Cặp đôi thầy giáo Ernst Ostertag (phải) và nam ca sĩ chuyển giới Röbi Rapp. trong phim The Circle.của điện ảnh Thụy Điển do đạo diễn Stefan Haupt dàn dựng. Ảnh từ trang 24h.com.vn. |
Đặng Xuân Xuyến
PHÁC THẢO VỀ NGƯỜI ĐÀN ÔNG
ĐỒNG TÍNH
(trích trong ĐIỂM YẾU CỦA
NGƯỜI ĐÀN ÔNG MẠNH MẼ cùng tác giả)
Từ lúc cất tiếng khóc
chào đời, những bé trai đã được bố mẹ và gia đình rèn dũa, dạy
bảo theo khuôn mẫu văn hóa truyền thống: Cương cường, dũng mãnh, lạnh
lùng và quyết đoán. Có nghĩa, là người đàn ông thì không được “bám
váy” mẹ, không được “yếu đuối”, không được khuất phục trước bất kỳ
khó khăn, trở ngại nào. Văn hóa truyền thống không chấp nhận quan
điểm của các nhà tâm lý học hiện đại, như Elisabeth Badinter chẳng
hạn, thừa nhận: “Giới tính nữ là giới tính cơ bản. Người nam được
hình thành bằng sự đấu tranh với tính nữ nguyên thủy ngay từ khi còn
trong bào thai. Vì giới tính nữ là giới tính cơ bản nên trong người
đàn ông vừa có tính nam vừa có
tính nữ. Muốn phát triển thành người đàn ông là một cuộc đấu tranh
không ngừng ở mọi lúc.”. Trong những tác phẩm của mình, (đúng hơn là
những công trình nghiên cứu khoa học) bà đã đưa ra những phác thảo về
khuôn mẫu người đàn ông trong thế kỷ XXI đối lập khá nhiều với những
gì mà văn hóa truyền thống đã khắc họa.
Trong lời giới thiệu tác
phẩm NHÂN DẠNG NAM của Giáo sư Elisabeth Badiner, dịch giả Nguyễn Xuân
Khánh viết: “Xã hội hiện đại dựa trên cơ sở bình đẳng nam và nữ, nó
nhất thiết dẫn tới chỗ tạo ra sự giống nhau giữa hai giới. Mục đích
công bằng chính trị ấy phát sinh từ quyền con người. Chính từ sự
bình đẳng ấy, trên thực tiễn ta nhận thấy bản chất con người gồm cả
tính nam và tính nữ. Người đàn bà đã xâm nhập vào mọi lĩnh vực
trước kia chỉ dành cho người nam; họ trở nên lưỡng tính và giống
người nam. Đảo lại người nam cũng lưỡng tính như vậy.”. Có lẽ vì
thế mà không ít quý ông rất sợ phải sống với chính con người giới
tính thật của mình. Họ sợ những
phút giây mềm yếu trong con người: Sợ tính nữ nguyên thủy biến họ
thành người yếu đuối, đồng tính, nhu nhược, hèn kém trong bất kỳ
thời điểm nào. Mà điều đó, gia đình, xã hội và chính bản thân
người đàn ông, bằng lý trí không cho phép được xảy ra.
Nghiên cứu về người đồng
tính, các nhà tâm lý kết luận: Đời sống tình cảm của người đồng
tính nam thường chịu ảnh hưởng sâu sắc từ người mẹ và mang nhiều
tính nữ. Còn người đồng tính nữ thường chịu ảnh hưởng sâu sắc từ
người bố và mang nhiều tính nam. Đây chính là điểm cơ bản đầu tiên
của người (đàn ông) đồng tính.
Chúng ta đều biết, sự
hình thành và phát triển tính nam của người đàn ông không chỉ chịu
ảnh hưởng mạnh mẽ từ văn hóa truyền thống với những chuẩn tắc khắc
nghiệt mà còn chịu sự chi phối sâu sắc của huyền thoại tình mẫu
tử. Sự đối đầu giữa khuôn mẫu người đàn ông truyền thống với huyền
thoại tình mẫu tử, trong nhiều trường hợp đã làm méo mó, biến dạng
tâm sinh lý và giới tính của người đàn ông khi trưởng thành. Thuyết
bản năng mẫu tử, hay còn gọi huyền thoại tình mẫu tử, đã “hợp thức
hóa việc loại trừ người cha”, “tăng cường sự cộng sinh giữa mẹ và
con trai”, làm cho tính nữ nguyên sơ trong bé trai bị kéo dài, dẫn tới
sự phát triển lệch lạc về tâm sinh
lý và giới tính, cản trở và triệt tiêu tính nam của người đàn ông
đang hình thành trong đứa trẻ. Chính vì vậy mà người Anh, một thời
gian khá dài đã phản đối gay gắt sự “độc nhất” của người mẹ trong
việc chăm sóc và nuôi dưỡng bé trai. Elisabeth Badinter, giảng viên
triết học trường Polytenchnique (Pháp) nhấn mạnh: Lý thuyết bản năng
mẫu tử đã gây tha hóa và tội lỗi đối với phụ nữ và tỏ ra tàn hại
đối với trẻ nhỏ, đặc biệt đối với trẻ em trai. Qua nghiên cứu nhiều
công trình khoa học và các tác phẩm văn học (trên 3.000 tác phẩm văn
học và thân thế các danh nhân nổi tiếng), bà đưa ra kết luận: Trong
số những người đàn ông đồng tính, rất nhiều người sống gần gũi với mẹ và chịu ảnh
hưởng sâu sắc từ người mẹ. Bà khuyến cáo: Hãy để bé trai thường
xuyên gần gũi và chịu ảnh hưởng từ người bố, sẽ giúp bé trai thuận
lợi cho việc phát triển tâm sinh lý người đàn ông của đứa trẻ.
Trong các công trình nghiên
cứu về tính nam của người đàn ông, Giáo sư Elisabeth Badinter đều cảnh
báo sự thái quá trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng bé trai của các bà
mẹ sẽ ảnh hưởng xấu đến sự hình thành và phát triển tính cách
người đàn ông của bé trai sau này. Tất nhiên, sự “độc chiếm yêu
thương” bé trai của các bà mẹ - như chúng tôi đã trình bày trong mục
NGƯỜI ĐÀN ÔNG TRẺ CON - không thể hoán đổi bé trai từ người dị tính
sang là người đồng tính mà chỉ là một trong những căn nguyên “mở
đường” cho sự phát triển từ khuynh hướng tình dục đồng tính sang
hành động đồng tính ở các bé trai. Đây là điều mà các bà mẹ cần
lưu tâm khi chăm sóc và nuôi dưỡng bé trai yêu quý của mình.
Kensey, bác sỹ người Mỹ,
qua những cuộc điều tra xã hội học cho rằng: Cứ 3 người đàn ông Mỹ
thì ít nhất 1 người đã từng có “trải nghiệm” quan hệ luyến ái đồng
giới. Còn người Anh thì “rất nhiều” người là dân đồng tính.
Luận điểm của Kensey khá
gần với kết luận của Giáo sư Elisabeth Badinter về lý do tại sao
người Anh lên án thuyết bản năng mẫu tử, nhưng tỷ lệ người đồng tính
và quan điểm khuyến khích “phát triển đồng tính” mà bác sỹ Kensey
đưa ra thì không thể chấp nhận. Tuy nhiên, kết quả Kensey đưa ra đáng
để chúng ta suy ngẫm về hiện tượng những chú “gà cồ” không thể cất
tiếng gáy đang có xu hướng gia tăng trong xã hội hiện đại.
Theo thống kê của các nhà
khoa học thì trên thế giới thì tỷ lệ người đồng tính chiếm khoảng 3
- 5 % dân số nhưng số liệu đó chưa hẳn đã chính xác. Kết quả phát
hiện điều tra uy quyền của Mỹ lại cho con số hoàn toàn khác về đồng
tính (gay) nam: 35% thuần khiết yêu người khác giới, 55% đã trải
nghiệm đồng tính luyến ái, số còn lại hoặc là đồng tính luyến ái
hoàn toàn hoặc là lưỡng tính luyến ái. (Tâm sinh lý nam nữ; trang 296;
Ma Xlao Lian; Nhà xuất bản Hà Nội; 2004; Thùy Liên dịch). Còn giới nữ
thì sao? Kết quả điều tra của Kinxi và Hăngri cho biết: “- Có khoảng
12% phụ nữ thực sự đồng tính luyến ái hoặc tỏ rõ mong muốn được
đồng tính luyến ái.” (Tâm sinh nữ phụ nữ; trang 488; Vương Quốc Vượng; Nhà xuất
bản Hải Phòng; 2003; Hà Kim Sinh dịch.).
Gần đây, các nhà khoa học
về tâm lý và tình dục trên thế giới đã công bố kết quả điều tra
(độ tuổi từ 15 tuổi trở lên) ở thành phố San Francisco (Hoa Kỳ) thì
người đồng tính nam ở đây có tỷ lệ cao nhất thế giới, khoảng 20% dân
số (nam giới) của thành phố. (Theo báo Thanh Niên số 100 (3761), ra
ngày 10/04/2006 và báo Công an thành phố Hồ Chí Minh số 1422, ra ngày
11/04/2006). Như vậy, tỷ lệ người đồng tính (nam) đang gia tăng ở mức
báo động.
Các nhà tâm lý tình dục
học nhấn mạnh: Điểm chung của người đồng tính là sự “mặc cảm tội
lỗi”, tâm lý hoảng loạn, dễ bị tổn thương. Do “không giống ai” trong
việc lựa chọn “đối tượng tình dục” và tình yêu của họ không được
xã hội chấp nhận nên người đồng tính luôn sống trong tâm trạng mặc
cảm, sợ sệt. Với người dị tính (tình yêu thuần khiết với người
khác giới), sự thể hiện tình cảm của mình với “đối tượng” thường
công khai, được xã hội chấp nhận (trong một chừng mực, hoàn cảnh
nhất định), còn người đồng tính thì ngược lại: Âm thầm, lén lút vì
sự kỳ thị của xã hội. Đây chính là lý do làm người đồng tính dễ
bị tổn thương,
luôn sống trong tâm trạng hoảng loạn và
“mặc cảm tội lỗi”.
Một điểm chung nữa thường
thấy ở người đồng tính là: Không ai dám “tự thú” mình là người
đồng tính, trừ phi họ là người đồng tính ở cấp độ “nặng” không thể
giấu được, hoặc họ dũng cảm công bố khuynh hướng tình dục của mình
để được sống thanh thản, thoải mái hơn. Ngay cả những người đồng
tính với nhau, nhất là những người thuộc diện đồng tính kín, còn
gọi là đồng tính “ẩn”, dù “đọc” ra “chất” của nhau cũng khó khăn
trong việc họ thừa nhận mình là người đồng tính.
Văn hóa truyền thống, nhất là nền văn
hóa Á Đông đã gây áp lực rất lớn, buộc người đồng tính ở mọi cấp
độ phải giấu đi giới tính thực của mình, để đáp
ứng những “chuẩn mực” của xã hội: Xây
dựng gia đình, sinh con đẻ cái...
Văn hóa truyền thống,
cộng với sức ép của cuộc sống cũng gây áp lực rất lớn tới những
người thân của người đồng tính. Khi được hỏi về giới tính của bố,
mẹ, con, em, chồng, vợ, bạn hữu... dù biết rõ người thân của mình
thuộc diện “lửng lơ 8 vía” thì họ vẫn dứt khoát phủ nhận, cố chứng
minh cho bằng được sự rõ ràng về giới tính của người thân, để “bảo
vệ danh dự” cho người thân của mình.
Trong cuộc sống, có những
người bỗng dưng thay đổi đối tượng tình dục, từ dị tính sang đồng
tính với lời bao biện do tiếp xúc nhiều với người đồng tính vì công
việc, vì stress hoặc vì bất hạnh trong cuộc sống vợ chồng nên đã “vô
tình chuyển hệ”... Họ đưa ra những lý lẽ, rằng đã từng yêu rất
nhiều người khác giới, rằng đã xây dựng gia đình từ khi còn rất
trẻ, thậm chí đã hai, ba lần xây dựng gia đình và “chuyện ấy” luôn
được bạn đời “tấm tắc” không chê vào đâu được... Tóm lại họ không
thừa nhận mình là người đồng tính mà đổ lỗi cho hoàn cảnh. Họ
không biết hoặc có thể họ biết nhưng cố tình phủ nhận những “xung
năng tình dục đồng giới” tồn tại
trong cơ thể họ đang ở dạng tiềm ẩn nên việc thừa nhận sự mập mờ
về giới tính của họ (bấy lâu) là điều không tưởng. Thực chất, nếu
là người có giới tính rõ ràng thì họ không thể “bị” người khác lôi
kéo vào các mối tình đồng giới, trừ phi vì mục đích kinh tế, vụ
lợi.
Cũng có người “bị” đồng
tính nhưng không biết mình là đồng tính, bởi họ vừa lớn lên là xây
dựng gia đình, rồi sinh con đẻ cái, có cuộc sống “bình thường” như
bao gia đình dị tính, có khác chăng là trong con người họ luôn có cảm
giác bị bức bối, hụt hẫng và thiếu thiếu... một “thứ gì đó” rất
quan trọng nhưng cũng rất mơ hồ về lĩnh vực tình cảm, nên cuộc sống
gia đình của họ không được suôn sẻ. Giáo sư Elisabeth Badinter giải
thích: “Thông thường những người đàn ông này cưới vợ hoàn toàn thực
tâm, không biết những xung năng đồng tính luyến ái của mình. Cưới vợ
và có con dưới mắt họ là một giấy chứng nhận về sự bình thường.
Phần lớn họ chỉ nhận ra sự đồng
tính luyến ái của mình khi đã cưới vợ và làm bố. Sự có ý thức
đến dần dần, đau đớn và tạo mặc cảm tội lỗi một cách khủng khiếp
(Nhân dạng nam, trang 352).
Báo cáo điều tra của ông
Frader Green cho chúng ta biết rõ hơn về nưgời đồng tính: “Trong số
người đồng tính, có 20% thuộc dạng tinh thần, chưa từng có quan hệ
tình dục (có nghĩa chỉ “yêu thích” người cùng giới trong suy nghĩ,
tình cảm), có 35% thỉnh thoảng có quan hệ tình dục đồng giới và 15%
thường xuyên có quan hệ tình dục đồng giới (...) Những khúc mắc tâm
lý giới tính của những “người vợ”là đàn ông và những “người chồng”
là đàn bà càng nghiêm trọng hơn. Họ thường rơi vào thế làm chủ trong dạng đồng tính luyến
ái.” (Tâm sinh lý nam nữ, Ma Xlao Lian; trang 200). Với nhóm người này,
khi gặp “đối tượng đặc biệt” trong hoàn cảnh cũng “đặc biệt” sẽ lao
vào cuộc tình đồng giới rất mãnh liệt. Ngôn ngữ dân gian gọi họ là
kẻ “đa hệ”, còn thuật ngữ của các nhà tâm sinh lý tình dục học gọi
họ là người “lưỡng tính luyến ái”, có nghĩa họ là người có nhu
cầu quan hệ sinh lý với cả 2 giới.
Điểm chung nữa thường
thấy ở người đồng tính là sợ sự đồng tính. Không ít người cho rằng
sở dĩ bị đồng tính là do những người đồng tính thích như vậy. Thực
ra, người đồng tính không thích như vậy và họ không có quyền lựa chọn
khuynh hướng tính dục. Với người dị tính, chuyện đồng tính chỉ thực
sự “ghê sợ” khi có sự “tiếp xúc thân mật” hoặc “thể hiện tình cảm”
từ đối tượng cùng giới nhưng với người đồng tính, sự “ghê tởm” đó
luôn thường trực trong suy nghĩ, hành động.
Mặc dù ghê sợ sự đồng
tính nhưng người đồng tính không thể “triệt tiêu” được ham muốn quan
hệ sinh lý với người đồng giới. Họ lập hàng rào ngăn cản “tình yêu
đồng giới” nảy nở nhưng chính họ lại tự động phá bỏ vì ý chí
không thắng được tình cảm. Bằng lý trí, họ lẩn tránh những gì liên
quan tới chuyện đồng tính, thậm chí trốn chạy người họ say đắm nhưng
những xung năng tình dục đồng tính thúc giục, đến chừng mực nào đó
khiến họ bị khuất phục, gục ngã thật thảm hại. Đó chính là mâu thuẫn,
là nỗi đau không thể vượt qua của người đồng tính. Và đây cũng là
điểm chung nữa của người đồng tính.
Trong cuộc sống, có người
biết rõ mình có khuynh hướng tình dục đồng tính, hoặc mơ hồ thấy
những “bất ổn” về nhu cầu tình cảm và sinh lý đang tồn tại trong con
người, nên “cố gắng” hoàn thiện tố chất đàn ông của mình theo chuẩn
mực của văn hóa truyền thống nhưng lại quay sang miệt thị, tấn công
những người đồng tính khác. Trong mọi hoàn cảnh, mọi tình huống, khi
có cơ hội, họ sẽ lôi người đồng tính hoặc chuyện của người đồng
tính ra để gây cười, để khẳng định mình “rõ ràng” về giới tính.
Tại sao họ làm vậy? Giáo sư Elisabeth Badinter giải thích: “Thực ra,
sự sợ đồng tính liên quan tới nỗi sợ thầm kín của những ham muốn
đồng tính luyến ái của chính riêng
bản thân họ (...). Nỗi sợ đồng tính luyến ái vạch trần ra điều mà
nó tìm cách che đậy.”. (Nhân dạng nam, trang 240). Giáo sư Elisabeth
Badinter cũng khẳng định: Những người đàn ông thực thụ thường không
có thái độ ác cảm khi giao tiếp với người đồng tính vì họ tự tin
vào tố chất đàn ông của họ, không sợ tính nam của mình bị đe dọa.
(Bà cũng không quên chua rằng, người có tư tưởng “bài người đồng
tính” mạnh mẽ thường là người thuộc dạng “dân trí thấp”, chỉ số
thông minh không cao.). Tuy nhiên, theo thiển ý của người viết, “bản năng
tự vệ” trong con người họ - người đàn ông dị tính - vẫn có những
biểu hiện để tạo ra “khoảng cách” nhất định khi
tiếp xúc với người đồng tính.
Nguyên nhân dẫn đến đồng
tính từng được các nhà khoa học cho rằng do gen, hooc môn hoặc nhiễm
sắc thể trong cơ thể bị xáo trộn, biến đổi. Nhưng qua các thực
nghiệm khoa học, các cuộc điều tra và thăm dò dư luận thì lời khẳng
định đó bị sụp đổ.
Khi giải phẫu kiểm tra gen
của người đồng tính, người ta thấy nhiễm sắc thể không thay đổi mà
chỉ có sự biến đổi rất nhỏ về gen. Còn hooc môn chỉ có sự thay đổi
về ngưỡng cảm thụ nội tiết tố tình dục vào tuổi dậy thì. Đấy chưa
phải là căn nguyên cho hành động đồng tính phát triển.
Đi xa hơn, các nhà tâm sinh
lý tình dục đã tiến hành các cuộc khảo sát, điều tra xã hội học
về đồng tính luyến ái. Người ta thấy có những gia đình, qua mấy thế
hệ không có ai là người đồng tính nhưng bỗng dưng xuất hiện một chú
“gà cồ” lạ hoắc không chịu cất tiếng gáy. Người ta cũng thấy có gia
đình hoặc vợ hoặc chồng là người đồng tính nhưng con cái của họ
sinh ra giới tính lại rất rõ ràng.
Qua các cuộc thử nghiệm
tự nguyện, người ta tiêm hooc môn nam cho người đồng tính nam, hooc môn
nữ cho người đồng tính nữ thì kết quả trái với mong muốn: Họ
(người đồng tính) không thay đổi khuynh hướng tính dục, trái lại càng
kích thích sự “thèm khát gần gũi” với người đồng giới nhiều hơn,
mạnh hơn. (theo Elisabeth Badinter).
Điều đó khẳng định gen, hooc môn không phải là nguyên nhân gây ra
đồng tính luyến ái ở con người. Điều đó cũng khẳng định: Đồng tính
luyến ái không mang tính di truyền.
Vậy nguyên nhân nào dẫn
tới chuyện người đàn ông yêu người đàn ông, người đàn bà yêu người
đàn bà? Câu trả lời vẫn lửng lơ, bỏ ngỏ vì cho đến tận giờ này
các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra câu trả lời thống nhất. Chúng ta tạm
bằng lòng với cách giải thích của bác sỹ Kensey, người Mỹ, mặc dù
cách giải thích của ông vẫn còn khá chung chung: Có sự biến đổi nhỏ
nào đó ở bán cầu đại não đã ảnh hưởng tới thiên hướng tình dục.
Ông cho rằng, đa số nhân loại có khuynh hướng tình dục đồng tính nhưng
để thành người có hành động đồng tính, tức người đồng tính, phụ
thuộc vào hai yếu tố: Khuynh hướng tình dục đồng tính nặng hay nhẹ
và tác động của môi trường gia đình,
xã hội tới cá thể đó như thế nào. Quan điểm của ông khá gần với
quan điểm của Peopper Schwartz và
Dominic Cappello trong tác phẩm MƯỜI CUỘC NÓI CHUYỆN (Nguyễn Thị Hương
Giang dịch - Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2006): “Trên thực tế, có
một số lượng lớn đàn ông và đàn bà phát hiện ra rằng mình bị
những người đồng giới thu hút, họ có thể là bạn bè hoặc là những
người quen chứ không phải là người khác giới. Họ chẳng bao giờ hé miệng
cho bạn bè hay ngay cả cho bản thân họ biết đâu.” (trang 235). Như vậy,
khuynh hướng đồng tính mặc dù ở con số khá cao nhưng may thay, nhờ có
văn hóa truyền thống, với những chuẩn tắc khắt khe về giới tính và
đạo đức mà hành động đồng tính
không trở nên phổ biến.
Đồng tính luyến ái tồn
tại từ xa xưa và có ở mọi tầng lớp trong xã hội, nhưng người ta
thường thấy tỷ lệ người đồng tính cao ở giới nghệ sỹ, kinh doanh,
chính trị... Thực ra, tỷ lệ người đồng tính ở các giới như nhau,
nhưng nhóm người trên do họ là những người hoặc thành đạt, hoặc là
người của công chúng nên đời tư của họ dễ bị để ý, “khai thác”,
chính vì thế mà mọi người mới ngộ nhận về nhóm người này có tỷ
lệ đồng tính cao hơn các nhóm khác.
Câu chuyện về nam ca sỹ
Quang Dũng chúng tôi trích dẫn dưới đây không ám chỉ anh là người
đồng tính mà chỉ lưu ý điều: Người thành đạt, nhất là khi lại là
người của công chúng, thường “được” dư luận “quan tâm thái quá” đến
cuộc sống riêng tư, mà sự “quan tâm” ấy, đôi khi vô tình đã hủy hoại
tương lai của một con người:
Ca sỹ Quang Dũng nổi
tiếng nhờ hát nhạc Trịnh đã làm dư luận “rối tung rối mù” về lối
sống “lạ hoắc” của mình. Người ta không chỉ “chửi” anh là “chảnh bà
cố nội”, là “bon chen”, là “tàn nhẫn” mà còn xì xèo, bàn tán về
khuynh hướng tình dục của anh rất “lập dị”, “khác người”.... Không ít
chuyện “đồn thổi” ác ý làm Quang Dũng mất niềm tin vào cuộc sống
và luôn trong tâm trạng chán nản. Khi được hỏi: “- Gần đây có lời đồn
anh liên quan đến một vụ scandal về giới tính với một cậu bé ở Hải
Phòng không phải là chuyện tiếu lâm chứ? Tất nhiên anh có thể không
nhận!”. Quang Dũng thốt lên cay đắng: “- Sao cuộc sống lại nặng nề
đến vậy? Có lúc tôi không biết
giải quyết mọi việc thế nào, tôi đều tự hỏi mình đó có phải là
sự trả giá khi tôi theo nghiệp ca hát hay không nữa? Trong thời gian
đấy, bạn bè thân họ cũng hiểu sai về tôi, đồng nghiệp thì nhìn tôi
với ánh mắt ngồ ngộ, tôi chẳng biết phải giải thích với họ thế
nào, đành im lặng! (Nghĩa Lương - Người đẹp Việt Nam số 158 ngày
15/10/2005). Là người của công chúng nên “lời đồn” ác ý ấy dù đúng
hay sai cũng làm cho hình ảnh của Quang Dũng bị hoen mờ.
Trong tác phẩm MỘT THẾ
GIỚI KHÔNG CÓ ĐÀN BÀ, nhà văn Bùi Anh Tấn miêu tả khá thành công tâm
lý nhân vật Nguyễn Thành Trung khi phát hiện mình là người đồng
tính. Là một sĩ quan trẻ, đẹp trai, tài giỏi, được nhiều người yêu
mến, lại sinh trưởng trong một gia đình gia giáo nên anh rất ghê tởm
những “gã pê đê bệnh hoạn”, luôn tìm cơ hội để mạt sát, thẳng tay
đánh đập những “gã pê đê bệnh hoạn” không thương tiếc. Tại sao Nguyễn
Thành Trung làm vậy khi trong anh có “thứ tình cảm khác lạ” đó từ
thủa học trò? Nguyễn Thành Trung làm vậy để trốn chạy con người
thực của mình, để khẳng định mình là thằng đàn ông đích thực.
Nguyễn Thành Trung sẽ làm được điều đó nếu không có buổi tối định mệnh ở quán
cafe của những “gã pê đê bệnh hoạn”: Khuôn mặt đẹp trai, ga lăng nhưng
đậm đặc chất đàn ông và giọng nói du dương, trầm bổng của Hoàng
“hoàng tử” đã làm anh chao đảo... Sau những dằn vặt, những “đấu tranh
tư tưởng”, anh đã tự tìm đến với Hoàng “hoàng tử” và lao vào cuộc
tình đồng giới với tất cả sự khao khát bị dồn nén lâu ngày. Những
giằng xé, những đấu tranh tư tưởng của Nguyễn Thành Trung được Bùi
Anh Tấn mổ xẻ, phân tích và dẫn giải khá sâu sắc, và có lẽ với
những kiến giải của mình, nhà văn (đồng tính) Bùi Anh Tấn đã giúp
đọc giả nhìn nhận vấn đề đồng tính luyến ái bằng ánh nhìn nhân văn và con người hơn.
Công bằng mà nói, người
đồng tính là những người chịu nhiều thua thiệt, đau khổ trong cuộc
sống. Trong con mắt mọi người, dù người đồng tính có tài giỏi, tử
tế đến đâu, có ích cho gia đình và xã hội thế nào thì họ vẫn cứ
là “kẻ biến thái”, “lập dị”, bị tránh xa vì “kinh tởm”. Một ông
tổng thống, một nhà bác học hoặc một nhà thơ, một nhạc sỹ thiên
tài... nếu đã “bị” là người đồng tính thì dù có vắt kiệt tài
năng, trí tuệ để cống hiến cho nhân loại vẫn cứ phải đương đầu với
sự ghẻ lạnh, “khinh rẻ” của người đời. Một kẻ giết người, một tên
ăn trộm, một gã lừa đảo... nhiều khi lại được “xã hội” “tôn trọng”
hơn nhiều những người đồng tính.
Đấy chính là sự nghịch lý, là bất công của xã hội dành cho người
đồng tính mà người đồng tính khó đủ sức để vượt qua.
Thực ra người đồng tính
không bao giờ muốn họ là người như vậy. Họ rất đau khổ vì sự “chẳng
giống ai” của mình. Họ cố gắng chống lại sự trớ trêu của tạo hóa nhưng
họ càng cố thì hình như họ càng bất lực. Sự kỳ thị của gia đình,
xã hội không giúp họ sửa đổi được sự “sai lệch” về khuynh hướng
tình dục (dù ít dù nhiều), mà còn làm cho họ có thái độ bất cần
đời, “hăng hái” hơn trong việc thể hiện bản thân và lôi kéo những
người đồng cảnh.
Khi được hỏi: Nếu phát
hiện ra người thân của mình là người đồng tính bạn sẽ làm gì? Đa
số trả lời sẽ khuyên giải để người thân có đời sống tình dục bình
thường. Nếu khuyên giải không được sẽ “cưỡng chế” bằng nhiều hình
thức, miễn sao người thân của mình thoát khỏi sự “căn bệnh nhơ nhuốc”
đó.
Các nhà khoa học khuyến
cáo: Muốn người thân của mình điều chỉnh được sự sai lệch về đối
tượng tình dục (thực ra là rất khó, là không thể), trước hết phải
bình tĩnh, tìm hiểu xem người thân của mình “bị” đồng tính ở mức
độ nào để có biện pháp cụ thể. Dù người thân “bị" đồng tính
"nhẹ" hay "nặng" thì đều phải mềm mỏng, tâm lý và
thật sự kiên trì. Không nên biểu hiện sự lo lắng, đau khổ cho người
thân của mình biết. Tuyệt đối không làm tổn thương tới lòng tự trọng
của họ, ví như: Nói cho người khác biết, sỉ nhục, đánh đập,... càng
làm cho họ có những phản ứng tiêu cực: Công khai khuynh hướng tình
dục của mình, bỏ nhà ra đi, tìm đến với cái chết...
Khi thực hiện đề tài
này, chúng tôi hỏi những người đồng tính 3 câu hỏi:
1. Gia đình phản ứng thế
nào khi biết bạn là người đồng tính?
2. Sự lo lắng của người
thân ảnh hưởng thế nào tới khuynh hướng tình dục của bạn?
3. Tỷ lệ người đồng tính
từ bỏ được quan hệ đồng tính là bao nhiêu sau khi được sự “quan tâm”
của gia đình?
Chúng tôi hy vọng những
câu trả lời của họ sẽ giúp ích cho bạn trong việc “khuyên giải”
người thân của mình, nếu chẳng may người thân là người đồng tính, có
tác dụng tích cực hơn.
Với câu hỏi 1: 10 % trả
lời người thân của họ không có phản ứng gì. 20% trả lời người thân
của họ đau khổ nhưng khuyên họ phải từ bỏ “căn bệnh đua đòi” vì danh
dự bản thân và gia đình. 70% trả lời người thân của họ rất bực tức,
kinh tởm khi biết họ là người đồng tính nên đã cấm đoán, miệt thị,
đánh đập họ..., bắt họ phải “từ bỏ bệnh xấu hổ” nếu không sẽ “từ
mặt”, đuổi ra khỏi nhà.
Với câu hỏi 2: 80% trả
lời cảm thấy xấu hổ, “nhục nhã”, quyết tâm “thay đổi” khuynh hướng
tình dục của mình nhưng rất tiếc không làm được. 10% không trả lời.
10% còn lại thì lao vào các mối quan hệ đồng tính công khai hơn, mạnh
mẽ hơn.
Với câu hỏi 3: 15% trả
lời không biết vì chưa gặp những trường hợp như thế. 35% trả lời đã
gặp nhưng số lượng không nhiều nên không thể biết được tỷ lệ là bao
nhiêu. 50% còn lại thì không tin người đồng tính sẽ quay sang quan hệ
dị tính được vì họ đã từng gặp những người quyết tâm từ bỏ tình
dục đồng tính nhưng thời gian gian quay lại quan hệ đồng tính cũng
không lâu.
Chúng ta thừa nhận, xã
hội hiện đại tuy có thay đổi đôi chút khi nhìn nhận về vấn đề đồng
tính nhưng thái độ “kinh tởm” sự đồng tính có lẽ sẽ bất biến theo
thời gian. Người đồng tính vẫn cứ mãi là số đơn lẻ “lạc loài” trong
sự kỳ thị của số đông nhân loại. Xét về mặt tích cực, sự “sợ hãi
và kinh tởm” chuyện đồng tính có giá trị rất lớn trong việc củng
cố và bảo vệ tính nam của người đàn ông, góp phần thúc đẩy xã hội
phát triển theo chiều hướng tích cực.
Ngoại trừ những người
đồng tính sống sa đọa, bất cần đời; ngoại trừ những kẻ lợi dụng
chuyện đồng tính làm băng hoại văn hóa truyền thống và nền tảng đạo
đức thì những người đồng tính đều cần nhận được sự cảm thông từ
gia đình, xã hội bằng thái độ khách quan, độ lượng. Sự kỳ thị của
xã hội với người đồng tính không giúp họ “thay đổi” được khuynh
hướng tính dục, trái lại càng làm cho họ bất mãn, mặc cảm và nảy
sinh tư tưởng “nổi loạn”, dẫn đến những hệ lụy đau lòng.
Bất luận người đồng tính
là ai? Mức độ đồng tính như thế nào? Thì người đồng tính đương nhiên
phải chấp nhận: Chừng nào xã hội hiện đại chưa thật sự nghiêm túc
tiến hành nhân dạng người đàn ông thì chứng đó, người đồng tính nam
nói riêng, người đồng tính nói chung còn bị coi là “quái vật”, “lập
dị”, “cản trở” sự phát triển của loài người. Đấy là thách thức
lớn mà người đồng tính khó có thể vượt qua.
Hỡi chàng trai của thế
kỷ XXI! Nếu chẳng may chàng là người đồng tính, xin đừng bi quan,
chán nản. Hãy tâm niệm nằm lòng: “Muốn phát triển thành người đàn
ông là một cuộc đấu tranh không ngừng ở mọi lúc.”. Hãy quyết tâm sửa
chữa những “trục trặc” do tạo hóa gây ra để “ngạo nghễ” khẳng định
tố chất đàn ông đích thực của mình. Nếu mọi cố gắng vẫn vô vọng
thì lúc bấy giờ hãy nhìn thẳng vào sự thật con người mình mà điều
chỉnh lối sống sao cho phù hợp, tốt cho mình nhất.
Cuộc sống chỉ tốt đẹp,
hữu ích và đáng yêu hơn khi ta sống lành mạnh, lạc quan và trân trọng
giá trị của cuộc đời.
Đặng Xuân Xuyến
Đặng Xuân Xuyến