Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Tuesday, November 12, 2013

CHUYỆN ĐỜI THẦY TÔI - Hoàng Đằng

Bài viết nhân ngày Nhà Giáo Việt Nam 20/11

Thầy Dương Đình Trọng cùng một số học trò trường Bán Công Đông Hà cũ
 
(Thầy Trọng là người thứ hai hàng trước tính từ trái qua phải)



Lạy Trời, lạy Đất, xin Trời Đất cho thầy sớm nhắm mắt. Nhìn thầy chưa tắt thở thêm phút nào, tôi đau khổ thêm phút ấy.

Thú thật, tôi tàn nhẫn cầu nguyện như thế khi ngồi bên thầy tôi đang hấp hối.

Tại trường trung học bán công Đông Hà, qua năm học 1959 – 1960, khóa tôi – khóa đầu tiên – lên đệ tứ (lớp 9), thiếu giáo sư dạy môn toán. Thầy Dương Đình Trọng, người Thừa Thiên, được mời ra. Thầy trẻ lắm, tuổi tác chỉ ngang mấy học sinh lớn. Nhưng chúng tôi rất kính phục thầy vì thầy thông minh, chịu khó, biết phương pháp giảng bài dễ hiểu, chúng tôi học mỗi ngày mỗi tiến bộ. Xin mở ngoặc - nói trạng một chút - để trưng bằng cớ: sau khi đỗ kỳ thi trung học đệ nhất cấp, chúng tôi lên bậc học đệ nhị cấp, đa số chọn ban chuyên toán – ban B.

Thầy mến học trò Đông Hà, mến đất Đông Hà rồi yêu người Đông Hà. Vài năm sau đó, thầy lập gia đình với cô Phù thị Lan, ái nữ của một phố thuốc bắc trong chợ Đông Hà gần bờ sông Hiếu. Cô Phù thị Lan là hoa khôi “phố bụi gió lào”, nét mặt, dáng người, bước đi như người trong tranh thủy mặc. Thầy muốn chọn Đông Hà làm quê hương thứ hai.

Rồi chiến tranh mỗi ngày mỗi khốc liệt, không cho phép ai được an cư lạc nghiệp. Cuộc sống đẩy đưa thầy từ công việc này đến công việc khác, từ nhiệm sở này đến nhiệm sở khác. Thầy chuyển ra trường trung học Gio Linh, rồi động viên vào quân đội. Nhờ vốn toán học, thầy được chọn vào ngành pháo binh. Thầy sắp được đi tu nghiệp pháo binh ở nước ngoài thì, vì nhu cầu giáo dục, chính phủ miền Nam đưa ra chương trình biệt phái giáo chức về nhiệm sở cũ, thầy xin miễn đi du học để trở về nghề đi dạy.

Năm 1967, vùng Gio Linh bị bạch hóa để lập hàng rào điện tử Mac Namara, trường Gio Linh giải tán, thầy và trò trường này sáp nhập vào trường trung học Nguyễn Hoàng ở tỉnh lỵ Quảng Trị. Rời quân ngũ, thầy về trường Nguyễn Hoàng. Ở đây, với sự tận tụy trong nghề nghiệp, kiến thức chuyên môn vững vàng và sự trong sáng trong giao tiếp, thầy được đồng nghiệp nể vì, học trò yêu kính.

Năm 1973, sở học chánh tỉnh Quảng Trị thành lập, nhờ uy tín, thầy được cử giữ chức chủ sự phòng học vụ.

Qua đầu năm 1974, thầy từ chức, cùng gia đình vào Bình Tuy theo chương trình khẩn hoang lập ấp. Thầy lập cư ở khu Láng Gòn (nay là xã Tân Hà). Sở học chánh Bình Tuy lại cử thầy giữ chức chủ sự phòng học vụ ở sở này. Ngoài công việc văn phòng, thầy tranh thủ thời gian, nhận lời mời, đến dạy, để kiếm thêm thu nhập ở các trường trung học tư thục Thanh Linh (đặt ở khu khẩn hoang lập ấp Động Đền dành cho dân Cam Lộ và Gio Linh cũ), tư thục Đắc Lộ (đặt ở khu khẩn hoang lập ấp Láng Gòn dành cho dân Đông Hà cũ và các “quận” khác), công lập Nguyễn Phúc Chu (mới mở ở khu Láng Gòn dành cho học sinh có trúng thi tuyển ở khu Láng Gòn và khu Bình Ngãi – khu khẩn hoang lập ấp của dân Bình Định và Quảng Ngãi).

Đất nước thống nhất. Có lẽ do cái chức chủ sự phòng học vụ cộng thêm cái nghiệp lính động viên trong thời chiến, thầy phải đi “học tập cải tạo tập trung”. Thầy bị bắt cùng ngày với tôi. Trưa ngày 05/7/1975, tôi mới bị áp giải tới ngồi ở “Ủy Ban Quân Quản” khu khẩn hoang lập ấp Láng Gòn (đặt ở cơ sở tạm trường trung học Nguyễn Phúc Chu) được khoảng 15 phút thì thấy Thầy đến, tay xách túi đựng quần áo, vẻ mặt ngơ ngác, sợ sệt, lo âu.

Trong thời gian “học tập cải tạo”, thầy ở cùng trại với tôi, và nhiều lúc còn cùng buồng nữa. Đầu tiên, chúng tôi ở trại tạm giam cũ do chính quyền Sài Gòn dựng lên ở thị trấn La Gi để giam tội phạm của chế độ; sau một tháng, chúng tôi được chuyển lên trại cải tạo ở vùng huyện Tánh Linh, một vùng rừng núi bạt ngàn, dân cư thưa thớt. Trại này nguyên là một trường tiểu học. Không biết lúc đó học trò đi đâu mà người ta cải biến trường thành trại cải tạo. Vùng Tánh Linh nguyên là rừng và rừng; trong những năm cuối thập kỷ 1950 và đầu thập kỷ 1960, chính quyền Ngô Đình Diệm lập khu dinh điền để giãn dân từ các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi; sau đó, do chiến tranh ác liệt, một số đông dân đã bỏ đi để lại nhiều mảnh vườn và nền nhà hoang hóa.

Sống ở đây được một thời gian ngắn, thầy bị sốt, tôi cũng bị sốt. Cơn bệnh diễn tiến kỳ lạ, người nóng bừng rồi ớn lạnh, đắp mấy lớp mền cũng cứ cảm thấy rét, rồi một giờ sau, cơn bệnh đi qua, người bệnh cảm thấy gần bình thường, chỉ có yếu đi, xáy đầu và mệt trong ngực. Những ngày kế tiếp, đến giờ đó, bệnh lại đột ngột tái phát. Tôi qua khỏi bệnh  nhờ chích lể. Anh trại viên tên Luyến - hình như quê ở Sòng (Cam Lộ) - cùng buồng với tôi giỏi chích lể sớm cứu giúp và tôi lành, chứ tôi không dùng thuốc men gì hết. Còn thầy, mặc dù bệnh, thầy vẫn đi lao động hàng ngày – lao động chủ yếu là nông nghiệp: cuốc đất, gieo bắp, gieo đậu, cấy lúa, gặt lúa ..., thỉnh thoảng leo núi cao chặt tre về dùng vào những việc vặt trong trại. Thầy không chịu ở nhà, dầu xin ở nhà vì bệnh cũng dễ được chấp thuận. Thầy không chịu báo với y tá trại để xin thuốc. Thầy thật thà nghĩ rằng ở nhà sẽ mất điểm trong “học tập cải tạo”, cơ may phóng thích ít hơn; còn uống thuốc sốt – quinine – vào sẽ hại gan và vàng da, hại cho sức khỏe lâu dài, chi bằng cứ để cho các kháng nguyên vốn có trong cơ thể chống đỡ.

Bệnh tình của thầy cứ nặng dần. Đến một ngày, thầy không ngồi dậy được nữa. Thầy nằm liệt tại chỗ. Chỗ nằm của trại viên là hai bục ciment xây dọc hai bên mỗi lớp học, giữa dành một lối đi. Vào những ngày thời tiết chuyển, hơi ẩm bên dưới bốc lên rịn ướt.  Tôi nằm sát bên cạnh thầy. Tôi tự thấy mình có bổn phận phải chăm sóc thầy. “Thầy trò đạo ngãi cha con” mà!

Hàng ngày, tôi báo nhà bếp của trại thay phần cơm thầy bằng phần cháo. Tôi ngồi đút cho thầy từng thìa cháo, thìa nước. Khổ nỗi là cháo cũng chỉ là một loại cơm có nước. Thầy cố nuốt cho vừa lòng tôi, chứ miệng thì đắng, cháo lại nhạt nhẽo, có ngon béo gì đâu; nhiều khi mới nuốt xong, thầy nôn ọe ra liền. Tôi phải lấy khăn lau miệng, cằm, cổ cho thầy. Khăn lau là những mảnh bao cát vải, nhặt được thời đi lao động trong khuôn viên trại tạm giam ở La Gi, giặt sạch cất vào tư trang. Ngoài phục vụ ăn uống, tôi cố gắng vệ sinh cơ thể và chỗ nằm cho thầy. Tôi ra giếng lấy nước vào lau mình cho thầy. Không có chậu, thau, tôi phải đựng nước trong cái két đạn đại liên – cũng được lượm khi đi lao động ở trại tạm giam La Gi. Ở đây, cái két đạn đại liên rất đa năng. Những khi đi lao động bên ngoài trại, kiếm được mớ rau rừng, nó là cái soong luộc rau để “cải thiện” bữa ăn; khi quần áo nhớp, nó là cái thau giặt; lúc đêm hôm, buồng giam đã khóa kỹ, nó là cái pô để đựng nước tiểu hay phân – một hình thức cầu tiêu thu nhỏ, di động.

Quần áo, mền chiếu của thầy tôi phải giặt giũ. Công việc này trong trại không dễ dàng chút nào. Tôi cũng là trại viên, phải đi lao động, phải lên lớp học tập chính sách, chủ trương Cách Mạng. Không thể nại cớ này nọ để tránh việc, việc gì không muốn cũng phải làm, thậm chí xem phim hay xem biểu diễn văn nghệ cũng bắt buộc phải đi. Lại thêm, mỗi lần ra phòng, vô phòng, phải xin phép cán bộ công an quản chế. Đứng thế nghiêm, miệng nói lớn: Xin phép cán bộ, tôi đi ...

Thầy không đi được, phải giải quyết “việc cần” tại chỗ. Giặt giũ, lau chùi không có xà phòng, mùi hôi không hết được, ghét bẩn không sạch được; quần áo, mền chiếu của thầy nhàu nát. Tôi nằm trần trên nền ciment, còn chiếu chăn của tôi đem ra phục vụ thầy. Chỉ được ít lâu, chiếu chăn của tôi cũng phải vất bỏ. Linh mục Nguyễn Vân Nam, người đồng trại, nguyên hiệu trưởng trường trung học Thanh Linh (trước đặt ở Quán Ngang – khu tập trung của dân Gio Linh, chuyển vô ở Hòa Khánh rồi ở khu Động Đền) – nơi thầy có dạy giờ - giao cho tôi đồ của cha để dùng cho thầy. Đến lượt, đồ của cha cũng hết sử dụng được. Tôi đang không biết xoay xở cách nào nữa thì anh em cùng buồng, người góp cái áo, người góp cái quần ... quấn ủ cho thầy.

Sốt mất nhiều hồng cầu, mà không có chi bồi bổ, thầy kiệt sức, hơi thở yếu đi. Thầy thở bằng mũi ít mà bằng miệng nhiều. Rồi miệng thầy há ra, không khép lại nữa, thỉnh thoảng nấc lên. Một chốc sau, thầy chỉ nấc. Thầy thở cá ... hấp hối. Thầy sắp chết. Tôi ngồi nhìn thầy, không làm gì cho thầy nữa - làm gì cho nhọc công! Con người thầy chỉ còn xương và da. Lưng thầy đầy những vết loét lớn, sâu ... màu đỏ sẫm. Mùi tanh tao từ thân thể cộng thêm mùi ghét bẩn rịn ướt nơi chỗ nằm mời gọi các loài kiến lâu nay ẩn dấu dưới nền nhà bò lên. Kiến leo, bò lên trên mình thầy. Chắc lúc ấy, thầy không còn cảm giác; nếu có cảm giác thì tội nghiệp thầy lắm. Cái cắn đau của loài kiến lửa, cái bò gây “nhột” của loài kiến hôi hoặc kiến đen ... Lúc đầu, ít con, tôi chụm mấy ngón tay để bắt, để giết. Rồi kiến lên nhiều quá, tôi đành bó tay. Giá như có một ít dầu hỏa, bôi quanh người thầy và chỗ thầy nằm thì chắc chắn kiến bỏ đi, nhưng dầu hỏa đâu lúc đó! Trong tình thế này, trước sau thầy cũng chết. Có thể một giờ nữa, hai giờ nữa ... đêm nay ... hay cùng lắm ngày mai. Ngồi bên thầy, buồn rười rượi, hết đường tính toán, tôi chấp tay trước ngực, miệng lâm râm cầu nguyện thầy sớm về cõi Vĩnh Hằng, hóa kiếp để đỡ khổ cho thầy và cũng đỡ khổ cho tôi.

Hôm ấy, khoảng 4 giờ chiều, trại sai người đưa băng-ca vào bưng thầy đi. Thầy nằm bất động, tôi khóc vì nghĩ rằng thầy trò không bao giờ gặp nhau nữa. Mai mốt may mắn được về, gia đình thầy hỏi mồ mả thầy thì tôi biết đâu mà chỉ. Tôi khóc thành tiếng, anh em trong buồng ai cũng rươm rướm nước mắt. Họ thương thầy mà cũng thương tôi . Thương thầy vì thầy là bạn cùng ăn, cùng ở với họ; cách cư xử của thầy đã làm cho họ mến mộ. Thương tôi vì cả thời gian dài tôi chăm sóc thầy trong điều kiện khó khăn như thế, giờ chỉ là “dã tràng xe cát”. Thú thật: qua việc tôi tận tình với thầy, anh em cùng buồng đánh giá tôi là người có tình, có nghĩa. Từ đó về sau, họ dành cho tôi nhiều tình cảm. Tôi ở trong trại không có nguồn tiếp tế của người thân. Vợ tôi đã mất, con tôi còn dại, đại gia đình đã về Đông Hà. Tôi còn sức khỏe để có ngày ra trại, chủ yếu là nhờ bạn cùng buồng và cùng trại. Ông Trời lại cầm cân nảy mực rất công bằng; sống có lòng thì không bao giờ thiệt thòi; trong đoạn đời từ ngày ra trại đến nay, tôi thoát nguy hiểm suýt chết nhiều lần và được bạn bè, học trò cũ giúp đỡ khi khó khăn mặc dầu tôi không bao giờ gợi ý.

Đêm ấy, thầy nằm một mình ở một cái chòi dựng bên một dòng suối. Có lẽ ban quản đốc trại không muốn thầy chết trong buồng giam. Tôi nghĩ thầm: thầy sẽ chết trong đêm và chắc chắn được chôn cất ngay trước khi trời sáng. Trước đó ít lâu, một trại viên chết do bệnh, trại không chọn ban ngày để chôn cất  mà chờ ... cử người đi chôn trong màn tối của đêm. Tôi không ngủ được, cứ trở mình qua về. Hễ nhắm mắt lại, tôi mộng thấy chiếc xe bò kéo đang chở xác thầy ra khu rừng vắng, trên không, mấy con quạ đen bay lượn, buông dồn liên hồi những tiếng kêu kinh tởm.

Sáng hôm sau, một ông bác sĩ phụ trách y tế của sở Công An tỉnh Thuận Hải (tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Bình Thuận gộp lại) lên. Không biết ông lên theo lời mời của trại để xử lý trường hợp thầy hay ông đi công tác định kỳ. Thầy chưa chết, vẫn đang thở cá, ông bác sĩ thăm khám thầy và đề nghị trại đưa thầy vào một phòng riêng để truyền dịch và điều trị bằng thuốc men. Thầy dần tỉnh, bệnh tình thuyên giảm từng ngày.

Khoảng một tháng sau, trại trả thầy về buồng, thân hình chỉ còn da bọc xương, tóc dài bù xù, râu mọc quăn queo. Thầy chống chiếc gậy để bước, lưng cong xuống như cụ già trăm tuổi, mặc dầu lúc ấy thầy mới 36 tuổi. Đêm đêm, thầy phải nằm nghiêng, rên hư hử. Thầy nằm ngửa không được, những đám loét sâu ở lưng còn đau lắm.

Trong thời gian dưỡng bệnh, thầy rất thèm ăn. Đáng lẽ được ăn nhiều, ăn đồ bổ để chóng bình phục, tội nghiệp bữa nào cũng như bữa nào, thầy chỉ hưởng phần ăn của một trại viên bình thường: lưng chén cơm với một tí đồ ăn khô hoặc nước. Biết thầy thiếu đói mà bất lực, tôi nhói lòng.

Do bệnh hoạn, thầy được phóng thích sớm. Về nhà, cả thời gian dài, thầy không làm gì được, mọi việc gia đình trút lên vai người mẹ già và người vợ “yểu điệu thục nữ”.

Rồi mấy năm sau, dòng đời đẩy đưa thầy trôi nổi. Thầy theo gia đình về tận Bạc Liêu. Để tồn tại, thầy làm đủ nghề: bán kem, vá soong nồi nhôm, sửa máy khâu ... Công việc lưu động đi từ vùng này qua vùng khác, đến đâu nghỉ đó. Thầy gánh vác việc gia dình để phu nhân thầy – cô Phù thị Lan - rảnh tay vào học trường sư phạm. Nhờ ơn trời, cô ra trường được tuyển dụng, cùng lúc đó, sở giáo dục & đào tạo tỉnh Bạc Liêu cũng mời thầy trở lại nghề cũ – dạy toán ở trung tâm giáo dục thường xuyên. Học trò thầy đa số là cán bộ nhà nước đủ ngành. Thầy có thu nhập đều đặn. Quan hệ xã hội mở rộng. Uy tín trong cộng đồng tăng dần.

            
             
                

Thầy Dương Đình Trọng
(Ảnh 2012)


Thầy cô đã nuôi dạy 6 người con thành đạt, có công ăn việc làm ổn định.  Phần lớn theo nghiệp cha mẹ làm thầy giáo cô giáo. Có người gợi ý gia đình thầy nên xin nhà nước mở một trường tư thục riêng cho tiện. Thầy cười: còn thiếu nhiều điều kiện quá!

Bây giờ, thầy đã về hưu. Không những được học trò mới đùm bọc, thầy còn được học trò cũ chiếu cố. Thầy đã được mời ra Quảng Trị gặp mặt nhiều lần với học trò cũ: Bán Công Đông Hà, Trung Học Gio Linh, Trung Học Nguyễn Hoàng. Và năm 2008, học trò cũ của thầy đã mời thầy đi chơi một chuyến bên Mỹ. Gần đây nhất, vào tháng 6 năm 2012, thầy đã ra dự họp mặt liên trường ở thành phố Đông Hà và kỷ niệm 60 năm thành lập trường Nguyễn Hoàng ở thị xã Quảng Trị. 

Trong những lần thầy ra Quảng Trị, tôi may mắn gặp lại thầy, nghe thầy kể cuộc sống hiện tại mà mừng. Một người giỏi về nhiều phương diện như thầy lẽ nào phải chịu cực mãi. Thầy phải hưởng và thật sự đang hưởng một cuộc sống xứng đáng.

“Trời có mắt”. Rất đúng!

Viết đến đây, tự nhiên lòng tôi dậy lên câu hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Đừng tuyệt vọng tôi ơi đừng tuyệt vọng ...”./.

Hoàng Đằng
READ MORE - CHUYỆN ĐỜI THẦY TÔI - Hoàng Đằng

THẦY TÔI - thơ Hồng Duyên




Ngần ấy tuổi con thuyền vẫn lái
Tóc bạc màu ở mãi một dòng sông
Khách qua rồi có trở lại nữa không?
Có còn nhớ tấm lòng người dạy dỗ?

Từng nét chữ quyện tâm hồn của bố
Chẳng tính toan chuyện lời lỗ cuộc đời
Mong đàn con vinh hiển rạng danh người
Chữ tài đức con nhớ lời thầy dặn

Đêm lẳng lặng bên từng trang giáo áng
Sợ tuổi xuân sẽ hết hạn đưa đò
Thầy âm thầm gom trí tuệ để cho
Khi trở giấc thầy lo con lạc hướng

Con thuyền ấy vẫn khoan dung độ lượng
Khi thủy triều ương bướng chẳng chịu ngoan
Thầy cho yêu thương làm gói hành trang
Và nhắc nhở giữ cẩm nang tài đức

Hồng Duyên 


Nguyễn Hồng Duyên
Cà Mau
hoatimhd@yahoo.com.vn
Số đt: 0918146865
READ MORE - THẦY TÔI - thơ Hồng Duyên

TRUYỀN THUYẾT TÌNH YÊU - thơ Nguyễn An Bình



Nếu có thể anh theo chân Trương Vô Kỵ
Đưa em về Băng Hỏa Đảo ngắm bình minh
Nghe sóng vỗ tiếng chim rừng vang vách núi
Say đắm vẻ mày cho người đẹp Triệu Minh.

Bắt chước Lệnh Hồ Xung tỉnh say cùng men rượu
Tấu khúc “Tiếu ngạo giang hồ” dưới ánh trăng thanh
Tranh bá đồ vương mặc tiểu nhân, mặc quân tử kiếm
Sống phiêu bồng tự tại cùng Nhậm Doanh Doanh.

Đại Lý đường về vó câu muôn dặm mõi
Bước lăng ba vi bộ lại nặng một chữ tình
Mắt Đoàn Dự mơ màng dõi theo mây trắng
Thương nhớ một đời hình bóng Vương Ngữ Yên.

Truyền thuyết tình yêu đẹp trong từng trang sách
Em ở trong lòng vẫn một Trác Văn Quân
Anh Tư Mã, đợi nhau dưới lầu vọng nguyệt
Bên hiên tây cùng thổi khúc phượng cầu hoàng.

Nguyễn An Bình




READ MORE - TRUYỀN THUYẾT TÌNH YÊU - thơ Nguyễn An Bình

VỊNH CON CUA ĐỰC - Kha Tiệm Ly




                           VỊNH CON CUA ĐỰC

Giáp trụ che thân đít đến đầu
Tung hoành từ hải sợ ai đâu
Tuốt gươm bạt vía quân cường địch
Hà cớ nam nhi mặc yềm đào? *


                              Kha Tiệm Ly
READ MORE - VỊNH CON CUA ĐỰC - Kha Tiệm Ly

LY CAFE CAO NGUYÊN - thơ Huy Uyên



Nặng lòng gió nắng cao-nguyên
bên ly cafe
người ngồi vương sầu lên mắt
đất đỏ bazan bụi mù ban-mê
chiều quán lạnh khuất chìm theo tiếng hát .

Có phải tại người
mà trời sớm sang thu
trên nương,đồi rắc vàng chầm chậm
khát khao đời ai một lần xa lắm
bên sông đứng đợi ai về .

Hỏi mây trên đầu
sao không sớm giăng cuối núi
dĩ vãng của người ai lầm lũi cầm tù
lặng lẻ khóc một mình trong bóng tối
đã khép rồi ký-ức xa xưa .

Cao nguyên bơ vơ  ôm gió qua sông
trên núi ai gùi đồi về cùng làng,bản
hạnh-phúc đắng cay đốt cháy lòng
gió ngưng thổi rồi đêm có buồn không ?

Tôi lấp mộ bia trên môi người
say nghiêng ché rượu
dạo bỏ cao nguyên ngày đó
núi trôi,sông dài từ độ
đứng lặng thinh bên cầu
dỗ hoài mối tình theo con nước trôi mau .

Mưa trái mùa giăng ngang đầu phố
cuối dốc dấu kín con đường buồn
đi và ngậm ngùi thương nhớ
sơn-khê dặm lòng có hết bâng khuâng .

Khuya ngồi bên thềm dỗ gió
tháng ngày ai đi không quay lại
một mình trò chuyện sương câm
phế hoang cho lòng tê tái .

Mây ở lại sắc pha màu mắt
ai đi lấp kín trời sao
thôi đã lạc tình , đời ai chia cách
cao-nguyên ngũ quên giấc mơ không về .

Bàn tay dịu dàng se lạnh
thở vội mùi hương tóc người
quán cafe Hạ-Vàng nghiêng trôi
hoang hoải
hắt hiu ,cô quạnh .

Trên đồi nhà ai khép hờ cửa sổ
đêm gọi tên ở cỏi vô-cùng
giọng tượng buồn tiếc đau cây cỏ
đã vùi chôn hoài niệm con tim .

Cám ơn ánh mắt với nụ cười
một thời ở lại chân trần
đi quanh phố vắng
nữa đêm cơn mưa quay về
mang vội nổi buồn năm tháng .

Xa người , xa cao nguyên đầy gió
người-đàn-ông-tóc-bạc nhuộm sương đời
nhìn sầu đi ngang qua phố
cầm trong tay con tim chết trôi
để nhớ một người !

Huy Uyên
READ MORE - LY CAFE CAO NGUYÊN - thơ Huy Uyên

CÔ EM HÀNG XÓM - Truyện ngắn Tú Yên


Vừa học xong cấp 3 tôi giã từ quê hương, một khu phố cũ kĩ buồn thiu để di tìm việc làm tại một thành phố lớn. Nhờ có được người thân quen nâng đỡ nên tôi cũng đã có công ăn việc làm ổn định. tôi miệt mài lao động nên cũng dành dụm được một số vốn và mua được một ngôi nhà tương đối và cũng đã tìm hiểu để có được một người vợ tương lai. Thế là tôi quyết định về lại quê nhà để dẫn má tôi vào ở cùng tôi, tội nghiệp má chỉ có hai đứa con, một trai một gái. Người chị của tôi đã có chồng mấy năm sau khi tôi đi tha phương cầu thực và theo chồng đi làm tại một huyện miền núi xa xôi, mẹ thui thủi một mình với một căn nhà cũ kĩ âm u, nhớ con nhưng không biết làm sao. Có một thời người trong xóm không thấy tôi về nên đồn đại là tôi đã vượt biên bị chết ngoài biển. Mẹ nghe hoài rồi cũng tưởng là thật.

Tôi về mẹ tôi mừng lắm, hơn mười năm rồi chứ ít gì, trông mẹ già đi nhiều, tôi ân hận là sao trước đây không về để đem mẹ vào chăm lo phụng dưỡng. Mẹ dẫn tôi đi thăm từng nhà hàng xóm như muốn khoe với mọi người là con mẹ vẫn còn đây, vẫn thương bà nhưng vì công việc làm ăn nên hôm nay mới về thăm được. Sau mấy ngày mẹ con đoàn tụ, mẹ hỏi tôi sao không lấy vợ để mẹ có được cháu nội. Tôi nói với mẹ là vào trong đó con sẽ tính chuyện. Mẹ nhắc với tôi cô bé trong xóm mà lúc nhỏ hay đến nhờ tôi bày dùm mấy bài toán khó. Tôi thì không giỏi toán cho lắm nhưng nhờ học trên em 3,4 lớp nên cũng giúp cho em được. Mẹ nhắc tôi mới nhớ và hỏi chắc cô bé đó giờ lớn và xinh lắm hả mẹ. Mẹ cười nói là hơn mười năm chưa gặp lại mà biết là xinh, muốn gặp thì mẹ kêu qua nhưng mà phải chủ nhật kia, em nó đi dạy ở lại cuối tuần mới về. Tôi mới hiểu ra là hèn chi mà tôi về đã 5,6 ngày rồi mà không gặp, mà nói vậy chứ gặp chắc chi tôi đã nhận ra. Mẹ kể là những năm con mới đi em nó thường qua lại hủ hỉ với mẹ và nhắc tới con luôn, nhờ có nó mà mẹ đỡ buồn. Sau đó em nó đi học xa và ra trường lại đi dạy ở xa nhưng mỗi khi về cũng thường qua với mẹ. Mẹ nói nhiều lắm về cô bé nên tôi cũng hiểu được mẹ thương cô bé lắm, đọc trong mắt mẹ tôi cũng đoán được niềm  ước ao của mẹ. Tôi chỉ cười thôi vì mẹ đâu biết được tình yêu của thế hệ bây giờ.

Thế rồi tôi cũng gặp được em, tôi ngỡ ngàng vì em rất xinh xắn, đôi mắt ẩn chứa một sự dịu hiền, một lòng thương bao la. Mới gặp tôi em có vẽ thẹn thùng nhưng sau giây phút ban đầu em đã xem tôi như người thân thiết. Em hỏi tôi sao lâu lắm không về cũng không tin tức, tôi nói cho em biết là người con trai khi bỏ quê hương ra đi thì phải làm thế nào cho có sự nghiệp để khi trở về lại mọi người không coi thường mình, vì đã từ lâu ông bà ta có định kiến với một người từ bỏ quê hương, nếu không làm được gì thì để tủi hổ cho gia đình, vì lẻ đó mà tôi quyết tâm lập nghiệp. Em cũng cảm thông cho tôi nên hai anh em có vẽ tương đắc với nhau. Không biết mẹ tôi nói thế nào mà em đã nhờ người bạn cùng trường xin phép mấy ngày để ở nhà chơi với tôi, em nói là khi mẹ  theo anh vào TP thì đâu chắc gì trở về lại nơi đây.

Tôi hỏi em về công việc, về chuyện tương lai, em kể tôi nghe là em đang dạy tại một trường Mẫu giáo. Ở thôn quê người ta gởi con đến trường là để rảnh tay lo công việc đồng án hay buôn bán. Có trường Mẫu giáo là một thuận lợi cho họ. Việc chăm sóc con cái vùng thôn quê rất đơn giản, con cái trong nhà đứa lớn trông đứa nhỏ, lê lết thế nào cũng được, đến giờ thì cho ăn, rồi ngủ, có lúc các em ăn chưa xong nằm luôn dưới đất để ngủ, thế cũng tốt  vì như vậy thì cha mẹ về cũng đỡ bận bịu hơn. Khi vận động đưa các cháu đến lớp có nhiều gia đình không chịu, sợ tốn kém. Thế nhưng bây giờ thì ổn định rồi. Con cái họ khỏe mạnh, lễ phép, ngoan ngoãn nên họ rất bằng lòng. Em kể còn riêng em thì lúc mới về trường em rất sợ và chán nản, học ở trường em tưởng tượng khi ra trường làm một cô giáo rất là thơ mộng, khi vào thực tế em rất buồn chán, nhìn lũ trẻ nheo nhóc la khóc om sòm, mũi dãi lòng thòng không dám đụng đến. Thế nhưng nhiệm vụ thì phải làm, có lúc em cũng đã   nôn thốc tháo khi cho ăn một cháu mà cháu nôn ọe và đại tiện luôn trong quần. Thế nhưng mọi việc rồi cũng quen, bắt đầu yêu nghề, yêu các cháu, em kể có đôi lần một vài cháu ốm không đến trường, em đến nhà thăm thấy gia đình chăm sóc không cẩn thận em phải vào làm, thế rồi đến giờ nghĩ em phải đến nhà để chăm sóc, có em ốm nặng em nhìn mà khóc theo tưởng như là con mình. Em nói tình thương của trẻ thơ rất là thánh thiện, các em thương mình nên mình thương nó, giờ nghĩ nhà có mấy ngày em đã thấy nhớ các cháu rồi, em còn kể nhất là khi đến năm học mới chuyển các em lên lớp trên em thấy như mình mất mát một cái gì lớn lao, thế rồi lại phải bắt đầu dạy dỗ tập luyện cho lớp mới vào ít nhất cả tháng đầu tiên mới ổn định, em nói công việc của em bây giờ rất thuần thục, em là người mẹ với một tấm lòng thương yêu thật sự, nhờ cái tâm mà chuyển hóa các em rất nhanh, có đôi em cùng ngổ nghịch ghê lắm nhưng nhờ có tập thể nên cuối cùng các em cũng ngoan ngoãn nghe theo.

Còn chuyện tương lai của em ? Nghe tôi hỏi em có vẽ ngập ngừng, sau mới kể :Khi anh đi em thấy như mất một cái gì to lớn lắm, tuy lúc đó em mới 14, 15 tuổi thôi. Em đi học đại học cũng có bạn bè nhưng chưa có người yêu. Về dạy tại một địa phương cũng rất đầy đủ tiện nghi, có một Giáo viên của trường cấp 2 gần đó muốn đến với em nhưng em cũng còn lưỡng lự. Em nói nhưng cũng phải chọn lựa thôi, đời con gái khi đã qua thời xuân sắc rồi thì cũng khó lấy chồng lắm, đời đâu có chiều theo ý mình. mình chọn lựa đâu dễ gì, những người giàu sang thì đâu ai để ý đến mình, thôi cũng lấy quách một ai nếu họ thương mình nhất là đồng nghiệp để có cơ hội mà cống hiến cho tương lai của các em được nâng cánh bay cao.

Em nói thì tự nhiên thôi nhưng tôi nghe trong tôi có một chút gì xốn xang. Nhìn em, nhìn đôi mắt tôi thấy như tình yêu của trai gái chỉ thoáng thôi mà tình yêu các cháu thì đầy ắp. Tôi tự nhủ mình thua xa em nhiều, chỉ muốn làm giàu cho cuộc sống của mình sung túc, cho riêng người thân của mình được đầy đủ. Vì chuyện làm giàu tôi đã bỏ quê cha đất tổ, bỏ mẹ già thui thủi một mình, bỏ tình lân lý, phải chi tôi không ra đi, được sống bên em, với một nhân cách như em chắc tôi đã làm được ít nhiều cái hay, nhất là được bên em để tận hưởng một tình thương đôn hậu ấy.

  Đúng ra tôi đã đi rồi vì không thể bỏ việc quá lâu, nhưng sao tôi cứ bịn rịn ra đi không đành, em đã khơi cho tôi một quan niệm sống giản dị mà trong sáng, thanh cao, em đã thức dậy trong tôi một con người chân thật, sống cho mình và cho người. Em hy sinh cho các cháu trong lý tưởng trồng người, em đã làm được những việc lớn trong khi tôi chỉ làm một công việc là kiếm tiền. Cũng may công việc kiếm tiền của tôi cũng chân chính.


Trước khi đi, tôi đã cùng em một đêm đi bên nhau dưới con đường ven biển, trời mới vào thu nhưng những cơn gió biển vẫn hơi lành lạnh, em đi bên tôi vẫn ngây thơ và líu lo như ngày xưa, em đã trở về với một cô bé cách đây hơn mười năm đi bên một ông anh luôn bày học và che chở cho mình. Phía trên trời cao một ánh sao băng đang xẹt nhanh, tôi hỏi em có muốn ước một điều gì không. Em cười nói: sao xẹt nhanh quá em ước không kịp. Nhưng thôi ước làm gì nữa anh. Em đã có  quá nhiều điều tốt đẹp rồi. Hay là anh xem thử nếu còn có ánh sao băng nào thì nói em, em sẽ ước cho anh được hạnh phúc. Em cười giòn tan và hồn nhiên quá, tôi thấy tôi quá nhỏ bên em.

Tú Yên
(Hội An)
READ MORE - CÔ EM HÀNG XÓM - Truyện ngắn Tú Yên

NHỮNG CON SỐ - TẤT CẢ ĐỀU LẶNG IM SAU BÃO - thơ Phan Minh Châu



NHỮNG CON SỐ
Những con số cứ hồn nhiên lại đến
Và máu thịt đồng bào cứ thế chảy thêm ra
Bão số 9 số 10 số 11 số 12 rồi cơn bão số 13
Chưa kịp tắt….
Thì lại nhận thêm cơn bão sô 14.
Cả nước lại chìm trong bão dữ
Cơn bão HaiYan
Cơn bão siêu cường
Chưa từng có trong báo,đài lịch sữ
Đang trên đường tiến đến biễn Đông
Chỉ vài khắc nữa thôi
Thì Bão, Lũ đồng đòng
Gieo thảm họa lên lên bờ vai tổ Quốc
Nơi hòn đảo Lý Sơn và phố phường Quãng Ngãi
Nơi vùa trãi qua bao cơn mê dại
Lại oằn mình dưới cơn bão HaiYan
Mười hai ngày đêm bom dội xuống miền Bắc nước ta
Cũng không bằng một giờ đi của cơn siêu bão
Haiyan ơi Haiyan
Chầm chậm thôi kiếm giùm ta ngã rẽ
Lên Trường Sơn hoặc xuống biễn Đông
Việt Nam ta đã quá đau lòng
Lo chống bão cả đời lo chống bão
Với những cơn bão cuộn tròn như lòng chảo
Ngốn mảnh đất nghèo chiếc eo nhỏ miền Trung
Đồng bào ta lại nước mắt rưng rưng
Không nhà cửa cảnh màn trời chiếu đất
Những đứa con thơ,kẻ còn, người mất
Những nấm mộ muôn đời không biết tỏ cùng ai
Bão sắp đến rồi
Cả nước một lòng tay siết chặt trong tay
Quyết chống bão dù là cơn bão dữ
Bão không thể một ngày di trú
Trước sức mạnh kinh hồn của dân tộc Việt Nam.

                PHAN MINH CHÂU
   



TẤT CẢ ĐỀU LẶNG IM SAU BÃO



Tất cả đều lặng im
Sau bão…
Tất cả đều lặng im sau con lũ không tên.
Những tập vở lấm bùn các em lại nhặt lên
Lau cho sạch để chiều nay đến lớp
Em tranh thủ ôn bài
Bên nồi khoai mẹ đun vừa chín tới
Nồi khoai thơm…ơ còn nóng hổi
Những củ khoai còn sót lại từ bùn.
Bên bếp lửa cùn mẹ nước mắt rưng rưng
Đôi mắt ấy đã một thời mơ ước
Một cuộc sống bao giờ ta có được
Một cuộc sống đơn thuần nhưng hạnh phúc nhân lên
Hạnh phúc nõn nà như những vầng trăng
Vừa đủ tuổi lại trỡ về bên mẹ
Vầng trăng ấy giờ đây không còn nữa
Khi cơn lũ nhấn chìm mơ ước cuộc đời anh
Lũ nhấn chìm cả những giấc mơ xanh
Giấc mơ đẹp như mắt người con gái
Đôi mắt ấy một thời anh mê mãi
Giờ hình hài theo sóng nước xa xôi
Vầng trăng non ôm  thảm cỏ mồ côi
Khi hạnh phúc đang dần dần chớm nở
Em đến lớp đôi chân còn bỡ ngỡ
Trước khúc ngoặc cuộc đời nước mắt cứ rưng rưng .

     PHAN MINH CHÂU
3b Âu Cơ Nha Trang Khánh Hòa

       d.đ 0922992662
READ MORE - NHỮNG CON SỐ - TẤT CẢ ĐỀU LẶNG IM SAU BÃO - thơ Phan Minh Châu

ĐÃ XA - thơ Trương Nguyễn




Ba mươi năm bóng mây loáng mất
Giờ đây vọng những mùa xa
Mình ta
Dang tay ôm gió
Gởi nụ hôn
Hư không

Em còn không
Hàng dừa rủ bóng
Mắt chiều lồng lộng
Màu huỳnh quang hắt vào nỗi nhớ
Trống vắng…
Cánh buồm

Em ở đâu!
Hơi nồng nguyên trên cát
Áp ngực tôi ngọn lửa
Cháy trái tim
Lặng lẽ…Lặng lẽ…
Buồn

Em!
Tóc thơm
Gió ghen ngày ấy
Sợi tóc vướng chân

Tôi ! phía cô đơn.

TRƯƠNG NGUYỄN
READ MORE - ĐÃ XA - thơ Trương Nguyễn