Năm nay, chiều 15/11/2013, tôi
được nhóm học sinh cũ Nguyễn Hoàng – Quảng Trị khóa 1963 – 1970 mời dự họp mặt
chào mừng Ngày Nhà Giáo Việt Nam (20/11) tổ chức tại tư gia anh Đinh Quang Tạo
ở 228 Lý Thường Kiệt – thành phố Đông Hà.
Bên ngoài, trời mưa nặng hạt. Từ
Thừa Thiên-Huế vô tới Bình Định, lũ lụt rất lớn. Lớn do mưa nhiều, mưa to, do
rừng rú đã mất nhiều độ che phủ và do các đập thủy lợi, thủy điện xả nước vì sợ
vỡ.
Căn phòng không lớn lắm được
trang hoàng cẩn thận: banderole, lẵng hoa, hệ thống âm thanh, đàn organ. Bốn
chiếc bàn tròn được xếp ngăn nắp kèm ghế nhựa, cứ mỗi bàn 10 ghế.
Người tham dự, ngoài khoảng 30
anh chị em là chủ, có một số khách: về thầy cô giáo có thầy Đỗ Tư Nhơn, thầy
Hoàng Đằng, về đại diện ban liên lạc Nguyễn Hoàng tại Quảng Trị có anh Nguyễn
Lớn, anh Nguyễn Văn Hoàng, chị Lê thị Dũng, về đại diện các khóa bạn có anh Văn
Mạnh, anh Đoàn Văn Tầm, anh Lê Đình Phiến. Tất cả mọi người ngồi xây quanh đầy
cả 4 bàn.
Anh Đinh Quang Tạo, một cây văn
nghệ có tiếng của Nguyễn Hoàng xưa, đóng vai MC. Chương trình họp mặt chia 2
phần rõ rệt:
Phần I: Phần nghi thức
Mở đầu chương trình là lời phát
biểu chào mừng của anh Nguyễn Công Huệ, đại diện nhóm; tiếp đến là phần phát
quà cho thầy giáo cũ được đạo diễn khá long trọng, tiếp theo là lời phát biểu
cảm ơn của thầy Hoàng Đằng, đại diện cho cả hai thầy có mặt; cuối cùng là phần
phát biểu tâm tư của anh Nguyễn Lớn, đại diện ban liên lạc Nguyễn Hoàng tại
Quảng Trị. Mỗi lần có người phát biểu, cả hội trường im lặng, lắng nghe chú ý.
Đó là một trong những nét văn minh hiếm thấy ở những buổi tụ tập đông người.
Phần II: Tiệc và văn nghệ mừng
Tiệc liên hoan được dọn dần. Thức
ăn rất nhiều món, món nào cũng ngon; thức uống chủ yếu là bia Huda loon, cứ
uống “thả giàn” điểm thêm nước ngọt, nước khoáng cho những ai đang trong chế độ
ăn kiêng. Chắc mỗi anh chị em trong nhóm phải đóng khá “bộn” tiền.
Trong lúc “xử” tiệc, không có ồn
ào, không có cảnh ép nhau uống rồi hô: dzô, dzô ... Mà phải rồi! Anh em đều
trong độ tuổi O60 (trên 60) và U70 (dưới 70), họ không còn cái rộn ràng của lớp
trẻ. Đó là điểm đặc biệt mà những người thích yên tĩnh như tôi đánh giá cao.
Vừa ăn uống vừa chuyện trò, vừa
nghe “nhạc sống”. Anh chị em giới thiệu nhau lần lượt lên biểu diễn. Ngoài các
nghệ sĩ thuộc nhóm, còn có hai nghệ sĩ ngoại: Đỗ Tư Nhơn và Lê thị Dũng. Mặc dù
tuổi tác đã cao, các ca sĩ đều có giọng
hát réo rắt, thánh thót, du dương; còn có đôi giọng hát hùng dũng, kích động. Ngoài
phần biểu diễn bằng miệng, phần biểu diễn bằng cơ thể rất đặc sắc. Chân tay chỉ
trỏ, tiến lùi, lên xuống điệu nghệ. Thân hình uốn lượn nhẹ nhàng, thanh thoát.
Có cặp dìu tay nhau khiêu vũ theo điệu nhạc lâm ly. Thật là vừa mãn nhãn (sướng
mắt) vừa mãn nhĩ (sướng tai). Thêm một ưu điểm của buổi họp mặt là ai nghe giới
thiệu đến tên thì vội lên liền, không từ chối, không chậm trễ. Máu văn nghệ và
máu cộng đồng hình như đang rần chảy trong mỗi anh chị em.
|
Trao quà cho thầy |
(Từ trái qua phải: anh Nguyễn Công Huệ, thầy Hoàng
Đằng,
thầy Đỗ Tư Nhơn, anh Trịnh Đình Song)
Thật hạnh phúc cho tôi được dịp
dự buổi họp mặt này. Cảm ơn anh chị em Nguyễn Hoàng khóa 1963 – 1970 đã có lòng
nhớ nghĩ đến tôi.
*
* *
Vậy là tôi đã được nhóm này mời
tới dự họp mặt hàng năm 3 lần.
Lần đầu năm 2011, hôm ấy có thầy Phan
Khắc Đồ từ Đà Nẵng ra dự.
Lần thứ hai năm 2012. Tôi được
mời nhưng không dự được do sức khỏe của tôi lúc ấy quá tệ. Nghe nói, ngoài thầy
Phan Khắc Đồ từ Đà Nẵng, còn có thầy Lý Văn Nghiên từ Huế ra dự dù đường sá xa
xôi.
Một số anh em trong nhóm hiểu lầm
về sự vắng mặt của tôi năm 2012. Tôi không dự vì lý do sức khỏe. Tuổi già, khi
khỏe, khi mệt, khi đau, khi lành. Vậy mà họ nghĩ tôi không đến dự do tôi ngại
vì không dạy khóa này.
Thật sự, vào năm học 1967 – 1968,
năm học mà khóa này lên lớp 10, tôi được nhà trường phân công dạy văn vài ba
lớp, tiếc là tôi chỉ đứng lớp được mấy tháng đầu năm; sau đó, tôi phải tạm biệt
trường lớp lên đường thi hành lệnh tổng động viên. Chắc chắn là không phải tất
cả nhưng một số anh em đã học với tôi, có nghĩa, dù dạy nhiều hay dạy ít, tôi
là thầy thật sự. Hơn nữa, theo truyền thống của trường Nguyễn Hoàng, “học nhất
sư kính vạn sư”, ai có dạy Nguyễn Hoàng trước hay sau, nhiều hay ít đều được
học sinh Nguyễn Hoàng gọi bằng từ thầy thân thương – thầy danh dự.
*
* *
Nhân dịp này, tôi có một điều cần
nói với các bạn học sinh khóa 1963 – 1970 có học với tôi.
Năm 2011, khi họp mặt tan, một
bạn trong nhóm tới hỏi tôi: Trước đây, thầy dạy văn, thầy còn nợ chưa giải thích
“nụ tầm xuân” trong bài ca dao:
- Trèo lên cây bưởi hái hoa.
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc.
Em đã có chồng, anh tiếc lắm
thay!
- Ba đồng một mớ trầu cay.
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn
không?
Bây giờ em đã có chồng.
Như chim vào lồng, như cá cắn
câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gở!
Chim vào lồng biết thuở nào ra!
Lúc đó, vì không nghe ai hỏi, tôi
không đặt nặng ở nghĩa của cụm từ “nụ tầm xuân” mà giải thích. Bây giờ, dù muộn
màng, tôi xin chia xẻ ý kiến của tôi với các bạn.
Qua bài ca dao, khi dạy, tôi muốn
nhấn mạnh hai điều: (1) thân phận phụ nữ ngày xưa bị xã hội coi rẻ (Ba đồng một mớ trầu cay) và (2) thân
phận phụ nữ ngày xưa bị đối xử bất bình đẳng so với nam giới. Đàn ông được năm
thê bảy thiếp, còn đàn bà chỉ chính chuyên một chồng (Bây giờ em đã có chồng; như chim vào lồng, như cá cắn câu).
Mà giả như ngày ấy, có bạn nào
hỏi: “Nụ tầm xuân là gì?”, tôi cũng
trả lời: Tác giả bài ca dao muốn nói đến hoa cà, đấy thôi. Cây cà được trồng
đầu hay giữa mùa đông, cây cà có thể ra hoa vào cuối đông hay đầu xuân (tầm
xuân nghĩa là tìm xuân, trông chờ chào đón tiết xuân).
Trong thực tế, từ kép “tầm xuân”
dùng để chỉ một loài hoa hồng leo, cây cao từ 1 – 5 mét; có cây còn leo cao hơn
ngọn các loài cây khác (theo Wikipedia). “Tầm xuân” còn là tên một loài cây thuộc
họ đậu, chỉ mọc ở duyên hải miền Trung vì nơi đây khí hậu và thổ nhưỡng thích
hợp (theo giáo sư Nguyễn Thiện Tích ở Đại Học Khoa Học Sài Gòn). Nụ tầm xuân
trong bài ca dao không thể thuộc giống cây leo vì ở vườn cà, làm gì có giống
cây leo!. Nụ tầm xuân trong bài ca dao cũng không thể thuộc giống cây họ đậu
mọc dại vì ở vườn cà, cây dại cỏ dại luôn được làm sạch. Thế thì trăm phần
trăm, đó là hoa cà – hoa cà và hoa tầm xuân có hình dáng và màu sắc gần giống
nhau.
Hoa tầm xuân (ảnh
mượn từ trên Internet)
Hoa cà (ảnh mượn từ
trên Internet)
Có nguồn cho rằng bài ca dao là
lời tiếc nuối của chúa Trịnh Tráng (1577 – 1657) ở Đàng Ngoài, do chê Đào Duy
Từ thuộc dòng dõi xướng ca mà không sớm dùng để người hiền tài ấy vào phục vụ
cho Đàng Trong:
- Trèo lên cây bưởi hái hoa.
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc.
Em đã có chồng, anh tiếc lắm
thay!
Và lời đáp của Đào Duy Từ nói lên thân phận và
tinh thần của mình đã gắn kết với chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1563 – 1635).
- Ba đồng một mớ trầu cay.
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn
không?
Bây giờ em đã có chồng.
Như chim vào lồng, như cá cắn
câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gở!
Chim vào lồng biết thuở nào ra!
Đó chỉ là giai thoại – một tin đồn, không có
bằng chứng trong sử sách.
Tôi, một thầy giáo dạy văn, chỉ
xem bài ca dao là lời tâm tình của đôi trai gái yêu nhau nhưng ngỏ ý quá trễ.
Mấy lời dông dài với học trò cũ.
Mong độc giả thông cảm./.
17/11/2013
(15/10/Quý Tỵ)