Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Thursday, August 20, 2015

ĐƯỜNG MÂY XANH CUỘC LỮ - thơ Mặc Phương Tử



Tác giả Mặc Phương Tử










ĐƯỜNG MÂY XANH CUỘC LỮ 

Tôi nghe anh kể chuyện đời anh (*)
Vó ngựa đòi phen dậy sóng thành
Dù đã một thời cao mộng ước
Lòng còn vời vợi dưới trời xanh.

Nát lệ, đã đành cuộc bể dâu
Nỗi niềm thế sự đến ngàn sau
Dù mai sau nữa, lòng ta vẫn…
Theo bước thời gian, cứ ngẫng đầu !

Tôi cũng bao phen vầy gió bụi
Ngược xuôi, thành bại… thế nhân ơi !
Nhưng bờ chiến tuyến trong tâm tưởng
Giữ vẹn lòng son với cuộc đời.

Dẫu biết hôm qua nỗi buồn kiếm khách
Máu lệ bao mùa đổ xuống quê hương
Đâu nhân nghĩa, đâu rạch ròi ác quỷ !?
Non nước ngàn năm, từng khúc đoạn tang thương.

Đời ta cũng một thời nơi quê mẹ
Mấy buồn vui, áo mẹ bạc vai gầy
Lòng cõng nắng mưa, đá mòn đất nẻ
Vẫn trọn bốn mùa xuân xứ sở nầy. 

Ai biết đâu, ngày mai mây theo cuộc lữ
Dành cho ta vùi giấc mộng sông hồ
Nhưng đâu phải tâm hồn ta loài lau sậy,
Sớm chiều lụy kiếp giữa hoang sơ.

Có những đêm nghe rừng xa vọng lại
Tiếng ma hời rờn rợn giữa canh thâu
Tiếng cú lạnh, buốt bên trời hoang tái
Tiếng sói lang tru gọi nát cung sầu…

Ta viễn xứ,
Nhưng lòng không viễn xứ
Đời tha hương, vẫn giữ nếp quê nhà
Thời gian có bạc phai lên màu áo cũ
Dễ đâu bạc nguồn đạo lý của ông cha.

Bây giờ như bóng nắng tà
Bên thềm thế kỷ cỏ hoa tự tình
Bây giờ mình lại ngắm mình
Vẫn xanh  theo cuộc đăng trình hoàng hôn. 

                          New Orleans, tháng 7, 2015.

                               MẶC PHƯƠNG TỬ

*Tâm sự cùng Huỳnh Hồng Quân


READ MORE - ĐƯỜNG MÂY XANH CUỘC LỮ - thơ Mặc Phương Tử

Minh Tự - CÚI ĐẦU TRƯỚC QUẢNG TRỊ



…Tôi không biết mình yêu Quảng Trị tự khi nào
cũng như không thể biết bao giờ thì hết yêu
cái vùng đất khô cằn cát trắng
xe chạy qua cũng muốn chạy thật nhanh
nhưng người thì lại muốn dừng lại bước xuống
cúi đầu trước đất thiêng.

Cúi đầu trước Bến Hải, Hiền Lương.
Vết cắt của cả dân tộc nhưng đau buốt nơi này
Cúi đầu trước cổ thành Quảng Trị.
Bom đạn như sỏi đá vãi xuống đây như trò chơi
mà đau thương đổ nát thì rất thật
Thật đến hai trăm phần trăm.

Cúi đầu trước thánh địa La Vang
Thưa Đức Mẹ
Có những điều rất thật lại không đáng tin
nhưng lại có những điều đáng tin dù khó thật
Đó là giấc mơ nhân loại là anh em, trái đất là một ngôi nhà
Tôi nghe lời nói đó âm vang trong một buổi chiều Quảng Trị.

Cúi đầu trước sự nhọc nhằn khổ ải
của những người dân nghèo
khổ đến mức không khổ hơn được nữa

Cúi đầu trước những đứa học trò nghèo mà học hành giỏi giang
Nhẫn nại thay đổi đời mình
Nhưng quyết không bao gìơ vượt khó
Bằng cách xin xỏ hạ mình.

Cúi đầu trước những đứa bạn thông minh
ở góc núi Tân Lâm hay heo hút Thuỷ Ba
mà cái gì cũng biết
chỉ không biết một điều
thực dụng

Cúi đầu trước những bà mẹ sinh ra những đứa con thông minh và nhân nghĩa
Nuôi chúng lớn lên bằng hạt lúa củ khoai thấm đẫm máu của người cha
ngã xuống bởi quả bom còn sót lại trên đồng.
Bằng những chuyến hàng lậu đường 9 thấm đẫm nước mắt
và đôi khi thấm cả máu…

Tôi không nhớ mình biết đến Quảng Trị tự khi nào
Hình như là năm Bảy Hai
Anh hàng xóm thoát chết trận đường 9 Nam Lào trở về
Tôi nghe loáng thoáng mấy từ “Mùa hè đỏ lửa”
Bà mẹ hàng xóm thở dài
“Ở đây mình đã  cực như ri thì ở ngoài nớ mần răng sống cho nổi ?!”.

Tôi yêu Quảng Trị ngay từ lúc đó
Tôi ứa nước mắt khi chuyến tàu chợ đêm lầm lũi chạy qua trảng cát dài Hải Lăng
Tôi nhớ không nguôi một sớm mai đường 9 nở đầy hoa dã quì
Tôi quên sao được bữa rượu giang hồ dưới chân cầu Đông Hà nửa đêm lạnh buốt.

Tôi yêu Quảng Trị từ khi đó
Và không biết khi nào thì hết yêu…

(Trích trường ca)


MINH TỰ
(Ngày cuối năm 2010)


***

Tôi đã yêu vùng đất đó trước khi biết đến hai tiếng Quảng Trị. Cái tên vừa rất lạ mà như đã quá thân quen với đứa học trò tuổi mười lăm, khi tôi bước chân vào khu nội trú chuyên văn tỉnh Bình Trị Thiên nằm ở phía sau trường THPT Hai Bà Trưng (Huế). Bấy giờ là tháng 9 năm 1984, có lẽ đó là lần đầu tiên tôi tiếp xúc với một “loại người” được giới thiệu là “người Quảng Trị”. Nói cho trung thực thì lúc đó tôi không thiện cảm lắm với mấy người Quảng Trị. Hình như họ không phải là người Quảng Trị như tôi nghĩ. Theo cách nghĩ của tôi thì người Quảng Trị phải là người chân chất, thẳng thắn và mạnh mẽ. Không hiểu sao tôi cứ nghĩ như thế, dù không có một căn cứ nào cả. Đại loại đó là đòi hỏi của tôi, một cậu bé mười lăm tuổi ngây thơ, luôn đồng nghãi Quảng Trị là chiến tranh và con người nơi đó là người thật nhất. Như tôi đã trần tình, cũng là vì tôi yêu Quảng Trị trước khi biết đến Quảng Trị, và tất nhiên trước khi gặp người Quảng Trị.
            Sau vài tháng thi thố chữ nghĩa, tôi nhận ra hình như người Quảng Trị không được giỏi văn chương cho lắm. Trong đám học trò chuyên văn hồi đó thì mấy người Quảng Trị rất là tỉnh táo, lý lẽ chặt chẽ, chữ nghĩa chắt nịch không dư không thiếu một chữ. Đặc biệt là cách phát âm của họ, tôi lúc đó cũng chẳng có căn cứ gì để mà xác định, nhưng tôi cảm giác họ phát âm tiếng Việt rất chính xác. Sau này khi học môn ngữ âm học với giáo sư Vương Hữu Lễ (ở khoa Văn ĐH Tổng hợp Huế), tôi mới thấy cái điều mình nghĩ hồi đó là không sai: người Quảng Trị phát âm tiếng Việt rất chính xác. Chính xác nhất là các âm cuối của âm tiết “ăn” và “anh”. Âm tiết “ăn’ họ phát âm là “anh” (như anh em), âm tiết “anh” họ phát âm là “ênh”. Dân Huế bọn tôi (và có lẽ cả miền Nam) đều vô tư “ăng” và “anh” mà cứ nghĩ nói như mình mới sang !
            Cách phát âm của người Quảng Trị đã cho thấy rẩt rõ tính cách của họ: chính xác, rõ ràng. Ngôn ngữ thì phải chính xác, nhưng văn chương  như thế thì còn gì là văn chương !
            Và cứ thế, trong đám học trò chuyên văn chúng tôi hồi đó, mấy người bạn Quảng Trị tự nhiên hình thành một bản sắc riêng, nhưng nói chung là không được văn chương cho lắm. Đối nghịch với đám chuyên văn người Huế chúng tôi, đứa nào cũng mơ màng, bay bổng. Nói năng cũng nói cho thật chữ nghĩa văn chương, mở miệng ra là “Có một điều gì đó...” rất mơ hồ lãng đãng. Thầy giáo Nguyễn Văn Hóa chủ nhiệm lớp 10 chuyên văn của tôi lại là người Quảng Trị, vì vậy, thầy liên tục đả phá cái kiểu lập luận “Có một cái gì đó…”. Mỗi lần đọc bài luận của đứa nào đó viết “Có một cái gì đó…”, vậy là thầy liền đem ra nêu trước lớp: “cái gì đó là cái gì ? Câu cú thật mơ hồ. Tôi đề nghị từ nay các em phải bỏ cái lối viết như thế này”. Nhìn cái vẻ mặt lạnh lùng và thất vọng của thầy, chúng tôi đứa nào cũng sợ, không dám nhận là câu của mình. Cho đến bây giờ , khi gặp  lại nhau sau mấy mươi năm vẫn chưa ai chịu nhận là tác giả của cái câu đó. Tôi thì chắc chắn rằng câu đó không phải của người Quảng Trị, và cũng chắc chắn rằng tác giả của nó là một trong những đứa Huế mà thôi.
            Thật là vô lý, văn chương mà buộc phải chính xác. Trong một lần thầy trò nói chuyện thân mật bên ngoài giờ học, tôi mới thắc mắc với thầy và được giải thích:  “sáng tác văn chương thì cần mơ màng, lãng đãng; còn khoa học về văn chương thì không thể như thế. Các em viết bài bình luận về bài thơ thì phải khác với sang tác một bài thơ, và bình luận thì phải chính xác chứ !”. Thưa thầy, em đã hiểu, người nghệ sĩ sáng tác về “một cái gì đó” thật mơ hồ, nhưng người phê bình thì phải gọi tên nó là cái gì đó chứ. Tôi nghĩ người Quảng Trị nếu làm phê bình văn học chắc sẽ thành công hơn !...
            Đầu năm học 1985 - 1986, toàn bộ khối chuyên văn chuyển sang trường Quốc Học, nhập chung với khối chuyên toán và lý vốn có sẵn ở đó, để thành khối chuyên tỉnh Bình Trị Thiên (không hiểu sao khối chuyên Anh thì vẫn còn ở lại Hai Bà Trưng). Khu nội trú của chúng tôi là ngôi nhà nằm sát sân vận động, nghe bảo nguyên nó là thư viện, bây giờ thì đã giải tỏa và thay vào đó là một khán đài. Trong ngôi nhà chia làm ba gian lớn, chuyên toán và chuyên lý ở hai bên, chuyên văn ở giữa. Có lẽ các thầy quản lý cứ nghĩ bọn chuyên văn nói nhiều nên cho nó ở giữa để chuyên tóan và lý nó kèm hai bên cho đỡ ồn. Nhưng hóa ra không phải vậy. cái gian giữa ấy nó cứ rì rầm, lầm lũi suốt ngày; trong khi hai gian bên thì ào ào như cái chợ. Và trong số những tiếng nói ào ào ấy có rất nhiều tiếng Quảng Trị. Thằng bạn cùng quê với tôi học chuyên toán nói trong lớp tao chỉ có vài thằng Huế còn lại là Quảng Trị và Quảng Bình. Hắn nói có vẻ khâm phục:”Quảng Trị cực như rứa, không biết lấy chi để học mà răng mấy thằng Quảng Trị thông minh thiệt, nhất là bọn Triệu Hải !” (tên của huyện Triệu Hải bấy giờ ghép bởi hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng).
            Trong nhóm chuyên tóan người Quảng TRị ấy tôi ấn tượng nhất là anh chàng có cái  tên rất ương ngạnh: Cáp Văn Cẩm. Ấn tượng là bởi vì tôi chẳng thấy hắn học hành chi cả. Học buổi sáng thì buổi chiều đút tay túi quần đi chơi. Đôi dép lào lẹt xẹt và cái dáng lùi xùi, áo quần thì luộm thuộm, không ai nghĩ đó là học sinh chuyên toán Quốc Học. Anh chàng này nỏi tiếng với trò đi rình các cặp tình nhân hay tâm sự dưới các gốc cây phía sau trường Quốc Học. Một lần thấy anh ta chạy về hét toáng lên: “Tuyệt vời ! Tuyệt vời !”. Hóa ra anh chàng vừa khám phá được “bí mật tuyệt vời” của các người đẹp trong đội văn nghệ nhà trường, do tình cờ phát hiện một “khán đài” phía sau hậu phòng sân khấu, nơi diễn viên thay trang phục… Vậy mà trong danh sách đội tuyển toán lớp 9 của tỉnh được chọn đi thi toàn quốc năm đó có tên Cáp Văn Cẩm. Nhưng cũng mấy tháng sau thì không thấy anh ta đâu nữa. Mấy đứa bạn chuyên toán nói hắn nhảy tàu đi Nam rồi. Nhà hắn nghèo lắm, lúc mô cũng thấy hắn bày chuyện tiếu lâm, chứ hắn buồn lắm. Bẵng đi một thời gian dài, khi tôi chuẩn bị tốt nghiệp đại học thì thấy hắn vô nhập học năm thứ nhất ĐH Tổng hợp Huế ngành Hóa thì phải. Hùng Đen thấy hắn liền nhận ra nhau mừng rỡ lắm.
            Hùng Đen tức nhà báo Phạm Xuân Hùng (VTV Đà Nẵng), tức nhà thơ Từ Dạ Thảo, cũng là một người “rất Quảng Trị”. Ít tai biết rằng Hùng Đen nguyên là học sinh chuyên toán tỉnh Bình Trị Thiên ở trường Quốc Học (lớp 9 chuyên toán niên khóa 1983-1984, trước đó thì khối chuyên cấp 2 học ở trường Nguyễn Chí Diểu). Hùng Đen học trước Cáp Văn Cẩm hai lớp, ngang với niên khóa của tôi, nhưng khi tôi chuyển từ Hai Bà Trưng sang thì Hùng Đen đã rời khỏi cái “tổ” nội trú phía sau trường Quốc Học. Hắn cũng tự nhiên đang học ngon lành vậy thì nổi hứng nhảy tàu đi Nam y như Cáp Văn Cẩm. Rớt xuống ga Giá Rai ở Bình Thuận, sống vất vưởng ở sân ga, đi bán nước trà đá, được một anh công nhân đường sắt cưu mang, rồi sau đó tìm về Long Khánh với bà o ruột. Gia đình được tin “tìm thấy hắn rồi” thì anh trai nhảy xe vào kéo cổ về đi học ở trường vừa học vừa làm Tân Lâm. Hắn nói với tôi chuyến đi đó là nhằm thực hành những điều mà hắn đọc được trong rất nhiều cuốn sách có tựa đề “Cuộc phiêu lưu…” của nhà xuất bản Kim Đồng như: Cuộc phiêu lưu của Tom Xoi - ơ, Cuộc phiêu lưu của Pin-gơ-lơ… Sau chuyến thực hành đó, hắn vẫn học toán nhưng có vẻ như bắt đầu  mơ mộng, nên thi trượt đại học Kinh tế. Năm sau hắn chuyển sang thi khối C thì đậu thủ khoa vào ngành văn ĐH Tổng hợp Huế. Hắn viết truyện ngắn rất hay, làm thơ rất lãng mạn, nhưng tư duy thì vẫn logic như toán học và chính xác như Quảng Trị. Phát âm thì âm nào ra âm đó, nói năng thì chữ nào chắc chữ đó, viết lách thì câu nào ra câu đó. Sống thì cái gì ra cái đó, “tình ra tình, lý ra lý”, “môn ra môn, khoai ra khoai”. Phán xét mọi việc thì riết róng, nhưng kết cục vẫn dùng cái tình để hóa giải. Vậy mà răng hắn lại làm thơ được mới lạ ! Nhưng sự thật thì anh chàng Quảng Trị này đã làm thơ và rất thành công với “môn phái’ này.
            Nhưng trong thâm tâm tôi vẫn nghĩ người Quảng Trị làm toán vẫn thành công hơn làm thơ. Thật lạ là đến nay trong hàng các nhà tóan học lừng danh của Việt Nam, chưa thấy ai là người Quảng Trị ?  Nếu vậy thì điều đó sẽ hiện thực trong tương lai, với điều kiện tỉnh nhà Quảng Trị phải khai thông cái “mạch toán”. Còn mạch thơ, cứ để cho nó chảy tự nhiên như hiện nay (có khá nhiều nhà thơ Quảng Trị rất nổi tiếng). Như vậy, cái tư duy chính xác đến mức khô khốc như gió Lào sẽ được dung hòa bằng những giai điệu tha thiết của câu hò Hiền Lương, của màu xanh Trà Lộc, của hoa quì vàng Khe Sanh, của một sớm mai dịu mát Lao Bảo…
      
Huế, ngày cuối năm 2011
MINH TỰ
         


           



                        
READ MORE - Minh Tự - CÚI ĐẦU TRƯỚC QUẢNG TRỊ

QUAY VỀ YÊU THƯƠNG - Thơ Hồng Tâm



                Tác giả Hồng Tâm




QUAY VỀ YÊU THƯƠNG

Mẹ cha ơi mấy năm rồi
Lòng đau đáu còn ngậm ngùi nhớ thương
Giờ con mái tóc pha sương
Nếp nhăn trên trán tàn nhang đồi mồi

Con mưu sinh mong đổi đời
Lằn roi vết chém trên người con đau
Tìm trong lục bát ca dao
Lời cha mẹ dạy con nào dám quên

" Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra "
Quê hương là bến là nhà 
Nơi nương tựa có mẹ cha đợi mình

                             HỒNG TÂM
READ MORE - QUAY VỀ YÊU THƯƠNG - Thơ Hồng Tâm

RU CON - Thơ Đặng Xuân Xuyến





RU CON
- Với con yêu Đặng Tuấn Hưng -

Con mỗi ngày mỗi lớn
Mình mỗi ngày già đi
Tóc đầy thêm sợi bạc
Đêm trở mình nhiều hơn.

Lặng nhìn con nằm ngủ
Ngổn ngang mối tơ vò
Ầu ơ... Thương cái ngủ...
Giấu nỗi buồn trong thơ.

Giận “người lớn” dạy hư
Khiến con thơ phải khổ
Con níu vào giấc ngủ
Kiếm nụ cười trong mơ.

Con như búp non tơ
Cần đời cha bóng cả
Cha đã qua mùa hạ
Chở che con mấy mùa?

Ầu ơ... Ơi cái ngủ
Ngủ ngoan nào con yêu...


ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Hà Nội, đêm 20 tháng 08 năm 2013


READ MORE - RU CON - Thơ Đặng Xuân Xuyến

TÌNH ĐỒNG ĐỘI - Nguyễn Đình Nguộc



                Hoa đăng trên dòng sông Thạch Hãn 



      TÌNH ĐỒNG ĐỘI  
      (Cảm nhận bài thơ “Bên bờ Thạch Hãn”)

       BÊN BỜ THẠCH HÃN

       Có một ngày in mãi trong tôi
       Mắt rơi lệ - Bờ sông Thạch Hãn
       Hoa lục bình đôi bờ sông trắng
       Đồng đội tôi chìm chưa sang được bờ Nam. 

       Ấy là ngày nghe tiếng rít đạn bom
       Nơi Thành Cổ, yết hầu nghẹn đắng
       Đồng đội tôi quần nhau với giặc
       Suốt một tuần thiếu đạn, thiếu ăn. 

       Giặc tuần tra dày đặc mặt sông
       Nơi ém quân lòng như lửa đốt
       Dẫu chưa quen vẫn như ruột thịt
       Giữa chiến trường ai cũng thương nhau.                 
                    Tác giả: Nguyễn Quang Khả

Trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, người chiến sĩ trực tiếp đối mặt với quân thù là người phải chịu đựng gian khổ, hy sinh nhiều nhất. Để giành chiến thắng trước kẻ thù mạnh hơn ta gấp bội, mỗi chiến sĩ của chúng ta không chỉ có tinh thần chiến đấu dũng cảm, giữ vững kỷ luật mà còn phải biết đoàn kết, hợp đồng tác chiến cùng đồng đội. Tình thương yêu đồng đội trong cuộc chiến đấu một mất, một còn với quân thù để bảo vệ Đất nước thật thiêng liêng và cao cả! Bởi vậy, tôi thật sự xúc động khi đọc bài thơ “Bên bờ Thạch Hãntrong tập thơDấu chân của nhà thơ Nguyễn Quang Khả.
Bài thơ theo thể tự do với 3 khổ, 12 câu thơ đã đưa chúng ta trở lại ký ức về trận chiến đấu ác liệt giữ thành cổ Quảng Trị mùa hè năm 1972 rực lửa. Mở đầu bằng những câu thơ đầy xúc cảm:

          “Có một ngày in mãi trong tôi
          Mắt rơi lệ - Bờ sông Thạch Hãn
          Hoa lục bình đôi bờ sông trắng
          Đồng đội tôi chìm chưa sang được bờ Nam.”

Con sông Thạch Hãn cũng bình thường như mọi con sông khác trên dải đất niền Trung, bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn hùng vĩ và chảy ra hòa chung nước Biển Đông nhưng trở nên nổi tiếng bởi sự hy sinh của biết bao liệt sĩ khi vượt sông vào chiến đấu giữ thành cổ Quảng trị mùa hè năm 1972 lịch sử. Khi chảy qua thị xã Quảng Trị, bên bờ Bắc sông Thạch Hãn là bên bồi còn bờ Nam phía Thành Cổ là bên lở nên bờ sông thẳng đứng, khó vượt qua. Tại Pari, cuộc hòa đàm đang vào giai đoạn căng thẳng. Nếu ta giữ vững được thành cổ Quảng Trị sẽ có lợi cho hòa đàm, sớm kết thúc chiến tranh, và ngược lại. Bởi vậy ta cố giữ, giặc cố chiếm từng tấc đất nên cuộc chiến đấu ở đây càng trở nên quyết liệt. Dưới mưa bom bão đạn của Mỹ- ngụy, hơn 80 ngày đêm chiến đấu giữ Thành, mỗi đêm một đại đội (khoảng 100 người) được lệnh vượt sông Thạch Hãn sang chi viện cho các đơn vị đang chiến đấu, bù đắp số chiến sĩ thương vong trong ngày. Đơn vị chiến đấu của tác giả có lẽ là “thê đội 2” có nhiệm vụ yểm trợ để đơn vị bạn vượt sông nên đã tận mắt nhìn “Đồng đội tôi chìm chưa sang được bờ Nam”mà bất lực không thể làm gì được để cứu đồng đội mình vì chưa được lệnh. Ém quân bên bờ bắc sông Thạch Hãn, tác giả không cầm lòng được trước sự hy sinh của đồng đội, cố cắn chặt hàm răng, kìm nén đau thương mà nước mắt vẫn tuôn trào.“Mắt rơi lệ” tiễn đưa đồng đội bị thương vong bởi hỏa lực ác liệt của quân thù... đang chìm dần giữa dòng sông. Đối với anh bộ đội Cụ Hồ, khi đã rơi lệ là biểu hiện của đau thương tột độ! Hình ảnh “hoa lục bình đôi bờ sông trắng” tưởng như bình thường, rất ngẫu nhiên, nhưng chắc không phải vậy. Tôi có cảm giác đây là hình ảnh chọn lọc rất đắt của tác giả bởi màu trắng theo người Việt, đó là màu đau thương, mất mát. Phải chăng thảm hoa lục bình trắng là dải băng tang đồng đội, đồng bào tiễn đưa những chiến sĩ ưu tú đã hy sinh? Máu của chiến sĩ hy sinh trong 81 đêm vượt sông chiến đấu đã nhuộm đỏ dòng sông Thạch Hãn! Tôi bỗng nhớ hai câu thơ của một chiến sĩ giữ thành Quảng Trị, may mắn được sống sót, khi về thăm chiến trương xưa cảm tác, gây xúc động bao người: “Thuyền xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ/ Dưới sông còn đó bạn tôi nằm...”
Hai câu thơ trên đã được khắc vào bia đá trên bến Thả hoa bên bờ bắc dòng sông Thạch Hãn, nhắc nhở các thế hệ mai sau về một thời máu lửa .                             

         “Ấy là ngày nghe tiếng rít đạn bom
         Nơi Thành Cổ, yết hầu nghẹn đắng
         Đồng đội tôi quần nhau với giặc
         Suốt một tuần thiếu đạn, thiếu ăn.”

Trong chiến dịch bảo vệ thành cổ Quảng trị các chiến sĩ của chúng ta đầy quả cảm và ý chí chiến đấu kiên cường. Nhưng, trước bom đạn vô cùng ác liệt của Mỹ- ngụy nên quân ta bị tổn thất rất lớn. Bao chiến sĩ của chúng ta đã anh dũng hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ. Tôi còn nhớ khi đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tố cáo: Đế quốc Mỹ dùng đủ loại bom hiện đại, trừ bom hạt nhân dội xuống khu vực thành cổ Quảng trị trong 81 ngày đêm với lượng TNT tương đương 3 quả bom nguyên tử chúng thả xuống thành phố Hi- rô- xi- ma của Nhật Bản năm 1945. Thời gian này tôi đang chiến đấu ở mặt trận khác, nghe tin qua radio mà lòng quặn đau thương đồng đội. Bởi vậy, tôi chia sẻ với tác giả- người trực tiếp ngày đêm “nghe tiếng rít đạn bom” của quân thù nơi Thành  Cổ mà “ yết hầu nghẹn đắng” thương đồng đội dù chưa biết mặt, biết tên phải ngày đêm“quần nhau với giặc” trong điều kiện “thiếu đạn, thiếu ăn”. Đọc câu thơ: “Đồng đội tôi quần nhau với giặc” chúng ta cảm động trước tình cảm của người chiến binh thấu hiểu, chia sẻ bao gian khổ, hy sinh của đồng đội trong trận chiến đấu không cân sức với quân thù giữ từng tấc đất thiêng liêng nơi Thành Cổ mà không thể vào chia lửa cùng đồng đội.
“Giặc tuần tra dày đặc mặt sông/ Nơi ém quân lòng như lửa đốt”.
Không chỉ bom đạn phi pháo ác liệt, Mỹ- ngụy còn huy động một lực lượng lớn binh lính hải, lục, không quân, pháo binh, được trang bị hiện đại ngày đêm tuần tra, pháo kích, dội bom xuống dòng sông Thạch Hãn ngăn chặn quân ta tiếp tế và chi viện cho các đơn vị bảo vệ Thành Cổ. “Giặc tuần tra dày đặc mặt sông”, ta chỉ có thể vượt sông vào ban đêm. Nhưng pháo sáng địch bắn suốt đêm. Quân ta phải lợi dụng khoảng tối giữa hai đợt pháo sáng để vượt qua khoảng trống trên bờ sông, dựa vào đám lục bình (miền Bắc gọi là bèo tây) trên mặt sông để ngụy trang che mắt địch. Bởi vậy số chiến sĩ thương vong trên dòng sông Thạch Hãn là không nhỏ. Chứng kiến sự hy sinh của đồng đội trước bom đạn tàn bạo của kẻ thù những đồng đội “nơi ém quân” chờ lệnh xuất trận lòng quặn đau “như lửa đốt” muốn xông ra chiến đấu sống mái với quân thù, cứu đồng độiNhưng sức người sao chống lại được với bom đạn của kẻ thù. Họ đành bất lực trong đau đớn đến cạn nước mắt nhìn đồng đội hy sinh.
“Dẫu chưa quen vẫn như ruột thịt/ Giữa chiến trường ai cũng thương nhau”.Hai câu kết của bài thơ thật xúc động, đã nói lên tất cả! Nó tự nhiên và giản dị như chân lý! Chỉ những người đã trải qua cuộc chiến đấu vào sinh ra tử với quân thù mới thấm thía đầy đủ ý nghĩa của câu thơ. “Giữa chiến trường ai cũng thương nhau”.Giữa sống, chết liền kề nếu không thương nhau thì sao chiến thắng quân thù? Trên chiến trường không ít những tấm gương tự nguyện nhận nguy hiểm, hy sinh về mình để đồng đội được sống; lấy thân mình chắn đạn thù cứu thương binh... Đó là những hành động cao cả, dũng cảm, anh hùng! Đó cũng chính là biểu hiện sinh động nhất của nghĩa tình đồng đội trong chiến đấu, góp phần tạo nên sức mạnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam của chúng ta. 
Bài thơ xinh xắn, tứ thơ mạch lạc, hình ảnh trung thực, sinh động làm xúc động bạn thơ về nghĩa tình đồng đội trong chiến đấu góp phần tô thắm truyền thống và  phẩm chất của bộ đội Cụ Hồ.    

                                                             Hà Nội, ngày 27-7-2015 
                                                             Ts.Nguyễn Đình Nguộc. 

READ MORE - TÌNH ĐỒNG ĐỘI - Nguyễn Đình Nguộc

TÌNH MẸ MÊNH MÔNG - Thơ Nhật Quang

Hiển thị image (1) (1).jpg
          Tác giả Nhật Quang



TÌNH MẸ MÊNH MÔNG

Tay gầy sạm nắng
vất vả đong đầy
Mẹ bán lưng cho trời, bán mặt cho đất
In hằn trên mắt dấu thời gian

Mẹ tôi gánh một đời lầm than
Khắp phố chợ,đồng chiêm nắng cháy
Đổi bát cơm đầy,tấm áo cho con
Sớm chiều mưa nắng,dáng mẹ héo hon

Mái đầu xanh sương bụi mờ phủ bạc
Chắt chiu đời con trọn ước mơ hồng
Ôi ! Lòng Mẹ như biển cả mênh mông
Khúc hát ru con đến tận cùng nỗi nhớ

Vu Lan về,con nghe lòng trăn trở...
Tháng bẩy mưa ngâu hay nước mắt nhạt nhòa
Con ray rứt, bóng mẹ đã khuất xa
Đây nén hương trầm ngan ngát nở hoa

Con thành tâm,thắp nỗi lòng dâng lên mẹ
Dù thời gian,năm tháng hóa hư vô
Mẹ ơi ! Công sinh dưỡng muôn đời con ghi khắc.

                                                        Nhật Quang

READ MORE - TÌNH MẸ MÊNH MÔNG - Thơ Nhật Quang

LỤC BÁT BA CÂU - Thơ Đoàn Thuận


                   

      Tác giả Đoàn Thuận


LỤC BÁT BA CÂU
[Lục Bát Tam Cú]
________________

TỪ ĐÓ
đêm từ lửa cuối hoàng hôn
trăng đầu non lạnh từ hồn nhiên lên
cõi này cõi nọ ngủ quên

người từ cát bụi mông mênh
về ngang đời tịnh gọi tên nỗi buồn
cho ngàn lá rụng sau truông

dòng sông từ đó xa nguồn
lời thơ từ đó mang hồn nước mây
và ta tự có tháng ngày.

THOÁNG NGHĨ
ta đâu khác hạt bụi nâu
lăn dài vào cõi thẳm sâu đọa đày
buồn vui khốn khó quắt quay.

CHIẾC BÓNG
hiên ngoài rơi chiếc lá khô
sợi trăng chạm lạnh hồn cô đơn chiều
ta và bóng ngó liêu xiêu.

                               ĐOÀN THUẬN

READ MORE - LỤC BÁT BA CÂU - Thơ Đoàn Thuận