Lê
Văn Trạch
VĂN
HỌC DÂN GIAN QUẢNG TRỊ
Văn
hoá nói chung, là biểu tượng của mọi lề lối, phương
thức sinh hoạt từ tiếng nói, tập tục, cách ứng xử,
lễ hội, tín ngưỡng đến cách ăn mặc, lời ru, tiếng
hát… gom lại; là cốt cách, sức sống… của một cộng
đồng dân cư từ nhỏ đến lớn. Chưa có một kết luận
cụ thể nào xác định thời điểm có mặt của người
Việt tại vùng đất Quảng Trị, chỉ biết một điều
là đã được diễn tiến bởi nhiều đợt di dân qua hàng
bao thế kỷ. Cội nguồn của người Việt được hình
thành trong vùng châu thổ các sông ở miền Bắc, tạo
dựng một nền văn minh, văn hoá nông nghiệp. Những người
di dân vào Nam vẫn mang theo truyền thống ấy. Quảng Trị
là một dải đất hẹp nhưng có nhiều hệ sinh thái,
nhiều khu vực nông nghiệp khác nhau, không phải là một
nơi dễ dàng làm ăn sinh sống, hàng ngày người dân đối
mặt với nhiều thứ khắc nghiệt. Do bản năng sinh tồn,
họ chiến đấu và chiến thắng mọi gian nguy để tồn
tại và phát triển. Góp phần vào việc giảm bớt sự
căng thẳng để tạo nét hài hoà trong sinh hoạt đời
thường, họ nghĩ ra những thứ để thưởng ngoạn, vui
chơi dân giả. Đó là những chuyện thần thoại, chuyện
cười, những nhân vật có óc khôi hài, châm biếm, những
câu ca, lời ru tiếng hát, điệu hò; tất cả đó mang một
nét đặc thù Quảng Trị, một nền văn học dân gian.
Trong phạm vi một bài viết ngắn chúng tôi chi giới thiệu
những thể loại có tính cách đại chúng là Thơ Ca Hò Vè
với một số nội dung tiêu biểu mà xin bỏ qua những mẫu
chuyện, những con người đã tạo nên sắc thái vui tươi
thú vị nhưng chỉ hạn hẹp trong một địa phương nào
đó.
Thơ
Ca Hò Vè là sản phẩm của nông dân, phản ảnh bao trùm
mọi sinh hoạt với một loại ngôn ngữ bình dân mang tính
đại chúng, cho thấy rõ nét cái chơn chất mộc mạc
nhưng thắm đậm nhân tính của con người Quảng Trị.
Tạm thời có thể sắp xếp theo các thể loại sau:
I
/ Tục ngữ:
Về
thời tiết và sản xuất
Cò
ăn ruộng sâu thì nắng
Cò
ăn ruộng cạn thì mưa
Công
cấy thì bỏ, công làm cỏ thì ăn
Chớp
ngã Cồn Tiên, mưa liền gặp trộ
Đập
đất nhỏ, luống đánh to
Xung
quanh rắc đậu, trồng ngô xen vào
Đói
thì ăn môn ăn khoai
Đừng
thấy ló lỗ giêng hai mà mừng
Trăng
rằm đã to lại tròn
Khoai
lang đất cát đã ngon lại bùi
Xứ
Cùa đất đỏ ba dan
Ai
ơi trồng mía làm giàn thả tiêu
Về
đời sống xã hội
Liệu
cơm mà gắp mắm ra
Liệu
cựa liệu nhà mà gả con vô
Khun
ba năm không ai biết
Dại
một giờ bạn hay
Đi
buôn bữa lỗ bữa lời
Ra
câu giữa vời bữa có bữa không
Ai
ơi chớ lấy học trò
Dài
lưng tốn vải ăn no lại nằm
Khoai
lang cổ bở cổ trân
Làm
rễ họ Trần cực lắm ai ơi
Bỏ
công múc nước đường xa
Có
trong thì múc, ngà ngà thì thôi
Sui
gia là bà con tiên
Ăn
ở không hiền là bà con quỷ
II
/ Câu đố:
Hai
người ở hai buồng
Ngó
đi nhìn lại như tuồng cấm cung
Đêm
về sập cửa thả chông
Ngày
thì vòi vọi đứng trông nhau hoài
(Hai con mắt)
Gặp
nhau đây bất luận đêm ngày
Lật
ra xem thử lỗ này ở đâu
Đâm
vô thì rút ra mau
Đừng
để trung nớ mà đau lòng nàng
Rút
ra máu chảy tràn lan
Khi
nớ duyên thiếp, nợ chàng ngái xa
(Đạp gai)
Họ
hàng chỉ sống trên non
Tìm
cây hút nhụy nuôi con tháng ngày
Không
may lửa dậy khói bay
Thảm
thương ấu tử sống rày thác mai
(Tổ ong bị đốt)
Cây
xanh mà lá cũng xanh
Dầm
mưa dãi nắng theo anh võ vàng
Một
mai lửa đỏ thành than
Mây
bay khói lượn truớc mặt chàng, chàng ơi
(Cây thuốc lá)
III/
Vè:
Một
thể loại truyền khẩu rất phổ thông, dễ nhớ, thường
là mô tả cảnh sinh hoạt ở nông thôn, một nhân vật
đặc biệt, đôi khi nêu thói hư tật xấu với dụng ý
giáo dục .
Vè
Ba Lòng:
Thanh
trời rạng thấy núi xây
Rừng
xanh suối bạc đáo vầy tứ phương
Trà
Trì, Văn Vận hai phường
Đá
Nầm, Chinh Thạch giáo lương thuận hòa
Tháng
năm bắp đã tới mùa
Chè
thơm mít chuối bên Cùa gánh sang
Bao
nhiêu thao vải, lụa hàng
Vật
gì phường chợ cũng băng ngàn trải lên
Đò
thì mắm nục, mắm nêm
Đò
thì cá khô, muối ruốc cũng mang lên tại phường
Đò
thì gạo, nếp, trứng, đường
Đò
thì vàng bạc, lược, gương, cau trầu
Đò
thì ghè, đục, ang, âu
Tréc,
om, trình thống, dĩa dầu, bình vôi
Buôn
chi thì nỏ có lời
Lưỡi
cày, lưỡi cuốc, núc, nồi, đá, dao
Buôn
chi than, vải lụa thao
Nhuộm
màu xanh lục, rêu rao thêu thùa
Bao
nhiêu cũng nhờ hột bắp mà thôi
Rồi
mùa ngó lại, giơ cồi với mao
Vè thằng nhác
Lẳng lặng mà nghe
Kể vè thằng nhác
Gia đình khổ cực
Vợ yếu con thơ
Chồng ai được nhờ
Chẳng nên trò trống
Nửa ngày thức dậy
Lục đục soong nồi
Vắt áo đi chơi
La cà hàng xóm
Vợ nhờ cày ruộng
Tao bị đau chân
Vợ nhờ quét sân
Đau lưng vẹo cổ
Vợ nhờ bửa củi
Cái búa nó hư
Vợ bảo đi bừa
Sợ rằng trâu húc
Vợ nhờ đi gặt
Tao gánh đau vai
Thở ngắn than dài
Tội tình chị vợ
Ấy thế mà!
Nồi cơm vừa dở
Chưa kịp ai mời
Cúi cổ cúi tai
Một hồi chén sạch
Là cái thằng nhác
Ăn dữ không làm
Hỡi xóm hỡi làng
Nghe vè thằng nhác
Vè
con gái
Nghe
vẻ nghe ve
Nghe
vè con gái
Tay
chân mềm mại
Khác
thể bông ba
Chờ
mẹ đi ra
Cắp
tiền thu dấu
Muốn
ăn khoai nấu
Muốn
ăn khoai nướng
Muốn
ăn xôi chè
Ăn
rồi ngồi xếp bè he
Cái
lưng bơ bừng cái thúng
Ăn
chùng ăn vụng
Cho
sướng cái thân
Việc
nỏ muốn mần
Dôông
thì muốn lấy
Áo
năm bảy cấy
Mược
vào đi chợ
Béng
ướt dụy tôm
Hai
tay bóoc lá
Lộ
mồm hả ra
IV/
Đồng dao
Bập
bong bong tay mô khôông tay mô có
Bập
bò bọ tay mô có tay mô khôông
Chị
lấy dôông em ở quá
Chị
ăn cá em mút xương
Chị
đường em mật
Chị
vật em coi
Chị
voi em ngựa
Chị
bựa em bèn
Chị
kèn em trống
Chị
trống em mái
Chị
méo em tròn
Hai
hòn về chị
Rầm
rà rầm rì
Xây
lúa Đồng Nai
Cơm
gạo phần ngài
Tấm
cám phần tui
Lờ
đệng cháy nhà
Bà
già chạy chựa
Cháy
nửa bồ thóc
Lóc
cóc chạy về
Ông
Đề hỏi răng
Cu
Nhăng cắn nhện
Heo
chi – Heo lang – Lang chi – Lang cẳng – Cẳng chi – Cẳng
giò – Giò chi – Giò móng – Móng chi – Móng heo
V/
Câu đối
Văn
vận tuột quần Văn vận vận
Bích
La đau bụng Bích La la
Cam
Lộ buôn cam, Cam Lộ lộ
Bích
Giang không nón, Bích Giang giang
Tân
Trúc trồng tre, thở hoi hóp
Đông
Hà xúc hến hát ngêu ngao
VI/
Ca dao
Ca
dao chiếm phần lớn nhất trong văn học dân gian, biểu
hiện tâm hồn giàu tình cảm, phóng khoáng của người
nông dân, một thứ tình cảm bình dị chơn chất trong
sáng như cuộc đời hiền hòa đôn hậu của họ, được
thể hiện trong mọi tình huống, hoàn cảnh về gia đình,
xã hội, đặc biệt là về tình yêu đôi lứa, một đề
tài muôn thuở
Quan
hệ gia đình
Biết
răng chừ cá gáy hóa rồng
Để
đền công ơn Thầy Mẹ ẵm bồng ngày xưa
Chị
em như chuối nhiều tàu
Tấm
lành che tấm rách, đừng nói nhau nặng lời
Cây
kia ăn quả ai trồng
Sông
kia uống nước hỏi giòng từ đâu
Cơ
đồ gầy dựng bấy lâu
Công
lao tiên tổ lẽ đâu quên hoài
Mộ
phần gìn giữ hôm mai
Những
ngày lễ tết chẳng sai lệ thường
Có
chồng rồi khác chi con ngựa có dây cương
Lôi
mô chạy nấy khổ trăm đường ai ơi
Còn
cha gót đỏ như son
Một
mai cha chết, gót con đen sì
Mẹ
già ham việc tiếc công
Cầm
duyên con lại thu đông mãn rồi
Mãn
rồi cai đội hồi hương
Trai
lui về làm ruộng, gái bán buôn nuôi chồng
Ra
đi bỏ mẹ ở nhà
Gối
nghiêng ai sửa, chén trà ai bưng
Quan
hệ xã hội
Ai
về Đông Hà, ai qua Cam Lộ
Ai
về Gia Độ, ai đến Gio Linh
Ai
về Triệu Phong, Quảng Trị quê mình
Cho
em nhắn gởi chút tình nhớ thương
Bạn
về không có chi đưa
Môn
khoai đang dại, mít dừa đang non
Cây
cao bóng mát chẳng ngồi
Lại
ngồi trửa nắng trách trời không dim
Cây
khô xuống nước cũng khô
Phận
nghèo đi tới chỗ mô cũng nghèo
Con
quan lấy đứa mần than
Nắng
mưa phải chịu cơ hàn phải theo
C
. Quan hệ lứa đôi
Trăng
lên tới đó rồi tề
Nói
chi thì nói, em về kẻo khuya
Bướm
vàng đậu đọt cau tơ
Kiếm
cái nơi mô nương tựa
Chơ
răng cứ vất vơ rứa hoài
Chàng
ơi phụ thiếp làm chi
Thiếp
là cơm nguội những khi đói lòng
Đi
mô cho thiếp đi cùng
Đói
no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp theo
Cam
chua, quýt ngọt… bồng the
Thấy
em nho nhỏ, anh ve anh để dành
Xa
anh có bấy nhiêu ngày
Tình
em như mảnh trăng gầy nửa đêm
Hai
ta mót củi một cồn
Bứt
tranh một chỗ, tiếng đồn thật xa
Em
đương vút nếp hong xôi
Nghe
anh lấy vợ, thúng trôi nếp chìm
Ai
hay nông nổi mần ri
Ngày
xưa ở rứa, vội chi trao lời
Anh
đã có vợ thời thôi
Không
phải mắm nêm chuối chát mà muốn moi cho nhiều
Anh
về đừng có ngó lui
Để
em ngó dọi ngùi ngùi thêm thương
Anh
đưa em lên đến ngã tư sòng
Em
trở Về Cam Lộ, anh trở lại Triệu Phong với ai chừ
Được
nên chồng nên vợ thì hay
Rủi
thời đói khổ có ăn mày cũng phu thê
Hò:
Hò
là thể loại dân ca phong phú, đa dạng, có tính quần
chúng và mang nét đặc thù Quảng Trị Đó là một hình
thức sinh hoạt sôi nổi, được diễn ra trong công việc
đồng áng, lễ hội hay là một cách giải trí trong buổi
nông nhàn. Có nhiều điệu hò và cách hò tùy theo không
gian thời gian, lao động nặng nhọc khác nhau. Quét vôi
thì hò hụi, giã gạo thì hò khoan, hò hô, chèo đò thì
hò mái nhì, nếu đò mắc cạn thì hò mái đảy, hò rủ
rơm, hò đánh bài thai, bài chòi, hò kéo gỗ, hò ru và hò
đối đáp… Ở đây chúng tôi xin giới thiệu mấy điệu
hò tiêu biểu:
Hò
ru:
Tất
cả chúng ta đều lớn lên từ 4 tao nôi và lời ru của
Mẹ. Làn điệu ngọt ngào êm dịu như đã thấm vào máu
thịt xương tủy và cũng lớn lên theo giòng đời. Qua năm
tháng nổi trôi, lời ru luôn luôn là sự gợi nhắc tình
cảm, nghe mãi nhưng nghe lại vẫn không khỏi bồi hồi:
Khi
con thức Mẹ cho con bú
Khi
con lú Mẹ lại ru hời
Nuôi
con cực lắm con ơi
Chỉ
mong cho con lưng dài vai rộng
Để
lấp biển vá trời như ai!
Mẹ
thương con ngồi Cầu Ái Tử
Vợ
trông chồng đứng núi Vọng Phu
Mai
đây bóng xế trăng lu
Con
ve kêu mùa hạ
Biết
mấy thu đợi chờ
Em
nghe anh đau đầu chưa khá
Em
đây băng đồng chỉ sá bẻ nạm lá qua xông
Ước
làm sao cho nên đạo vợ chồng
Đổ
mồ hôi ra em chặm
Lại
ngọn gió lồng em che
Ru
hời ru hỡi là ru
Bên
cạn thời chống bên su thời chèo
Xây
thành đắp lũy trên non
Cắm
hoa dưỡng nước nuôi con tháng ngày
Một
mai lửa dậy khói bay
Con
ơi! Mẹ không biết sống rày thác mai
Ơn
cha ba năm báo bổ
Nghĩa
mẹ chín tháng cưu mang
Bên
ướt Mẹ nằm bên ráo con lăn
Lấy
chi trả nghĩa sinh thành
Lên
non tạc đá xây lăng phụng thờ
Hò
đối đáp:
Là
một thể loại văn nghệ tự túc độc đáo dược phổ
biến rộng rãi trong mỗi làng quê Quảng Trị trong thập
niên 30, 40. Những lúc nông vụ đã tạm ổn, vào những
đêm trăng, đâu đâu cũng nghe tiếng hò rộn ràng sôi nổi
tạo nên một không khí tưng bừng vui vẻ. Có thể chia
làm hai loại: Hò ân tình và Hò đâm bắt.
1)
Hò ân tình
Loại
này đơn giản dễ hò, có thể lấy từ câu đố, một
cốt chuyện đã có sẵn, chỉ cần nhập vai là hò được
hoặc đôi bên đối đáp về những chuyện trời trăng
mây nước vô thưởng vô phạt Địa điểm hò thường
được chọn ở những nhà rộng rãi thoáng mát để có
được đông đảo khán giả tham dự. Thường thì các cô
gái đã đợi sẵn còn các chàng còn vòng vòng ngoài ngõ
hay trước sân:
Ai
đứng ngoài đường cho muỗi cắn ho kêu
Vô
đây phân giải đôi điều cho vui
Các
chàng chỉ đợi có thế mạnh dạn bước vào:
Chào
lê chào lựu chào đào
Ai
xa chào trước ai gần chào sau
Chào
bên nam mất lòng bên nữ
Chào
người quân tử sợ dạ thuyền quyên
Cho
anh chào chung một tiếng kẻo chào riêng khó chào
Ai
có chồng thì khuyên chồng đừng sợ
Ai
có vợ thì xin vợ đừng ghen
Ra
đây ta hò hát cho quen
Rạng
ngày ai về nhà nấy…
Khá
thể ngọn đèn hai tim
Đó
là màn dạo đầu, cuộc hò sẽ tiếp tục:
Nữ:
Đố anh chi sắc hơn dao
Chi
sâu hơn biển, chi cao hơn trời
Nam:
Con mắt em sắc hơn dao
Lòng
sâu hơn biển, trán cao hơn trời
Nữ:
Bánh cả mâm răng kêu bánh ít
Trầu
cả chợ răng gọi trầu không
Ai
mà đối đặng làm chồng nữ nhi
Nam:
Chuối không đi tây răng kêu chuối sứ
Cây
không đi học răng kêu cây thông
Anh
đã đối đặng em theo chồng về mau
Nữ:
Nghe anh thuộc sách Kinh Thi
Hỏi
anh con cá nằm dưới cỏ gọi là con cá chi rứa anh
hè
Nam:
Anh đây thuộc sách Kinh Thi
Con
cá nằm dưới cỏ anh nghĩ là con cá tràu
Nữ:
Em như bông sen trong hồ
Các
anh như bèo như bọt nhìn chi được cơ đồ nơi em
Nam:
Nước lên cho sóng cuộn theo
Cho
sen chìm xuống bèo trèo lên trên
Nữ:
Em đây như con rồng vàng
Chín
tầng mây phủ nằm ngang giữa trời
Nam:
Anh đây có phép thần thông
Vén
mây cỡi gió bắt con rồng cỡi chơi
Nữ:
Em đây như chiếc chuông vàng
Treo
trong thành nội có hàng ngàn quân canh
Nam:
Quân canh dù mấy chục ngàn
Dùi
chiêng anh mang sẵn, anh nện chuông vàng đứt
đôi
Kiến
bò cột sắt sao mòn
Con
vò vò xây tổ sao tròn mà xây
Kiến
bò cột sắt thành đàn
Con
vò vò xây tổ khám vàng cũng xây
Thương
thay các cậu chự bò
Cái
lưng môốc thếc thếc
Bộ
giò đen thùi thui
Em
về dở sách ra dò
Cha
em lúc trước cũng chự bò như anh
Trai
không vợ như chợ không đình
Mưa
dông một trộ ghé mình vào đâu
Trai
chưa vợ lo phò vua vệ quốc
Chợ
không đình tại thổ mộc suy vi
Sao
không lo phận thiếp lại đi hỏi chàng
2)
Hò đâm bắt:
Thường
là đối đáp giữa trai và gái, loại này đòi hỏi một
khả năng thiên phú: Thông minh, nhanh nhẹn, tháo vát. Đối
thủ luôn luôn tạo bất ngờ, không có thì giờ suy nghĩ,
chọn lựa. Người ra chiêu có lợi thế hơn (thường là
nữ) đi những đường quyền móc họng, phạm thượng.
Ngôn ngữ ở đây thuộc loại dân gian dung tục, các danh
hò thường không né tránh bất cứ một từ ngữ nào miễn
đạt được hết ý và đưa đối phương vào thế hiểm
hóc (Nhân đây cũng xin mở một dấu ngoặc về loại văn
chương này vì gần đây trên văn đàn hải ngoại, nhà lý
luận phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc có đưa ra bản
thảo về ngôn từ dung tục trong văn học dân gian miền
Nạm đại khái như: Vân Tiên ngồi núp bụi môn. Chờ khi
trăng lặn… Nguyệt Nga…) bởi thế trong phần lược kê
dưới đây nếu có một vài từ đại loại như thế,
kính mong các bậc trưởng thượng thông cảm:
Trong
đêm hò tại vùng Long Quang Linh Yên, một siêu hò đã đánh
đòn phủ đầu các nam nhi:
Anh
ra chi mỗi tháng mỗi ra
Cực
lòng em lắm mẹ cha hỏi hoài
Mới
nghe tưởng là một lời trách móc trữ tình, thực ra chị
này đem “việc riêng” của mình ra để so sánh xưng
tụng thật là hết ý. Một số ngượng nghịu bỏ về.
Có người đáp lại nhưng sống sượng, thiếu hấp dẫn:
Anh
ra ba em cũng ra
Anh
còn sống, ông cụ thác xuống ngã ba mất rồi
Một
hôm khác tại Gia Đẳng:
Tiếng
đồn eng học hết sách quốc ngữ, hết chữ Kinh Thi
Con
bò cái đi trước, con bò đực đi sau, nó cười chi rứa
eng hè
Eng
đã học hết sách quốc ngữ, hết chữ Kinh Thi, con bò
cái đi trước, con bò đực đi sau nói cười nó cọ, nó
đọ-u sao thiếp không biết lại đi hỏi chàng
Vùng
Đá Nầm, Đá Nổi ở Ba Lòng cũng một thời nhộn nhịp:
những lúc nông nhàn trai tráng miệt đồng lên khai thác
lâm sản và những đêm hò lại diễn ra:
Liệu
bề đát được thì đan
Chớ
đừng đan rồi để đó mà thế gian chê cười
Cô
gái có vẻ kênh kiệu, coi thường chàng trai, nhưng chàng
ta bình tĩnh tung đòn phản công rất ngoạn mục:
Anh
đây đan cũng giỏi, đát cũng tài
Lận
thì đè côi đè xuống, còn nức thì xỏ ngoài xỏ vô
Đến
hiệp hai thì nam danh hò bối rối:
Ra
đường lại gặp anh Ba
Anh
ở “trung nớ” anh ra răng chừ?!!!
Chàng
ta xin khất, đi tìm bà cô: là một danh hò đã gác kiếm,
sau khi hối lộ một xấp thuốc Tầm Bỏi, bà đã chỉ
cho câu đáp, mặc dầu không sâu sắc lắm nhưng cũng đỡ
mất mặt:
Anh
ở trung nớ mới ra bựa qua
Cùng
ra có cậu bên nhà kết nghĩa thầy trò
Anh
nhanh chân anh tới trước còn cậu lò dò theo sau!!!
Có
những cô gái thật là lì lợm lém lỉnh đôi khi làm các
chàng trai yếu bóng vía phải ngọng nghịu chùn chân:
Anh
làm thợ mộc khéo đã ra chi khéo
Đóng
bức đố xéo đã ra chi tài
Răng
không giơ cái lại chàng ra chắn mộng để thòi lòi mộng
ra
Tuy
thế vẫn có những nam nhi thông minh lanh lợi, đáp lại
vô cùng thỏa đáng:
Anh
đã đưa cái lại chàng ra chắn mộng
Mà
thầy mẹ bên nhà khoát khoát khoan khoan
Để
khi đi về móc áo, lỡ chừng treo khăn
Cũng
đã có cô gái bạo mồm bạo miệng tung chưởng vào đối
phương:
Em
mua cho anh cái dù tám cóng
Dưới
có mốc đồng
Răng
anh không đội
Để
đầu không rứa hè
Nhưng
đối thủ của nàng không phải tay vừa, đã bình tĩnh
phản công:
Cái
dù tám cóng dưới có cái móc đồng
Em
đem về cho cha em đội cho nội em che
Phận
anh là rễ đội nón tre quen rồi
Đôi
khi lời đối đáp thật hóm hỉnh, thông minh:
Tiếng
đồn em lấy chồng già
Đêm
nằm em thấy ớt cà ra răng
Tre
già còn dẻo hơn măng
Ớt
cà tra có hột, chớ hơn thằng ớt tơ
Văn
học dân gian như đã nói là một chất liệu ngôn ngữ
hòa tan trong tâm thức của mọi người, nó như mạch ngầm
ẩn dấu đâu đó tưởng chừng quên nhưng chỉ một giây
lắng đọng khắc khoải, sẽ bừng dậy những nỗi nhớ
niềm thương da diết. Đó là một kho tàng vô tận tiềm
ẩn trong mỗi người Quảng Tri, không thể có một công
trình tìm kiếm hoàn chỉnh .Trong phần lược ghi với một
ít nội dung tượng trưng, hy vọng tạo được một khoảnh
khắc thanh thản khi nhớ về quê hương.
Lê
Văn Trạch
(Trích:
Dặm Trường Lưu Dấu)