Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Tuesday, December 20, 2016

TÂY NINH VÀNG HOA NẮNG - thơ Trúc Thanh Tâm



 TÂY NINH VÀNG HOA NẮNG
 
  Anh ôm những buồn, vui lẫn lộn
  Tháng ngày trôi, quên, nhớ không rời
  Qua Cầu Quan phố đường đã khác
  Tòa Thánh vàng vạt nắng chiều rơi

  Ghé Bàu Năng thơm hương đất mới
  Gặp lại em mà ngỡ trong mơ
  Gái Tân Uyên mắt buồn vẫn thế
  Hết chiến tranh xa tới bây giờ

  Thời Trung học mê làm văn nghệ
  Đi Củ Chi, Định Quán vài ngày
  Cẩm Giang vẫn sương mù buổi sáng
  Lên Núi Bà thương tóc ai bay

  Em Gò Dầu theo chồng xa xứ
  Bạn bè anh già khú hết rồi
  Với Hòa Thành còn bao kỷ niệm
  Rượu nghĩa tình như đã mềm môi

  Đêm Trảng Bàng, nhớ mùa trăng cũ
  Nụ cười em nở giữa hồn thơ
  Anh quá giang đường xuân hoa nắng
  Còn em yêu đứng nép cửa chờ!

  TRÚC THANH TÂM 

  (Châu Đốc)


READ MORE - TÂY NINH VÀNG HOA NẮNG - thơ Trúc Thanh Tâm

NHÀ VĂN ĐI TRẠI "VIẾT" - Thơ vui của Nguyễn Khôi


   
                         Nhà thơ Nguyễn Khôi


Lời thưa : Trang Web "Tễu. blog" ngày 20/12/2016 có đăng bài " Sự im lặng của bọn Nhà văn Việt Nam" của Nhà văn Phạm Ngọc Tiến (nổi tiếng với các kịch bản film "ma làng", Chuyện làng Nhô"...) rất tâm huyết , Nguyễn Khôi xin có đôi vần phúc đáp :


NHÀ VĂN ĐI TRẠI "VIẾT"
   (Tặng Phạm Ngọc Tiến)
                    
Ngân sách cấp tiền : Nhà văn đi Trại "viết"
Viết gì đâu ? - hầu hết là "chơi " ? !
Quá từng trải : hiểu thế nào là sống/ chết
theo Nghị Quyết thì "hên"...
theo "lề trái"...toi đời !
                       
Đã là Người phải "hay" thời thế :
- Mình là ai và đang đứng ở đâu ?
Muốn yên thân, hãy coi chừng "miệng thế"
Bao con mắt " xoi " từng chữ, liệu "thích đùa"...
                        
Để yên thân, thôi thì "im thin thít"
"Im lặng là vàng" ta lại đọc Kafka (1)
- Ừ vẫn viết, Nhà văn nào chả viết
Viết những điều ai cũng biết từ xưa...!
                         
Vui đi Trại... (Tiền dân đóng thuế đấy)
- kỵ húy Formosa, quên lũ lụt lụt miền Trung...
Tránh viết những gì mà mình thấy "hiểm"
Loáng thoáng, lăn tăn chút sóng biển Đông ? !
                         
ÔI Nhà văn ta - lấy gì mà "hội nhập " ?
Ngoan / ngoan / ngoan... quyết chí tiến hàng đầu
Đi Trại nhé - năm sau ta lại gặp
Hội mình vui : thoải mái chuyện tào lao.

          Trại viết văn Đại Lải , 6-9-2016
                  NGUYỄN KHÔI
                 (Nhà văn Hà Nội)
-----
(1) Franz Kafka , nhà văn của thể loại văn học phi lý.

READ MORE - NHÀ VĂN ĐI TRẠI "VIẾT" - Thơ vui của Nguyễn Khôi

XUỐNG NÚI - Truyện ngắn của Thủy Điền


    



          XUỐNG NÚI

     Trong buổi tiệc đám giỗ ông già vợ. Vô tình mấy lời nói chơi bỗng trở thành lời thấu cấy, lão tự dưng cầm đủa gắp cục chả thịt bỏ vào chén và thêm vào vài miếng đồ chua rồi ngồi ăn ngon lành. Khiến cả bàn trơ mắt nhìn lão, sao hôm nay lão trở ton một cách dễ dàng thế. Đang vui vẻ, tự dưng cả bàn trầm xuống. Lão bảo:
-Mọi người sao không ăn đi? Mà nhìn tôi gớm thế.
Hai thằng em vợ đứng dậy cản.
-Anh hai nầy, tụi em mới nói chơi thế mà anh đã tự ái rồi, thôi đi anh, đừng ăn thịt nữa. Lỡ có chuyện gì không tốt đâu anh.
-Mặc tôi, hai cậu cứ tự nhiên đi, chuyện của tôi, tôi biết, khỏi cản ngăn.
-Em lo cho anh thôi, tùy anh.
-Cám ơn hai cậu.

     Lão là người làng Hòa Hảo- quận Tân Châu- Châu Đốc nay là thị trấn Phú Mỹ- huyện Phú Tân- tỉnh An Giang. Đạo Hòa hảo, đã ăn chay trường từ thuở nhỏ và cả gia đình lão cũng thế. Trước đây lão đã có một đời vợ và được hai đứa con. Không may, năm Mậu thân 1968 giặc tràn về làng đốt nhà, bắn phá và vợ lão qua đời từ đó. Sau những năm ấy lão sống bằng nghề mua bán sỉ cá đồng, mỗi tuần lão đi thu gom của dân làng rồi từ Châu đốc chở bằng ghe xuống Mỹ tho bỏ mối. Qua nhiều năm buôn bán, bà con thấy lão góa vợ, giỏi giang nên làm mai cho lão một người phụ nữ đứng tuổi và lão đã lập gia đình lần thứ hai với người ấy.

     Tuy gọi là lão, nhưng lão còn trẻ, tuổi đời chỉ mới ba lăm. Đi đâu, làm gì lão cũng chỉ mặc bộ đồ nâu như thầy Sải ở chùa và búi tóc như đàn bà nên người ta quen miệng thường hay gọi là lão cho dễ và lão cũng chấp nhận lời gọi ấy.

     Năm nào cũng thế, mỗi lần có đám tiệc trong nhà hay dòng họ mọi người cũng đều nấu riêng cho lão vài món chay nho nhỏ để lão ăn, còn việc ăn uống hàng ngày là lão đều có vợ lo lấy, vì lão là người ăn chay trường. Bỗng dưng hôm nay lại khác, đang vào tiệc nhậu, ngon miệng ly ra, ly vào tự nhiên hai thằng em vợ lão hứng chí thốt lên mấy câu không hiểu vô tình hay cố ý “ Hôm nay đám giỗ ba lần thứ tư có mặt anh tham dự, nếu anh mà dám ăn cái đầu gà nầy em anh sẽ uống thế anh một xị ngay “. Lão vừa nghe xong, ngồi cười cười, rồi tự động gắp cục chả thịt và mấy miếng đồ chua bỏ vào chén ngồi ăn ngon lành, chẳng thèm đá động gì đến ai. Hai thằng em vợ trố mắt nhìn lão và cản ngăn. Lão bảo: Cứ để anh tự nhiên, lẽ ra anh phải ăn cái đầu gà mà hai cậu vừa tặng anh, nhưng anh không ăn vì sợ hai cậu phải gồng gánh hết một xị cùa anh thì mệt lắm, nên anh đành ăn tạm miếng chả thế thôi. Hai thằng em xanh mặt mà cũng chẳng có cách nào ngăn cản và cho rằng tất cả mọi chuyện xảy ra là do mình. Và, đặc biệt hơn là sau bữa đám giỗ nầy phải ăn nói thế nào để người chị cả của mình hiểu và thông cảm đây.

     Ngày hôm sau, hai thằng em vợ đích thân tới nhà lão xin lỗi về câu chuyện hôm qua, bước vào nhà hai thằng cứ thụt thò, thụt thò như ăn trộm, không biết lão và chị mình có phản ứng gì không. Nhưng không ngờ ! Lão ra mời vào, uống nước, nói ba điều, bốn chuyện. Hai thằng em xin lỗi lão lia lịa, nhưng lão gạt ngang và nói: Thú thật, từ ngày anh lấy chị của hai cậu làm vợ là anh đã có ý định xuống núi rồi. Nhưng không có cơ hội. Sẵn hôm qua hai cậu đã cho anh cơ hội ấy và anh phải cám ơn hai cậu nữa là khác.
-Rồi ba anh em đứng dậy, ôm nhau cười hì “Thế là anh hai đã xuống núi rồi phải không?
Vâng !
                                                                              Thủy Điền
                                                                             20-12-2016

READ MORE - XUỐNG NÚI - Truyện ngắn của Thủy Điền

NHỮNG THÀNH NGỮ CÓ XUẤT XỨ TỪ THƠ CỔ VÀ ĐIỂN CỐ (5) - Nguyễn Ngọc Kiên


     


       NHỮNG THÀNH NGỮ CÓ XUẤT XỨ TỪ THƠ CỔ 
                             VÀ ĐIỂN CỐ - PHẦN V 

(11) Bãi bể nương dâu
Thành ngữ “bãi bể nương dâu” nói về những thay đổi lớn trong cuộc đời và trong xã hội. Thành ngữ này bắt nguồn từ thành ngữ tiếng Hán “
滄海桑田” [thương hải tang điền], liên quan tới câu chuyện tiên Phật được lưu truyền rộng rãi trong dân gian. Tương truyền, thời Đông Hán có ông Phương Bình, học giỏi tài cao, thi đỗ đạt và được bổ nhiệm làm quan. Sau một thời gian thi thố với đời, Phương Bình đã bỏ quan đi tu. Sau đó, ông đắc đạo và trở thành Phật. Một lần Phật Phương Bình giáng xuống nhà Thái Kinh (người đời Hậu Hán) cho mời tiên nữ Ma Cô đến. Ma Cô nói với Phương Bình rằng: “接侍以来已见,东海三为桑田” [Tiếp thị dĩ lai dĩ kiến, Đông hải tam vi tang điền]; nghĩa là “Từ khi hầu chuyện với ông, tôi đã thấy bể Đông ba lần biến thành ruộng dâu”.

Câu chuyện này được lưu truyền rộng rãi trong dân gian và được người đời chắt lọc lấy cái tinh chất để phản ánh sự đổi thay của trời đất và cuộc sống. Trong văn học Trung Quốc, hình ảnh “bãi bể nương dâu” trở thành tứ cho nhiều câu thơ, bài thơ nổi tiếng. Chẳng hạn, trong một bài thơ của Tô Thức đời Tống có câu: “
不惊渤澥桑田变” [Bất kinh bột giải tang điền biến]. Nghĩa là: “Không sợ bể Đông biến thành ruộng dâu”. Cũng nhờ câu chuyện trên mà về sau trong tiếng Hán xuất hiện thành ngữ “滄海桑田” [thương hải tang điền].

Bài hát mở đầu và kết thúc bộ phim “Tây du kí” của đạo diễn Dương Khiết có tên “Ngũ bách niên tang điền thương hải”, nhạc Hứa Cảnh Thanh, lời Diêm Túc có đoạn:
五百年桑田滄海,
頑石也長滿青苔,
長滿青苔。
五百年桑田滄海,
頑石也長滿青苔,
長滿青苔。
只一顆心兒未死,
向往看逍遙自在,
逍遙自在。
哪怕是野火焚燒
[Ngũ bách niên tang điền thương hải,
Ngoan thạch dã trường mãn thanh đài,
Trường mãn thanh đài.
Ngũ bách niên tang điền thương hải,
Ngoan thạch dã trường mãn thanh đài,
Trường mãn thanh đài
Chỉ nhất khoả tâm nhi vị tử,
Hướng vãng khán tiêu dao tự tại,
Tiêu dao tự tại.
Na phạ thị dã hoả phần thiêu]

(Dịch thơ: Năm trăm năm vật đổi sao dời
Đá vô tri cũng ngậm ngùi rêu xanh,
Năm trăm năm! năm trăm năm!
Ngũ hành Sơn nặng, giam cầm thân ta.
Bao ngày bão tuyết sương sa
Chim bay hút bóng, mắt nhoà cánh chim…
Còn đây rừng rực trái tim,
Thương về chốn cũ dõi tìm tiêu dao.
Anh hùng ngang dọc Trời cao,
Sá chi lửa đốt, sợ nào giá băng.)
(Bản dịch Hoàng Tâm)
Tiếng Việt đã mượn thành ngữ này theo lối mượn ý dịch lời. Về ý nghĩa, “bãi bể nương dâu” cũng nói đến sự đổi thay thế sự với bao nỗi nuối tiếc, ngậm ngùi. Nó thường xuất hiện trong văn học cổ điển. Chẳng hạn, trong bài “Ai tư vãn” của Lê ngọc Hân khóc vua Quang Trung:
Phút giây bãi bể nương dâu
Cuộc đời là thế biết hầu nài sao.
Hoặc:
Khóc vì nỗi thiết tha sự thế
Ai bày trò bãi bể nương dâu.
(Nguyễn Gia Thiều - Cung oán ngâm khúc)

Trong khi sử dụng, các tác giả thường rút gọn “bãi bể nương dâu” thành “bể dâu” hay “dâu bể”. Dạng thức này sở dĩ tồn tại được vì nó vẫn có khả năng khiến cho người đọc liên tưởng tới điển tích đã nói trên. Trong kiệt tác “Truyện Kiều” Nguyễn Du đã không dưới hai lần dùng thành ngữ này ở dạng rút gọn:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
(Nguyễn Du - Truyện Kiều)
Cơ trời dâu bể đa đoan
Một nhà để chị riêng oan một mình
(Nguyễn Du - Truyện Kiều)

Gần nghĩa với “bãi bể nương dâu”, trong tiếng Việt còn có các thành ngữ “sông cạn đá mòn” và “vật đổi sao dời” (Xem thêm phần I của bài viết này). Những thành ngữ này đều nói về sự thay đổi lớn lao của cuộc đời, của sự thế, nhưng không có sắc thái ngậm ngùi, nuối tiếc như “bãi bể nương dâu”. Về phạm vi sử dụng, các thành ngữ “vật đổi sao dời”, “sông cạn đá mòn” thường chỉ nói về sự thay đổi của thiên nhiên, của trời đất trong sự so sánh với cái bất biến của tấm lòng son sắt, chung thủy. Chẳng hạn:
Dù cho sông cạn đá mòn
Bắc Nam ta vẫn là con một nhà
(Ca dao)
Đặc biệt, những thành ngữ này thường dùng trong những lời thề ước, chẳng hạn :
Dẫu rằng vật đổi sao dời
Tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh
(Nguyễn Du - Truyện Kiều)
Dù cho sông cạn đá mòn
Còn non còn nước vẫn còn thề xưa
(Tản Đà – Thề non nước)

(12) Muôn hồng nghìn tía
Thành ngữ “muôn hồng nghìn tía” (
万紫千红) [vạn tử thiên hồng], hình dung trăm hoa đua nở, nhiều màu rực rỡ, tạo nên cảnh sắc lộng lẫy, vô cùng tươi đẹp. Nghĩa bóng: vạn vật phong phú đa sắc màu ; cảnh tượng xã hội phồn vinh, thịnh vượng. Nó có xuất xứ từ bài thơ “春日” [Xuân nhật] của Chu Hy đời Nam Tống. Nguyên văn :
勝日尋芳泗水濱,
無邊光景一時新。
等閒識得東風面,
萬紫千紅總是春。
(Phiên âm : Thắng nhật tầm phương Tứ thuỷ tân,
Vô biên quang cảnh nhất thời tân.
Đẳng nhàn thức đắc đông phong diện,
Vạn tử thiên hồng tổng thị xuân.)
(Dịch nghĩa : Ngày đẹp trời, đi tìm hoa ở bến Tứ. Quang cảnh bao la mỗi lúc một đổi mới. Dễ gì nhìn thấy mặt gió đông. Muôn hồng nghìn tía đều thuộc về mùa xuân cả)
(Dịch thơ : Bến Tứ trời quang dạo gót chân,
Cảnh nào là cảnh chẳng thanh tân.
Gió xuân đã để người xem mặt,
Muôn tía ngàn hồng một sắc xuân.)
(Bản dịch của Nam Trân)
Trong tiếng Việt, “muôn hồng nghìn tía” thường xuất hiện trong các tác phẩm thơ hiện đại với các biến thể “nghìn tía muôn hồng”, “trăm tía nghìn hồng”. Chẳng hạn:
Tay em ôm ấp bên lòng
Thân em, nghìn tía muôn hồng cũng thua
(Xuân Diệu – Thân em)
Phố xá thênh thang mùa lễ hội
Trăm hồng nghìn tía vẽ tranh xuân
Riêng em yểu điệu màu thiên lý
Nón múa cho trời bỗng thêm duyên
(Mường Mán - Hương sắc tháng Giêng)
Người viết bài này, trong một lần thăm động Ngườm Ngao ở Trùng Khánh Cao Bằng, đã bị “hút hồn”, choáng ngợp trước vẻ đẹp kỳ bí của hang động, đã cảm tác:
Thác vàng, bạc giữa đài sen
Muôn hồng ngàn tía đua chen diệu kì!
(Nguyễn Ngọc Kiên – Thơ viết ở Ngườm Ngao)
……………..
      (còn nữa)
                                                         Nguyễn Ngọc Kiên

READ MORE - NHỮNG THÀNH NGỮ CÓ XUẤT XỨ TỪ THƠ CỔ VÀ ĐIỂN CỐ (5) - Nguyễn Ngọc Kiên

NIỆM KHÚC THU 1 - Thơ Châu Thanh Thủy



           Tác giả Châu Thanh Thủy


NIỆM KHÚC THU -1
(Tặng Người đàn ông của tôi!)

Qua thềm bóng nắng sẽ rơi
Qua sông gió sẽ hát lời tương tư
Yêu nhau buổi ấy mùa thu
Lá vàng rơi khẽ như ru lòng buồn
Hãy đừng để giọt lệ tuôn
Hãy chôn nước mắt vào hồn li tan
Người đi buổi ấy trăng ngàn
Mây xa níu lại, cỏ giàn bước chân.
Đừng quay lại, đừng phân vân
Có là li biệt cũng lần ấy thôi...


Ta trong dằng dặc cuộc đời
Dù tan - hợp , cũng là lời tình yêu ! 

                      Châu Thanh Thủy

READ MORE - NIỆM KHÚC THU 1 - Thơ Châu Thanh Thủy

Ở COSTA MESA NGHE CHUÔNG CHÙA - thơ Huy Uyên

Ảnh tác giả



Ở Costa Mesa nghe chuông chùa

Em có nghe tiếng chuông đổ buồn
Đêm ngoại-ô nghiêng soi ngôi chùa cổ
Phải chi hồi đó em cầm
Tình tôi ném ra biển cả.

Hỏi còn nhớ trong vườn hoa trái
Em đã trao tôi nụ hôn hồng
Môi cong đọng dấu son đỏ mãi
Để suốt đời thức nhớ từng đêm.

Em bỏ đi dể lại vết thương
Cả giấc mơ gởi linh-hồn ma quỷ
Con-mắt-hình-viên-đạn chưa quên
Trao lại em khi nào tìm gặp.

Ngã lưng bên đường tìm lại bóng
Rượu mềm môi dỗ cuộc tỉnh say
Ở cuối Costa Mesa một mình đứng lặng
Nghe rất xưa như có tiếng gọi đò.

Tôi sửng nhìn thiên-hạ quanh đây
Thôi tôi mất em từ dạo đó
Vờ vịt dỗ tôi giấc ngủ ngày
Đèn trên cao ngõ sầu cháy đỏ.

Bu quanh tôi trái tim bảo tố
Thổi tình tôi về cõi xa xăm
H.ơi xưa một thời diễm-ảo
Bơ vơ quanh đây
Trời đất LittleSaigon.

Huy Uyên
(tháng 12-16)  
READ MORE - Ở COSTA MESA NGHE CHUÔNG CHÙA - thơ Huy Uyên

KHÓI ĐÔNG -Thơ Hồng Thúy - Nhạc Lâm Kim Cương - Biểu diễn Lâm Dung - Hình ảnh Dương Quốc Định

READ MORE - KHÓI ĐÔNG -Thơ Hồng Thúy - Nhạc Lâm Kim Cương - Biểu diễn Lâm Dung - Hình ảnh Dương Quốc Định

CỔ ĐỘ - Thơ Trần Mai Ngân



                           Tác giả Trần Mai Ngân


CỔ ĐỘ

Hư hao về cổ độ
Tìm lại hình hài tôi
Trải lòng xưa tuế nguyệt
Dẫu đời bạc như vôi !

Khách lữ hành si ngây
Dáng hoa hình vô lượng
Vẫn hết ý hết lòng
Tình con sóng bềnh bồng...

Biết hư vô hoài mong
Đá mòn chờ bến sông
Vạn nghìn năm tuyệt vọng 
Sinh tử cũng một dòng

Cổ độ thôi tôi về
Trên đầu vòng nguyệt quế
Lỡ thủy chung câu thề
Nên chìm bến sông mê !

Lỡ thủy chung câu thề 
Nên chìm bến sông mê !

            Trần Mai Ngân

READ MORE - CỔ ĐỘ - Thơ Trần Mai Ngân

NGẮM BIỂN - Thơ Thủy Điền





NGẮM BIỂN

Chiều tắt nắng, cùng em dạo biển
Ngắm sắc trời, ngắm cả hoàng hôn
Ngắm thuyền nan về bến chạy dồn
Xa sóng biển, bọt tràn chân ướt

Rồi đêm xuống nhìn về phía trước
Ngồi ngắm trời hùng vĩ, đẹp xinh
Một màu xanh, xanh thẩm gợi tình
Đang lả lướt cùng mây với gió

Kìa ! Em hỡi. Hãy nhìn xa đó
Ánh dương hồng hiện rõ chân mây
Đang nhìn ta hai đứa tình đầy
Đang âu yếm bên bờ biển cát

Ôi ! Tuyệt quá, đêm về gió mát
Biển và trời hòa quyện bên nhau
Tình đôi ta thắm thiết một màu
Nghe sóng vỗ mà lòng hạnh phúc.
  
                               Thủy Điền

                              18-12-2016

READ MORE - NGẮM BIỂN - Thơ Thủy Điền

XÓM CŨ TRUNG HÒA - Thơ Nguyễn Khôi


   
                         Nhà thơ Nguyễn Khôi


XÓM CŨ TRUNG HÒA
         (Tặng Bùi)
                     
"Xóm cũ Trung Hòa, anh chưa lại 
Em đi hương khói , mái nhà rêu
Bờ hồ còn mãi trăng mười sáu
Tóc mẹ hình như bạc đã nhiều"   
Trích "Trai Đình Bảng" -1975
                    ***
                       
Xóm cũ Trung Hòa  - làng Đình Bảng
Lối "ao Làn"  sóng biếc mênh mang
Trưa tan học về Cây đa/ bến nước
Xuống bến chao chân cùng mấy cô Nàng...
                        
Xưa là Làng ngõ ngang, ngõ dọc
Qua nhà em tất phải đi vòng
Mấy chục năm đạn bom tàn khốc
Em phương trời...qua ngõ trống không...
                        
Giờ Làng đã lên phường, lên phố
"Cây đa/ bến nước" đã về Trời
là Thị xã của người tứ xứ
Về Làng toàn người lạ cả thôi .(1)
                         *
Người Đình Bảng mừng thời "mở cửa"
Sang Nga, sang Mỹ buôn bán hàng Tàu...
Vô tích sự là đứa đi "buôn gió"
để cho Làng thấm những nỗi đau.
                         
Xóm cũ Trung Hòa, nay qua chừng đã "biến"
Lạ cảnh, lạ người...chẳng biết tìm ai ?
Mình như kẻ lạc loài...không ai đón
Giữa Làng mình mà như khách vãng lai.

                 Quê Đình Bảng 15-12-2016
                               Nguyễn Khôi
----
(1) Về Làng gặp toàn người lạ / ra nghĩa trang gặp toàn người quen.   
           
READ MORE - XÓM CŨ TRUNG HÒA - Thơ Nguyễn Khôi

ĐẤT THIÊNG CHIÊU TỤ NGƯỜI TÀI - Hồi ký của Lâm Bích Thủy


                       
                                  Tác giả Lâm Bích Thủy



    ĐẤT THIÊNG CHIÊU TỤ NGƯỜI TÀI                                  

    Theo cha tập kết ra Bắc tháng 3/1955, chị em tôi mới lên 7 lên 8. Ở tuổi nhi đồng ấy chúng tôi đâu biết gì về quê hương. Nhưng những tên như Qui Nhơn Bàn Thành, An Nhơn, Đồ Bàn, Bình Định luôn âm vang trong tâm trí tôi, bởi ba tôi hay ngâm nga mấy câu “Trời Bình Định có thương em lẽ chiếc/Em nằm thương xanh biếc của trời buồn...”. Rồi, mùa đông này qua, mùa xuân kia lại đến; cứ thế dài mãi cho đến khi chúng tôi trở thành những người lớn.     

 Lớn lên, tôi nhận biết sâu sắc hơn về quê hương mình nên rất tự hào về Nó. Vì nhiều nhẽ; quê có đường thiên lý Bắc Nam với quốc lộ 19 và hai nhánh chính của sông Côn là cửa Tiền và Thạch Yến nối vùng cao nguyên giàu sản vật với thương cảng Thị Nại; phía nam có dãy Triều Sơn, phía đông nam có cụm tháp Bánh Ít án ngữ; phía Tây có danh thắng Hồ Núi Một. Phía đông bắc là tháp Phú Lốc cùng ngọn Thiêng Bút - là nơi hội tụ, giao hòa giữa người và trời đất. Trải qua bao cuộc bể dâu, núi Bút Thiêng đã, đang tiếp truyền thiêng khí của trời vào đất để tiếp sinh nhân kiệt, nối dài trang sử hào hùng cho An Nhơn mãi là một vùng đất tinh hoa của Bình Định. 
    Bình Định là tỉnh thuộc khu vực duyên hải miền Trung, Thiên nhiên đã ban tặng nơi đây một vùng non nước hữu tình, thơ mộng; một bên là núi non trùng điệp, một bên là biển rộng bao la. Giữa chúng là đồng bằng trù phú ngút ngàn màu xanh cây trái. Ở đâu lại có khung cảnh sơn thủy hữu tình đến vậy! Sự giao hòa quấn quýt giữa núi non, sông biển; sự gắn kết thân thiết giữa con người với cảnh sắc thiên nhiên từ ngàn đời đã làm nên cái hồn đất, hồn người rất riêng của thị trấn An Nhơn quê tôi là thế! Vì vậy mà dải đất này từ mấy trăm năm  đã chiu tụ những anh tài tuấn kiệt để rồi họ trở thành những anh hùng dân tộc như vua Quang Trung, Mai Xuân Thuởng...hay những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ tên tuổi lớn như Nguyễn Xuân Vinh, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế  Lan Viên Phạm Hổ v.v

 Thuở ấy, dẫu là thời chiến nhưng nhà tôi luôn là điểm hẹn của những người con mang trong mình khát vọng hòa bình. Từng khuôn mặt, giọng nói, cử chỉ của họ, lần lượt lướt qua và đọng lại trong tâm trí tôi. Với ai ba tôi cũng đầy ắp tình thương yêu. Ông thuộc cử chỉ, tính cách, giọng nói từng người. Giữa đêm khuya, tiếng gọi cửa khe khẽ “Yến Lan ơi, m ca cho mình với!” ông nhận ra “Tế Hanh đó à”, hay tiếng cười đều đều cùng thanh trầm của chú Nguyễn Thành Long, hoặc giọng trữ tình của chú Phạm Hổ. Tấm thịnh tình của ba đối với bạn bè đã lan tỏa sang cả chúng tôi. Chị em tôi mãi nhớ những dấu ấn về họ!

Thuở ấy, gia đình tôi bị qui là Tiểu tư sản thành thị. Trong ngôi nhà tranh, vách đất, nền có chỗ tráng xi măng, có chỗ là nền đất do đi lại nhiều trở nên láng coóng. Diện tích nhà khoảng 100m² chia làm 3 gian, hai chái. Trong nhà có ba má, và bốn chị em (hai gái, hai trai) luôn có tiếng cười vui vẻ. Hôm nào cũng có chuyện quan trọng để người lớn chia sẻ. Bởi chính nơi đây, là diểm hẹn của văn hóa – các chú nhà thơ- bạn của ba. Tôi thấy chú nào cũng đẹp trai, vui tính và tóc họ ánh lên màu xanh của tuổi trẻ. Dăm bữa, nửa tháng tôi gặp mái tóc dày, bùm xum, cặp mắt to tròn, ngơ ngác như nai của chú Nguyễn Thành Long. Nhà chú ở Qui Nhơn nhưng chú thường có mt ở đây đ bàn về văn chương bàn cách đánh Tây với bạn ba. Lúc đó chú Thành Long đã viết nên tác phẩm “Ta và chúng nó”. Ông Phạm Xuân Cang đánh giá chú viết rất hay. Sách được in ngay tại thị trấn của tôi! Ông nói: - “Thị trấn An Nhơn lúc đó, người dân sống đời nô lệ, thiếu ăn, thiếu mặc nhưng đã có Nhà in thì thật là quí!”

 Tôi thích chú Nguyễn Đình. Mắt phải chú chỉ có lòng trắng. Nghe nói “người một mắt dữ lắm”, thế mà chú lại là người vui tính và dễ gần nhất. Quê chú ở tận Hội An - Quảng Nam. Xa thế mà tiếng cười của chú luôn rộn lên trong nhà tôi. Có lẽ, vì những câu chuyện ma của chú làm rạn vỡ bầu không khí vốn đìu hiu của cái thị trấn An Nhơn để đưa mọi người vào thế giới của tâm linh rất đổi ám ảnh. Chị em tôi đứa nào cũng tranh nhau chú cho riêng mình

 Chú Trinh Đường (Trương Đình) người to bè bè, cao lớn, mạnh mẽ. Giọng cười của chú nghe có âm khà khà, dòn như bắp rang. Thuở ấy, các chú mỗi người mỗi vẻ bằng sự thông thái và hiểu biết thể hiện rõ tư tưởng, khát vọng sống có lý cùng tưởng cùng nhau vun đắp để cuộc sống trở nên hoàn thiện hơn. Chú Trinh Đường hay pha trò và kể chuyện tiếu lâm. Chuyện của chú bao giờ cũng làm cho người nghe cười nghiêng ngã; còn bọn trẻ chúng tôi bất chợt nghe được thì cả ra quần.

  Chú Nguyễn Khoáng (tức Mịch Quang) ờ Tuy Phước. Khuôn mặt chú xương xương, đặc trưng của người xứ nẫu; da trắng, mắt sáng, hao hao giống ba. Đi đâu chú cũng đem theo máy ảnh. Những bức ảnh còn giữ được đến giờ là nhờ tài chớp đúng khoảnh khắc đời thường ấy. Sau này ra Bắc, chú trở thành dượng chồng của tôi.

                        
              Ảnh:  từ trái sang: Nguyễn Đình, Yến Lan, Mịch Quang
                                 Chú bé đội nón, mặc đầm là nhà thơ Lâm Huy Nhuận

  Chị em tôi rất quí chú Phạm Hổ và chú Khánh Cao-(cha NSND Trà Giang) Hai chú này tính tình hiền lành, bình dị. Chú Khánh mỗi lần đến nhà thấy tôi liến nói “cái nấm khổng lồ của chú đó à?” Tôi thích nghe câu này lắm. Sở dĩ người ta gọi chú là “Khánh cao” bởi, chú cao quá cở so với chiếc võng gai nhà tôi. Nó chẳng vừa đầu vừa chân của chú. Mỗi khi nằm lên đầu và chân chú bao giờ cũng thòi ra ngoài. Thế mà lúc nào đến, chú cũng chỉ nằm võng mà nói chuyện. Thi thoảng chú hỏi chị em tôi: “đứa nào muốn đi đu quay thì lại đây với chú”. Chú vừa dứt lời thì cả ba chị em tôi ào tới, rồi từng đứa được chú nắm hai tay xuay quanh người chú như đang bay, thích lắm.     

  Chú Phạm Hổ nhỏ hơn ba tới 9, 10 tuổi; nhưng bình đẳng và thân thiết y ê u thương nhau như anh em một nhà . Má tôi kể:
 Một hôm, từ ngoài cửa bước vào, quẳng chiếc xà-cột xuống phản, chú Hổ lại gần má thì thầm “Chị Bảy, nhà còn gì cho em ăn với, em đói bụng quá!”. Má tôi phì cười vì vẻ thật thà của chú, nói: - “Nhà chỉ còn it cơm nguội với mắm ruốc thôi, chú ăn nhé? Mắt chú sáng rỡ: “Tốt quá rồi chị ạ!”, má tôi xuống bếp, xới bát cơm nguội và dích cục mắm ruốt đỏ tươi lên đưa chú. Má bảo: “hôm ấy, nhìn chú Hổ ăn cơm nguội với mắm ruốt sống trông ngon như vua ăn sơn hào, hải vị vậy”.

 Chú Vương Linh (tên thật Lê Công Đạo), ít đến hơn, song tôi nhớ nét mặt, tính cách chú: Người tầm thước, đậm đà, khuôn mặt hơi chữ điền, da ngăm đen, khỏe mạnh. Tính chú trầm, ít nói. Vợ chú có đôi mắt màu xám tro, hình như mang trong mình ¾ dòng máu Tây (tức F2). Chú đến nhà thường ngồi nghe các chú khác nói là chính.
 
 Chú Hoàng Châu Ký là cha của nhà thơ Ý Nhi; với khuôn mặt chữ điền, nghiêm nghị. Hình  như ai có khuôn mặt như vậy cũng đều tỏ ra quang trọng, Chú ít cười, lúc nào cũng bận rộn với công việc. Suýt nữa thì chị em tôi để mất mấy bộ áo quần của chú gửi. 
  Đó là dịp chú đi công tác đến thị trấn. Chú ở nhà tôi ba, bốn hôm. Túi xách của chú đặt dưới gối, trên đầu phản. Bộ phản nhà tôi có 6 tấm bằng gỗ mun bóng lộn. Ba đặt nó cạnh cửa sổ. Nhờ bộ phản này mà nhà tôi sang trọng hơn các nhà khác. Đó là của hồi môn, ông nội cho ba khi lấy vợ. Ba dành để khách xa hay bạn bè đi công cán về Bình Định nghỉ lại, qua đêm.
  Một chiều nọ, chú Hoàng Châu Ký đến. Sáng hôm sau ba và chú đưa nhau đi đâu đó, còn má thì bế thằng Nhuận sang “Hội chị chiến sĩ” chuyện trò. Trước khi đi, má dặn: “mấy đứa (tức là ba chị em tôi đang chơi đồ hàng dưới bóng cây trứng cá) trông nhà, má đi chút xíu về”. Bà vừa đi khỏi thì liền sau đó, một anh trai lạ đến bên tôi nài: “Em ơi, cho anh xin gáo nước uống.” Tôi quay đầu lại nhìn, thấy anh nước da xanh mét, bụng ỏng, vẻ bệnh hoạn tôi ngại, nhưng ham chơi, không thể đi lấy nước cho anh, tôi bảo: “anh xuống bếp mà uống, em mắc chơi. Một lát, bỗng nghe tiếng thất thanh của má “Này cậu kia, đứng lại”. Má tôi đang trên đường về, ngạc nhiên thấy từ trong nhà mình có người lạ, lù lù bước ra với cái bụng to như đàn bà chửa sắp đẻ. Bà lật đật đặt thằng Nhuận xuống, lao tới, giữ chặt cánh tay anh trai, lôi từ bụng ra ba bộ quần áo: - Ôi trời! đồ của chú Ký đây mà, tụi nhỏ ham chơi quá, má về kịp chứ không thì mất hết, biết nói sao với chú!...

  Hàng tháng, lúc thì chú này, bác kia tới, nhà không mấy khi vắng bóng khách thơ. Đôi khi các chú cùng đến một lúc, để bàn việc trọng đại gì đó và rủ ba cùng đi. Tôi sợ nhất là khi các chú lôi ba đi mà má cũng vắng nhà. Hễ thấy ba tỏ ra bận rộn, thu xếp mọi việc là tôi lo ngay ngáy. Này nhé, nách trái ba bế thằng Nhuận, tay phải dắt thằng Ánh xuống gửi bà ngoại, còn tôi và em Tú Thủy thì ba dẫn ra nhà cô Bốn, chỉ vào chúng tôi dặn anh Can: “cháu giúp cậu, tối tối vào ngủ trông dùm nhà và hai em; cậu đi công tác vài hôm.” Rồi, người lớn đi hết! chỉ còn hai chị em. Tối tắt mặt trời anh Can mới vô. Anh ngủ ở phản; chị em tôi ngủ trong buồng. Mới tờ mờ anh đã lén dậy về nhà. Chị em tôi tuy ngủ nhưng tai rất thính, cứ nghe tiếng cót két là biết anh về nên dậy theo. Anh  vừa ra khỏi cửa thì chị em lôi nhau ra võng ngồi; vừa đung đưa đôi chân vừa lầm bầm “Ta là bộ đội đây, ta là công an đây” để dọa cho ma s. Chả là lũ trẻ hàng xóm thấy ba má tôi đi vắng liền kéo nhau đến hù ma quỉ bắt chúng tôi. Vì thế, chị em tôi đều nhất cử, nhất động. Đứa này đi tiểu đứa kia phải đi theo. Sáng thì dẫn ra chợ, đứa nào thích gì tự mua ăn: bánh xèo vỏ, bánh ú, nem cuốn v.v..  ba đã dặn kỹ rồi.  

   Chú Chế Lan Viên
 Thưở ấy, tôi chưa gặp chú Chế Lan Viên hay bác Quách Tấn, nhưng tên của hai người không lạ đối với tôi. Vì ba thường kể về họ với niềm hân hoan. Ba khen chú Chế thông minh, lanh trí. Chuyện là vào năm 1938, chú ra Trường Quốc học Huế để thi vấn đáp về văn. Sự thông minh của chú đã làm chấn động cả giới văn cả nước bởi câu trả lời sắc sảo so với tuổi đời của chú.
Ban giám khảo hỏi chú:
 - “Em cho biết bài Tỳ Bà Hành “Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách” có những đặc điểm gì tạo giá trị cho bài thơ.” Không cn nghĩ ngợi lâu, chú vanh vách trả lời:
 - Đặc điểm trong bài thì nhiều. Nhưng chỉ mới câu mở đầu: “Đã cho thấy điểm đặc sắc của nghệ thuật: Hai tiếng trắc ”Bến-Khách” ở đầu và cuối câu gợi lên hai bờ sông cao và dốc. Còn năm chữ toàn bình ở giữa là những làn sóng nhẹ trên mặt sông”  
 
Nhà chú Chế nằm phía tay phải của con đường vào Cửa Đông thành Bình Định, kề ngay chân thành. Trên thành có cái lầu nho nhỏ, để vừa chiếc bàn và hai ghế đẩu. Ba thì ở trong chùa Ông, cách nhà chú chừng 600m. Ban ngày, hai người thường lên lầu tâm sự, đọc sách, làm thơ ... Chú Chế gọi nơi đó là “Lầu thơ” hay “Lầu tư tưởng”. Ba có thơ rằng:
Lầu cửa Đông có nghe em tâm sự
Em đi trong tình sử của lầu thơ..
 Chiều chiều, hai anh em bá vai, rủ nhau vào sân vận động đá banh. Sân vận động nằm sát bên một míếu thờ. Miếu quạnh quẻ, u buồn; lâu ngày không ai tới, cây cỏ mọc che kín khiến cảnh trở nên hoang phế, điu tàn... Người ta đồn “đó là nơi dành cho thế giới của ma, quỉ”. Chú nói:    
-  Chị Bốn của tôi bảo đêm đêm có nhiều ma nữ hiện lên; cô thì mắc võng ru con, cô thì rên rỉ những lời ai oán”. Chú rất sợ ma. Ba tôi nói:- “chú Chế là con trai mà nhát lắm, nghe nói miếu nhiều ma nên chú không dám đến gần. Nếu khi nào banh vọt sang miếu chỉ có ba nhảy qua, nhặt về!

 “Đi đêm nhiều sẽ có ngày gặp ma:  Có lẽ thế?
Vào một chiều, đám thanh niên đang đá banh ở sân vân động. Thình lình cơn mưa ập đến. Ai ở gần thì về luôn; sân vận động vắng teo chỉ còn ba và chú Chế. Hai người chạy ra trú ở cái lều ngoài cổng. Lều nằm lấn sang đất miếu. Hôm đó, có gì khiến hai anh em đều tỏ ra sợ hãi, lấm lét đưa mắt nhìn nhau. Khi mưa thưa dần, ba hất đầu ra hiệu, chú Chế hiểu ý và cả hai cùng phóng ra khỏi lều. Về tới nhà chú Chế, ba hỏi “nãy Hoan có thấy gì không?” Chú Chế trả lời bằng câu hỏi ngược lại “Thế còn Lang?” Cả hai đều xác nhận có thấy một cô gái cùng chạy ở giữa hai người từ sân vận động theo ra tới lều. Cô ta mặc đồ màu trắng nhờ nhờ như khói, tóc dài xỏa ngang vai. Nhưng khi bước vào lều thì mất hút không để lại một chút dấu vết. Chú Chế còn hỏi: - “Lúc ở bên cô ta anh có lạnh không, còn tôi lúc đó như có luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng khiến tóc gáy tôi dựng đứng?”
     Có thể vì điều này mà thơ hai người thường thấp thoáng hình bóng của ma quái. Nhà văn Võ Văn Trực cũng có cảm giác từng gặp bóng ma trong thơ của họ:
- “Thơ của họ thường bảng lảng những gì tao nhã, huyền bí và có phần ma quái”. 

  Chuyện tình chú Chế và cô Giáo - người v trước của chú được má tôi kể lại:
 “Hôm tôi đến chùa thăm anh Lan thì thấy một thiếu nữ đứng trước cổng như đang kiếm ai? Anh Lan từ trong chùa ra. thấy thiếu nữ khuôn mặt bầu bỉnh, nước da trắng, mái tóc dài, kẹp (ba lá) ngang lưng. Cô mặc chiếc áo bà ba màu nõn chuối, quần lĩnh đen, trông nền nã làm anh chú ý. Cô gái nhìn thấy anh, mắt sáng rỡ, lại gần, hỏi: “Anh- Xuân Khai?”                                                                Anh Lan tức thì: - Có phải Giáo đấy không?
- Dạ! Giáo đây. Cô gái trả lời. Anh quay sang tôi, giới thiệu:
- Đây là Giáo, bạn Hoan; còn đây là Lan, bạn anh. Sau đó,  anh bảo hai chúng tôi chờ anh chạy vào thành báo tin cho Hoan. Một lúc sau, hai anh quay ra. Giáo và Hoan gặp nhau mừng chảy cả nước mắt. Ngay tức khắc vẻ lúng túng lộ rõ trên mặt Hoan. Anh nói: Biết gửi Giáo ở đâu bây giờ? không thể đưa về nhà, hay ở chùa hay nhà Lan. Cha Hoan là ông Phan Ngọc Trân, người Quảng Trị. Trước, giữ chức Đề lại thời Khải Định-Bảo Đại tại Quảng Trị. Năm 1925-1926 ông làm Lại mục tại phủ An Nhơn. Ông theo đạo Phật, ăn chay trường, nổi tiếng nghiêm khắc. Thấy bạn lúng túng, anh Lang bàn là đưa Giáo vào Nha Trang, ở tạm nhà anh Quách Tấn, hồi sau tính tiếp.
 
Thuở ấy, nhà anh Tấn là điểm hẹn của bạn văn, không có gì để lo cả. Họ quyết định đi ngay chuyến tàu chiều và rủ tôi cùng đi. Khó khăn lắm tôi mới lừa được cha là “đi thăm bác Năm”. Hoan đánh giây thép (điện) báo anh Tấn ra ga đón chúng tôi. Khi đến ga Mã Vòng thì thấy anh Tấn vẫy tay, ra hiệu xuống. Bốn chúng tôi không hiểu mô tê gì, sau anh Tấn giải thích sợ gia đình nhà Giáo đã điện báo cho ông Tư Đào cậu của Giáo, biết cô trốn nhà theo trai, có thể cũng đang chờ ở ga Nha Trang để tóm cô đưa về gia đình.

  Anh Quách Tấn đưa bốn chúng tôi về nhà tắm rửa, cơm nước. Sau đó bố trí cho Hoan sang nhà anh Nguyễn Đình, tôi về nhà bác Năm, Giáo ở nhà bạn gái của vợ anh Tấn, còn anh Lan thì ở lại nhà anh Tấn. Mọi việc xong xuôi, anh Tấn dặn: “Cô chú không được ra khỏi nhà, đợi vài hôm xem thế nào sẽ hay, nếu lộ ra thì chết cả lũ”.
  Một tuần trôi qua, anh Tấn hiểu pháp luật nên bàn với anh Lan đến gặp cậu Tư Đào thú nhận và nhờ ông thưa với cha mẹ Giáo chuyện cưới xin cho hai bạn. Ông cậu đồng ý, thân chinh đến đón cô cháu, đưa về Đà Nẵng và bàn chuyện cưới xin cho Hoan và Giáo luôn. 
  Thế là mọi chuyện giải quyết ổn thỏa. Đám cưới họ, bạn bè đến chia vui. Xong, Giáo theo Hoan về Thành Bình Định sống với cha mẹ chồng.” Ít lâu sau, Giáo bị thông manh, không nhìn thấy gì. Hai năm sau nhờ sự ân cần chăm sóc của gia đình Hoan nên mắt Giáo trong sáng trở  lại. Rồi vợ chồng dắt nhau ra làng Lai Triều-Quãng Trị dạy học. Hè năm 1946, cha chú ốm nặng, mẹ già yếu, chú về lại An Nhơn, đón bố mẹ và hai chị để chăm sóc. Trước khi chia tay, chú bịn rịn nói với ba tôi: -Chắc là từ nay về sau, tôi với anh không còn dịp gặp nhau nữa rồi…!.”

 Xa nhau, song lúc nào có tin vui, buồn, hai người đều thư từ qua lại. Ngày sinh Phan Lai Triều, rồi Phan Trường Định, chú viết thư cho ba tôi, giải thích vì sao lấy tên Lai Triều, Trường Định. Trường Định là quê bác Tấn. Đặt tên cho con trai thứ hai là để kỷ niệm ngày các bạn văn gồm Chế Lan Viên, Yến Lan, Quách Tấn, Quách Tạo và Nguyễn Đình về nhà bác ăn tết (năm 1943). Chuyến đi này xảy ra nhiều chuyện ly kỳ, lý thú ai trong họ cũng không thể quên. (Mãi đến sau tết 1955 hai gia đình mới gặp lại tại 51 Trần Hưng Đạo-Hà Nội.

   Nhà tôi đối diện với chợ Gò Chàm. Chợ nghèo lắm, chỉ có những túp lều tranh lụp xụp, núp dưới bóng những cây gòn cao to. Năm bữa có một phiên. Ngày phiên, người nông dân đem đến đây các loại nông sản, gia súc, gia cầm, vải, bông. Người Gia-Lai, Ê-Đê với làn da đen nhẻm, khét nắng, nồng nặc mồ hôi vì lâu không tắm. Cứ mỗi lần xuống chợ họ để lại những sản phẩm của núi rừng: rễ cây thuốc, cao khỉ, măng, củi, than và mua về buôn làng heo hút nào muối, kim chỉ, hạt cườm, dầu dừa v.v...Đấy, Phố huyện chỉ vào ngày phiên mới đông vui, nhộn nhịp, các ngày khác, cuộc sống trở lại đìu hiu vắng vẻ. Ai đã từng sống ở đây mới thấm thía cảnh sống của người tỉnh lẻ qua bài thơ  “Lại về tỉnh nhỏ” của ba tôi:
   Tỉnh nhỏ
         Đìu hiu
  Mặt trời ngủ giữa chiều,
  Trở mình trên mái rạ,
  Cây đứng nép bên đường,,
  Tay xương nắm lá,
   Như tay người đưa thư,
   Áo vải tây vàng hai vai đã vá
   Đi giữa đường mấp mô
   Không có kẻ đợi chờ
   Đôi chiếc xe dụm đầu ngái ngủ
                       Tỉnh nhỏ…
                       Cô em
                       Nằm xem

                      “kiếm hiệp” …
                                                                           Lâm Bích Thủy

READ MORE - ĐẤT THIÊNG CHIÊU TỤ NGƯỜI TÀI - Hồi ký của Lâm Bích Thủy