô gái giây lâu- Thuở trước,chú cũng có một cô bạn gái-nói rõ hơn, là
người chú yêu-có một khuôn mặt giống cháu như đúc! Cô ấy hiền và xinh xắn lắm!
- Rồi cô ấy đâu, chú?
- Đang ở xa chú - ở đâu chú cũng
không biết rõ-từ dạo ấy đến nay, sau ngày 15 tháng 4 năm 75 , trên 30 năm chú
không được gặp lại- nghe tin cô ấy đã rời Saigon về quê , nhưng quê thì biền
biệt …
- Vẫn chờ chú? Cô gái cười dò xét.
- Không phải chờ, mà lặng thầm
thương nhớ-ông nhìn vào màn mưa trắng xóa ngoài hiên, giọng trầm trầm-mỗi người
một phương trời xa lắc, bị cột chặt với bao diều khó khăn phiền nhiễu, cháu à!
- Chú nói hơi khó hiểu…
- Ngay chú cũng cảm thấy khó hiểu
mà?
- Sao lạ vậy?
- Cuộc đời có nhiều điều rất lạ mà
cháu !-Ông cười mơ hồ, như chú đươc gặp cháu sáng nay-chú tưởng như được gặp
lại cô ấy cách đây 30 năm vậy!
Cô gái nửa muốn hỏi gì thêm. nửa
ngại ngùng-cô lấy chiếc kính ra lau như một thói quen :” Thưa chú, Chú cho cháu
gởi tiền..”.
- Thay mặt kính cận 2 độ 75-loại
tốt, giá 25 ngàn đồng…
Cô gái kéo chiếc cặp để lên đùi,
lúi cúi mò tìm chiếc bóp giấy mầu xanh để lẫn trong mấy xấp bài, sách vở-lấy ra
ba chục ngàn đồng-đưa hai tay về phía ông Nhương: “ Chú cho cháu gởi-sao chú
tính rẻ quá vậy?”
Ông Nhương chỉ liếc nhìn, không
cầm tiền vội mà đến mở ngăn hộc tủ kính tìm tờ giấy bạc năm ngàn .Ông loay
hoay. Cô gái đã mặc xong áo mưa, đặt tiền lên mặt bàn thầp-bước ra hiên: “ Cháu
gởi chú ba chục ngàn mà? “
- Còn dư năm ngàn đây, cháu-vừa
nói, ông vừa vội bước xuống bực thềm.
- Cháu gởi chú mà-cô gái cười ,
khuôn mặt lóng lánh nước mưa-cháu mời chú một ly café không được sao!
Chiếc xe đã vào số, chạy lươt tới,
mưa-mưa…
Suốt đêm mưa gió xào xạc hung bạo
tưởng như ngoài trời cây cối đường sá sẽ bị rách nát hết dưới những cơn mưa dữ
tháng 10. Sáng ra- phố xá vắng tênh, đường trống trơn như rộng thêm ra - mưa
nhẹ hạt hơn, nhưng vẫn mưa lèm nhèm không dứt. Chiếc loa treo ở trên cột điện
góc phố lập đi lập lại thông báo về cơn bão số 9 sắp vào bờ. Gió thổi bạt tiếng
loa phóng thanh mỗi lúc một mạnh, nghe tiếng được tiếng mất-dường như cơn bão
đang bò tới gần ? Đã qua 8 cơn bão tê tái rồi-không biết còn bao nhiêu cơn
thịnh nộ của đất trời sẽ trút xuống dãi đất nghèo khó này nữa? Ông Nhương khoát
vội tấm áo mưa, dắt chiếc xe đạp xuống hiên, rướn người đạp ngược gió xuống nhà
bưu điện. Chiều hôm qua nhận được giấy báo đến nhận gói gởi bảo đảm thì ngó
trời đã sập tối, lại mù mịt nước mưa- dù rất nóng lòng muốn biết người gởi là
ai, gởi cái gì -ông cũng không dám dầm mình trong mưa, vuợt gió mà đi được. Sống
một bóng một mình lỡ ngã bệnh phải nằm mẹp xuống thì đâu có bàn tay, tiếng nói
nào để ông an ủi, nương cậy? Từ ngày xa Ngân-rồi người vợ buồn tình ẵm con bỏ
đi-ông kiếm sống bên chiếc tủ sửa kính ngày hai dĩa cơm quán chợ đã bao năm
rồi-vẫn không hề đau ốm gì nặng. Cứ lai rai đau, uống vài viên thuốc là xong.
Người ta nói ông được Trời Phật nuôi-nhưng ông nghĩ, chính ông phải nuôi ông
trước. Người bạn vong niên ở dãy phố bên kia đường hằng ngày thuờng mò qua thăm
ông- trò chuyện đủ thứ trên đời cho hết giờ nhàn rỗi không biết làm gì khi đã
đong đưa ở tuổi 80 cũng vừa ra đi mấy tháng nay rồi. Xa ông-ông Nhương nhớ mãi
lời ông thường lập lai để an ủi ông bằng một câu kệ “ Chư pháp tùng duyên
sinh-Diệc phục tùng duyên diệt”-vậy là ông ta cũng đã “ tùng duyên diệt” rồi-có
gì đâu mà buồn?. Có đôi ba người quen trong khu phố bỗng thấy vắng đi ít
lâu-sau hỏi thăm, mới biết họ đã rời xa khu phố vĩnh viễn rồi! Giống như một
chuyện đùa chơi vậy.
Đã ba hôm rồi-ông thường bị những
cơn sốt, và sau đó là cái lạnh run rẫy ập đến. Ghé hiệu thuốc tây khai bệnh,
mua vài liều thuốc về uống-nhưng chỉ thuyên giảm chút ít thôi. Ông chủ hiệu
thuốc nói chú bị bệnh sốt siêu vi rồi-phải chích thêm Laroscorbine vietmin C 1
gam mới mau bớt được. Hỏi hộp thuốc bao nhiêu-ông ta cười : “ Tính cả kim
chích, chỉ một trăm ngàn chữ mấy? ”. Một trăm ngàn mà còn chớ mấy? Ông Nhương
nhớ lại lời người thiếu phụ đến sửa gương tháng trước:“ Nếu trong nhà tôi lúc
ấy có được một trăm ngàn thì thằng con trai bốn tuổi của tôi đã không chết tức
tưởi sớm sủa như vậy rồ!”. Ông Nhương cũng liều mạng, chỉ lấy mấy liều thuốc
viên thôi-một trăm ngàn đến 10 dĩa cơm, ăn được 5 ngày mưa bão ế ẩm kia mà! Nếu
“ tùng duyên diệt ” mà “ duyên” đã đến thì dầu có nằm trên đống vàng, đống
thuốc như lão Xuân, bà Tuyết cũng đành bó tay mà thôi!
Ông Nhương để xe ngã vào vách, vội
mang gói bảo đảm ra săm soi như tìm kiếm ở đó dấu vết nào thân thuộc, nhưng
tuyệt nhiên không-chí có tên người gởi rất xa lạ : Tạ Nguyễn Minh Trang. Minh
Trang nào? Đâu có Minh Trang nào trong đầu ông từ thuở xưa đến nay?. Nơi gởi
ghi quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Vậy ra là ai?
Ông phải dùng dao xếp rọc hai lớp
bao giấy chắc chắn, kéo ra được một tập giấy dày có lớp bìa cứng, được kẹp kỹ
bằng chiếc kẹp xếp đã hoen rỉ. Lật vào trong -ông bàng hoàng ngã người lên
thành ghế, rồi nhắm nghiền mắt lại. Ông không hề tưởng tượng ra nổi lại có thể
có ngày như hôm nay . Ông không dám nhìn lại những dòng chữ thương yêu mà chính
tay ông đã viết bằng nhiều nét mưc đã lu mờ cách nay hơn 30 năm cho Ngân nữa…
Gần mươi phút ngồi yên với gói thư
còn cầm trên tay-ông Nhương chợt cúi xuống như một cái máy-đưa tay kéo thêm 2
tập còn lại. Tất cả 3 tập thư, mỗi tập dày trên 300 trang-đều được bao bìa
cứng, kẹp kỹ bằng chiếc kẹp xếp cùng loại . Ông điềm tĩnh giở ra từng tờ thư,
những cánh thư cũ đã được Ngân sắp theo thứ tự theo ngày tháng nhận được, từ lá
thư đầu tiên ghi ngày 12 tháng 10 năm 1972 được ông viết tại Tuy Hòa trước ngày
rời xa cái thị xã yên vắng thân thương ấy để bước vào quãng đời lận đận ( cho
mãi đến ngày hôm nay.).
Nhìn lại từng dòng chữ nhỏ li ti
trên đủ loại giấy, ghi dấu đủ mọi miền mà gót chân ông đã từng đặt đến, kể cả
những miền núi rừng “ không có tên gọi”. Thuở ấy, ông cứ viết rồi cho vào bao
thư, dán kín-nhét vào ba lô-chờ đến ngày có ngưởi xuống phố mới nhờ gởi đi cho
Ngân một lần. Có tháng, nằm lơ lửng trên đồi trong chiếc lô cốt lạnh lẽo,
Nhương viết mỗi ngày hai ba lá thư vì không biết phải làm gì cho hết ngày
tháng. Tất cả đã được Ngân dồn vào trong 3 tập thư này như dồn nén vào lòng
mình những nhớ thương khắc khỏai bao năm chăng? Lúc này, nỗi nhớ Ngân ngùi ngùi
dâng lên trong lòng ông, mỗi lúc một mạnh- có lúc làm ông cảm thấy khó thở,
phải ngã người ra thành ghế mà nhắm mắt giây lâu. Ngân đã giữ nguyên 3 tập thư
này trong suốt hơn 30 năm qua sao? Nàng đã đọc nó đến bao nhiêu lần trong quảng
thời gian đằng đẳng mờ mịt từ ngày xa cách ông tại ngã ba thành trưa hôm ấy?
Một tờ thư nhỏ được gấp làm bốn
nằm giữa tập thư thứ 3 rơi xuống chân ông. Ông vội cúi xuống nhặt lên, hy vọng
là lá thư tâm tình cuối cùng của Ngân dành cho ông-nhưng không. Thư của Tạ
Nguyễn Minh Trang;
“ Thưa chú,
Cháu xin được tự giới thiệu để chú
khỏi ngỡ ngàng: Cháu là người cháu gái gọi Cô Ngân bằng Cô ruột. Ba cháu là anh
thứ tư-còn cô Ngân là em út. Cháu may mắn được có mặt, được gần cô trong giây
phút cuối cùng của cô trên cuộc đời này. Cháu được cô tin tuởng yêu thương nhắn
gởi lời cuối cùng trước giờ mất tại bệnh viên ung bứu thành phố vào lúc 21 giờ
45 ngày 12 tháng 9 vừa qua.
Làm theo lời trăn trối của Cô-cháu
đã mở chiếc tủ riêng của cô-tìm thấy 3 tập thư-và làm theo y lời cô dặn dò “ Cô
nhờ cháu tìm cho ra địa chỉ của Ông Nhương-Trần Thanh Nhương, trước ở (…) sau
(…)-mà gởi giúp bảo đảm cho ông ấy 3 tập thư của Cô đã gói sẵn trong ngăn tủ,
cháu nhé? “. Sau hơn mấy tuần dò tìm theo những địa danh cô nói-tất cả đều trả
lời “ biết tên ông ấy, nhưng hiện giờ không rõ ông đang ở đâu?” . Cháu định nhờ
đăng báo “ Tìm Người Thân”; có người khuyên cháu nên nhờ đài phát thanh truyền
hình để nhắn tin tìm kiếm...
Cháu chưa quyết định nên làm theo
cách nào, thì rất may-người bạn thân của cháu đang làm ở việc ở tòa soạn báo
Ngày Mới-phone cho cháu là đã tìm thấy địa chỉ và cả hình ảnh của chú nữa. Cô
ấy bảo “mình nhờ Google đấy! thật tuyệt diệu-cậu à!”. Qua sự hướng dẫn của cô
bạn, cháu đã tìm thấy hình ảnh của chú (giống những bức ảnh còn lưu trong
album của cô cháu) nên cháu rất tin tưởng gởi những gì cô cháu đã dặn lúc ra
đi: “Những gì của anh, em xin gởi lại cho anh”. Cháu mong chú hãy vui lòng
nhận lại “món quà một đời người” mà cô cháu rất trân quý đã gìn giữ bao năm
trong nỗi cô độc và khổ đau…”
Ngoài trời, cơn bão số 9 hình như
đang đến…
Tháng 11 năm 2008
MANG VIÊN LONG