Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Sunday, April 7, 2013

NGỌN LỬA BẾP VĨNH CỬU - Truyện ngắn Nguyễn Bá Trình





    “Tu li… tu li… “ củi đây!

Người thương binh từ trong trại an dưỡng bước ra. Đầu đội chiếc mũ tai bèo, trên người anh là bộ quân phục màu xanh lá cây đã bạc mầu. Lưng mang chiếc ba lô con cóc, có cài chiếc bi đông nước ở thắt lưng. Người  thương binh tên gì không ai biết. Chỉ biết rằng, sáng sáng khoảng tám giờ , anh bắt đầu bước ra khỏi nhà an dưỡng và bắt đầu một cuộc đi bộ dọc theo đường phố. Anh dùng tay bóp môi dưới tạo thành cái còi và hít vào thật sâu, rồi thổi một hơi dài phát ra tiếng kêu tu li, tu li, y như tiếng con chim tu huýt bằng đất nung mà trẻ con thường thổi. Từ đó trẻ con trên đường phố mà anh thường đi qua gọi anh là chú Tu Li.

-Chú Tu Li , chú  Tu Li! Củi đây nầy.

Nghe tiếng anh thương binh huýt gió từ xa, một cháu gái chạy từ trong nhà ra mang cho anh một que củi nhỏ.

Anh Tu Li nhìn cháu bé cười ngô nghê rồi nói:-Củi, củi nhiều quá.

Vừa nói anh vừa dừng lại mở chiếc ba lô con cóc ra bỏ que củi vào. Trong ba lô của anh cũng toàn là những que củi vụn, nói cho chính xác là những cọng rác anh nhặt dọc đường.

Anh thương binh cẩn thận đặt que củi vào ba lô giống  như người ta đặt một cái gì đó dễ vỡ. Tu li, tu li, anh lại bước đi và bắt đầu huýt gió.

Trên đường đi nhiều đứa bé đã cho anh Tu Li củi.  Có nhiều đứa trẻ nghịch ngợm nhặt một cọng kẽm gai chạy đưa:

-Chú Tu Li, củi  đây nầy.

-Tu li… tu li.... Củi nhiều quá. Người thương binh lại mở ba lô bỏ khúc kẽm gai vào:

-Củi nhiều quá.

Ti li, tu li. Tiếng sáo miệng của anh thương binh lanh lảnh trên các đường phố vào những buổi sáng tạo ra một âm thanh than quen vui vẻ, nhất là đối với các trẻ nhỏ.

Có  một bận bà hàng xóm  biết cậu bé cạnh nhà mình học lớp sáu nhưng rất tinh nghịch, cậu bé đã từng đưa cho anh thương binh những cọng kẽm gai sắc nhọn.Thấy quả tang bà gọi đứa trẻ lại quở trách giọng nhẹ nhàng:

-Chú ấy đang đi kiếm củi, sao cháu không mang củi ra cho chú ấy mà lại đưa cọng kẽm gai? Chú ấy bỏ vào ba lô nhỡ móc rách áo quần chú ấy thì sao? Không chừng lại làm rách da chú ấy nữa đấy.

_Chú  ấy điên mà cô. Chú có nấu ăn được đâu mà cho củi?

-Chú  ấy không điên đâu. Bà hàng xóm nói.

-Không. Chú ấy điên thật cô ạ. Chú ấy ở trên khu an dưỡng thương binh cháu biết mà!

-Cô  đã nói chú ấy không điên.Chú ấy chỉ lẫn trí thôi.

-Lẫn  trí khác với điên sao hở cô?

-Người lẫn trí là người không kiểm soát được trí nhớ của mình. Mọi việc người ấy chỉ nhớ mang máng thôi. Thực hư không phân biệt rõ ràng. Như chú thương binh nầy còn biết đi nhặt củi. Nhưng lại không phân biệt được cái gì đốt cháy cái gì đốt không cháy. Chú ấy còn nhớ mang củi về nhà nhưng không nhớ là mình phải dùng cái gì để mang củi. Cháu thấy chú ấy có phải vậy không?

-Còn người điên thì sao hở cô.

-Cô  không biết giải thích sao cho cháu rõ nhưng đại loại  đó là những người mất hết trí nhớ hoàn toàn. Đứa trẻ lắc đầu có vẻ không phân biệt được. Bà hàng xóm nhìn cậu bé cười:

-Thôi thì cháu chỉ cần hiểu rằng; với những người như chú ấy hoặc là người điên đi nữa thì các cháu cũng không được chọc ghẹo mà phải tìm cách giúp đỡ họ. Nói vậy thì cháu hiểu chứ?

Đứa trẻ gật đầu. Nhưng rồi nó lại hỏi:

-Mà  sao chú Tu Li không nhặt gì mà chỉ nhặt củi vậy cô? Có lần cháu để que củi dằn trên tờ giấy bạc hai ngàn đồng đặt ngay trên đường chú ấy đi qua; nhưng chú chỉ nhặt que củi mà không nhặt tờ giấy bạc.

Đứa bé hỏi lần nữa-Sao vậy cô?

Người đàn bà im lặng suy nghĩ một lát rồi trả lời:

-Cô không biết chắc chắn lắm nhưng có lẽ hình ảnh còn sót lại trong trí nhớ mơ hồ của chú ấy là những bếp nấu. Nghĩa là trước khi chú ấy bị một vết thương làm mất trí nhớ, công việc của chú là nấu ăn cho bộ đội. Có thể là như vậy, cô chỉ đoán thôi, và chú ấy đã nhập tâm với công việc của mình. Cũng như cháu vậy, ngày nào cháu say sưa với một trò chơi  nào đó thì lúc ngủ cháu cũng mơ thấy cháu chơi trò chơi đó. Có lúc nào cháu gặp trường hợp như thế không?

Đứa bé trả lời một cách thích thú:

-Dạ có. Cháu luôn như vậy.

-Đấy đấy. Cô  nghĩ chú ấy cũng đang trong một giấc ngủ  mê đấy.

-Vậy thì có lúc nào đó chú ấy tỉnh lại phải không cô?

-Cô tin như vậy. Để chú ấy mau tỉnh lại thì mọi người phải thương yêu giúp đỡ cho chú. Cháu phải chọn những que củi nào không có gai đem cho chú với những lời nói thật đáng yêu. Chẳng hạn cháu nói với chú ấy rằng- Chú ơi, chú gắng nấu thức ăn cho ngon để bộ đội ăn cho no mà đánh giặc nhé. Hoặc khen chú- Chú ơi chú nấu thức ăn ngon lắm, ai cũng khen cả.Vậy là chú ấy thấy vui mà mau thoát ra khỏi cơn mê muội. Cháu có làm vậy được không?

-Dạ nhất định cháu làm được, cháu còn giả bộ nhai thức ăn chú ấy nấu một cách ngon lành nữa kia.

Người đàn bà hàng xóm bật cười:

-Cháu ngoan lắm.

                                             *

Ngừoi đàn bà hàng xóm của cậu bé tên Vũ Thị Thanh, năm  nay đã trên bốn mươi  tuổi, ở tại số nhà 12 đường Nguyễn Huệ. Chị Thanh có chồng là bộ đội. Ngày đất nước thống nhất, những người chồng, người cha, người con, người anh… của các gia đình lần lượt trở về. Có người thì trở về nguyên vẹn. Người thì trở về không còn nguyên vẹn. Có người trở về chỉ là một nắm xương. Nhưng tất cả những gia đình đón người thân trở về trong những trường hợp như vậy, chị nghĩ, ai cũng may mắn hơn chị. Bởi chồng chị đã không bao giờ trở về- Dù anh ấy trở về chỉ là một nắm xương thì tôi cũng yên tâm. Chị tâm sự với mọi người như vậy. Một đồng đội của chồng chị sau ngày nước nhà thống nhất đã tìm đến nhà  báo tin cho chị rằng chồng chị đã hy sinh năm 1974 ở chiến trường Đức Cơ. Với một câu nói mà lúc ấy chị thấy không còn có Trời, không còn có Đất, không còn có loài Người nữa. Câu nói chỉ vẻn vẹn có mấy chữ mà sao ghê gớm đến thế-Đồng đội không tìm được xác anh ấy!

 Trời đâu rồi? Đất đâu rồi? Mọi người ở đâu hết? Sao không ai biết anh ấy ở đâu mà mách bảo giùm tôi?

Vậy mà chị  cũng sống đến được bây giờ.

Vào khoảng thời gian khi làn sóng tâm linh nổi lên ào ạt khắp mọi nơi trên một đất nước mà đào ở đâu cũng gặp xác người, chị không tin nhưng cũng phải tin vào một hiện tượng đồng bóng. Chị nhờ một nhà ngoại cảm tìm xác chồng. Nhà ngoại cảm đã xác định đúng nơi  người chồng của chị ngã xuống, một vị trí núi non trùng điệp thuộc vùng Ba biên giới. Ngày người ta đưa hài cốt về chị đã khóc ngất. Nhưng  sau khi cải táng anh vào nghĩa trang liệt sĩ, chị lại có một cảm giác lạ lùng rằng hài cốt liệt sĩ ấy không phải là hài cốt chồng chị. Chị nghĩ rằng chồng mình chưa chết. Nghĩ vậy  nhưng chị không nói ra với ai. Lấy ngày bốc mộ làm ngày mất. Vào ngày đó hàng năm chị vẫn cúng giỗ nghiêm túc. Và chị van vái với vong hồn người chết rằng, nếu anh không phải là chồng chị thì cứ xem chị như một người thân trong gia đình của liệt sĩ. Rồi mấy mùa giỗ qua đi, lòng chị cũng nguôi ngoai dần và chị xem như chồng mình cũng đang nằm đâu đó trong nghĩa trang liệt sĩ dưới một ngôi mộ không tên hoặc với một cái tên khác.





                                                                     *\

Tu li …tu li.... Người thương binh bước ra khỏi trại an dưỡng, vừa đi vừa bóp môi huýt gió.   –Củi đây! Anh ta lại nhặt một que rác bỏ vào chiếc ba lô đeo sau lưng. Những đứa trẻ trên đường phố nghe tiếng huýt gió chúng cũng nhại theo:Tu li, tu li, rồi chạy vào sau bếp  nhặt một que củi nhỏ: -Chú Tu Li ơi, củi đây!

Sáng nay anh thương binh không mặc bộ đồ trận sờn vai như mọi hôm. Anh mặc một chiếc áo ấm  mầu cà phê đã bạc lỗ chỗ từng đám. Đôi mắt mờ đục, nước da hơi xanh tái do khí tiết của những ngày trở đông. Miệng anh luôn mỉm cười, đôi khi cái cười cũng  vu vơ, chẳng thể hiện niềm vui hay nỗi buồn. Lâu lâu anh lại cúi xuống nhặt một cái gì đó. Cần mẫn và chịu đựng. Có lẽ câu chuyện giữa bà hàng xóm và cậu bé tinh nghịch hôm nọ đã đến tai mấy đứa trẻ khác, nên sau đó chúng không mang cho anh thương binh những cọng kẽm gai hoặc những que rác dơ bẩn. Chúng còn nói về anh bằng những hình tượng thật đẹp đẽ,  có lẽ do cha mẹ chúng hay người thân nói cho chúng nghe.

Một đứa bé  nói với bạn nó:

-Mầy có biết chú Tu Li nhặt củi để làm gì  không?

-Thì  chú ấy về nấu ăn chứ còn làm gì  nữa.

-Vậy thì bếp của chú ấy đặt ở đâu mầy biết không?

-Ở  trung tâm an dưỡng chớ còn ở đâu.

-Sai.

-Vậy thì ở đâu?

-Ở trong trái tim chú ấy.

Đứa trẻ kia phá lên cười như nắc nẻ. Nó nói:

-Bếp mà đặt trong tim thì cháy trái tim mẹ nó rồi còn gì.

Cậu bé nầy cãi lại:

-Vậy mà không cháy đâu nghe!

-Sao mầy biết?

-Thì chú ấy còn sống sờ sờ ra đó.

Đứa trẻ kia cứng họng nó cảm thấy như mình bị mắc lừa, nó lại phá lên cười, rồi hỏi lại:

-Thôi được.Tao hỏi mầy là sao mầy biết chú ấy đặt bếp trong trái tim chú ấy? Giỏi trả lời đi.

Cậu nầy tỏ ra thành thạo, khi quả quyết như một người lớn:

-Sao lại không biết. Tao còn biết nhiều điều hơn nữa kia.

-Mầy biết gì kể  tao nghe thử.

-Chú ấy làm anh nuôi. Mầy có biết anh nuôi là gì không?

-Không.

-Anh nuôi là anh bộ  đội chuyên đi chợ nấu ăn cho những anh bộ  đội khác.

-Sao nữa mầy kể  tiếp đi.

-Chú anh nuôi ấy đi theo đoàn bộ đội dọc dãy  Trường sơn. Bộ đội đóng quân tại đâu thì chú ấy đào bếp nấu ăn tại đó.

-Sao mầy bảo chú ấy đặt bếp trong tim chú ấy?

-Chứ  sao nữa, tao kể chưa hết mà.Cho đến một hôm  đơn vị chú ấy bị địch vây đánh, chú  ấy bị một vết thương đâu đó trên đầu. Trước khi bị rơi vào tình trạng lẫn trí, chú đã kịp thời dời cái bếp vào trong trái tim chú ấy. Từ đó chú không quên tiếp tục công việc của mình bằng cách nhóm lửa lên trong trái tim của chú.Và cứ thế ngày ngày chú ấy vẫn đi kiếm củi.

Đứa bé kia vỗ tay:

-Hay quá ta! Y như chuyện cổ tích thần thoại. Ai kể cho mầy nghe hay dữ vậy?

-Cô Thanh ở cạnh nhà tao kể. Mầy có tin không?

-Ừa,  giờ thì tao tin.

                                                        *



    Cũng như mọi hôm, anh thương binh đi nhặt củi dọc theo đường Nguyễn Huệ, đến khúc cua rồi tiếp tục đi thêm một đoạn nữa là đến ngôi nhà mang số 12. Anh dừng lại. Anh đâu có biết số nhà, chỉ theo thói quen, đến đó bao giờ anh cũng thấy một lọn củi , gồm mươi que củi nhỏ, sạch sẽ và được chặt đầu đuôi gọn gàng, bỏ sẵn trước thềm ngôi nhà số 12. Nắm củi được gom lại và bó chặt lớn không quá bắp tay. Vậy là anh thương binh bước đến mở ba lô bỏ nắm củi vào. Ba lô đã đầy củi, anh không đi tiếp nữa và miệng cũng không huýt sáo tu li tu li. Anh quầy quả trở về trung tâm an dưỡng một cách vội vã như thể sợ muộn một việc gì đó.



Một buổi trưa mùa đông nọ, chị Thanh đi làm về chị thấy nắm củi mình đặt trước hiên buổi sáng vẫn còn nằm yên ở đó. Lòng chị thấy buồn. Nhưng theo thói quen không bỏ được, chị lại đặt thêm vào chỗ ấy một nắm khác, hy vọng trưa đó về nhà chị sẽ không còn thấy lọn củi nào nữa. Nhưng không như chị nghĩ. Chị chưa tới nhà đã nhìn trước hiên, vẫn còn hai nắm củi nằm lạnh lẽo ở đó.

Và  rồi về sau, cứ thế, mỗi buổi sáng trước hiên nhà chị Thanh lại có thêm một nắm củi.

    Một hôm cùng mùa đông năm ấy, người đi đường không thấy những nắm củi trước hiên nhà chị Thanh nữa. Và ngôi nhà số 12 đường Nguyễn Huệ cũng đã khòa cửa. Và cũng từ đó, bọn trẻ con đường Nguyễn Huệ không còn nghe tiếng húyt gió tu li tu li của chú thương binh vào những buổi sáng mùa xuân đẹp trời cũng như những ngày mùa đông lạnh lẽo. Người lớn thì chẳng ai để ý gì, họa chăng một lúc nào đó người ta chợt nhận ra và hỏi nhau: Sao mấy hôm nay không thấy người thương binh điên điên tỉnh tỉnh đi nhặt củi nữa nhỉ, chắc anh ta chết rồi. À mà nầy, có ai biết chị Thanh đi đâu không nhỉ. Tự nhiên đang làm việc bên hội Phụ nữ nửa chừng rồi khóa cửa nhà bỏ đi. Chẳng ai biết chị ấy đi đâu.

Thế  là câu chuyện về anh thương binh nhặt củi, câu chuyện về những nắm củi đặt trước hiên căn nhà số mười hai, cùng câu chuyện về cô chủ căn nhà số mười hai ấy đột nhiên bỏ đi đâu không ai biết, dần dần đã đi vào quên lãng của mọi người trên đường phố Nguyễn Huệ. Nhất là đám trẻ trên đường phố đó. Thế mà chúng lại mau quên hơn ai cả.

                                                                  

                                                                  *

Tại bệnh viện thần kinh X125, có một cặp vờ chồng nuôi nhau đã mấy năm nay. Người vợ nuôi người chồng mắc bệnh tâm thần nhẹ. Trong hồ sơ nhập viện người đàn ông mắc bệnh tâm  thần, tên là Từ Lí. Theo như người vợ kể lại với thân nhân của các người bệnh, chồng chị là một quân nhân, trong một trận đánh vào cuối tháng hai năm 75 anh bị thương ở đầu và mất trí nhớ từ đó. Người ta chỉ biết vậy thôi, không ai hỏi thêm gì về cặp vợ chồng ấy nữa. Người vợ chừng khoảng trên dưới bốn mươi. Nhìn những đường nét trên mặt người đàn bà người ta cũng đoán  được chị ấy có một thời là cô gái xuân sắc. Bởi một vài nét trên khuôn mặt chị, thời gian đã tỏ ra bất lực hay vị một chút tình riêng nào đó mà không thực hiện đầy đủ trách nhiệm của  Thượng đế giao cho: Hãy trừng phạt Adam và Eva bằng cách làm cho nó phải đau khổ khi nhìn thấy khuôn mặt con cháu nó lúc về già phải biến đổi một cách xấu xí! Nhờ vậy mà khuôn mặt người đàn bà dù ở tuổi trên bốn  mươi mà vẫn còn giữ được nét khả ái và quyến rủ. Còn người chồng thì không ai đoán được tuổi. Cũng không hình dung ra được khuôn mặt người ấy lúc trẻ như thế nào.

  Phòng điều trị của người chồng thuộc tầng trệt của dãy lầu ba tầng. Nó nằm phía góc trái. Trên sân bệnh viện ngay trước cửa phòng, có một cây đa Ấn độ tỏa nhánh rậm rạp mát mẻ. Hai vợ chồng họ ở chung phòng với một bệnh nhân là một cậu con trai trạc mười tám, hai mươi tuổi. Được cả cha mẹ cậu thay nhau chăm sóc. Cậu thanh niên mỗi lần lên cơn động kinh là trốn khỏi bệnh viện, khiến cha mẹ cậu hết sức vất vả tìm kiếm. Có lần phải nhờ cả Công an khu phố tìm giúp.

Nếu chỉ việc người vợ săn sóc nuôi chồng quá chu đáo, thì ở bệnh viện nầy không phải chỉ có một mình chị. Người ta chú ý đến câp vợ chồng nầy bởi cách chìu chồng của người vợ. Chìu chồng một cách quá đáng, người ta nghĩ như vậy. Việc chìu chồng hoặc chìu vợ thì chẳng có gì lạ. Nhưng chìu một người bệnh tâm thần dù người bệnh là chồng, hoặc  vợ hoặc con cái của mình là điều quá khó. Bởi đòi hỏi cùa người bệnh đôi khi hết sức vô lí, ai mà làm theo cho được!

Ngoài việc cơm nươc, giặt giũ, nhận thuốc, phân thuốc cho chồng uống hàng ngày, người đàn bà còn đóng vai một người tình như lúc hai người chưa cưới. Buổi sáng, buổi chiều chị quàng vai anh dạo bước trong sân bệnh viện. Có khi chị cùng chồng đi lang thang cùng anh khắp các con đường vắng vẻ quanh bệnh viện. Được cái là anh hiền lành, ngù ngờ như một đứa trẻ. Không la hét, không đập phá cũng không tìm cách trốn khỏi bệnh viện như cậu thanh niên cùng phòng. Có điều là người chồng mắc một chứng ám thị nào đó mà sinh ra thói quen kì cục, là đi đâu cũng mang một chiếc ba lô con cóc sau lưng, vừa đi vừa   nhặt những que rác anh ta thấy dọc đường bỏ vào ba lô, miệng mỉm cười nói: Củi nhiều quá.Vậy mà chị không can anh, chị còn nhặt giúp anh những que củi rồi bỏ vào ba lô cho anh. Chị cũng cười:-Nhiều củi quá phải không anh? Người đàn ông gật đâu:-Củi nhiều quá.

Chị  bó những nhánh củi nhặt được thành từng lọn nhỏ và xếp ngay ngắn dười gốc cây đa trước cửa phòng, nơi chị dùng làm bếp nấu ăn. Chị đào đất lên và sửa nó lại thành cái bếp mà bộ đội thường gọi là bếp hoàng cầm được dùng trong các chiến dịch.Tối đến chị ngồi cùng anh dười gốc cây lần lượt đôt những bó củi. Ánh lửa lập lòe in hình bóng anh chị lung lình trên mặt đất. Chị hỏi anh:

-Anh có biết bóng của anh là cái nào không?

Người đàn ông chỉ vớ vẩn. Chị cười và chỉ  lại cho anh. Sau đó chị hỏi lại. Mấy lần nhưng người đàn ông vẫn chỉ không đúng.

Một  đêm khác khi đốt lửa xong chị hỏi:

-Đêm  nay anh nấu mấy lon gạo?

Anh cười ngô nghê:

-Ba lon.

Chị  lại hỏi:

-Đơn vị anh mấy người mà anh chỉ nấu ba lon?

Anh lại cười ngu ngơ:

-Một người.

Chị  phá lên cười:

-Đơn vị  chỉ có một người làm sao  mà  đánh giặc? Mà thủ trưởng anh tên gì?

Anh chỉ cười.

Một  đêm khác khi đốt lửa lên chị hỏi anh:

-Đốt lửa như thế nầy anh không sợ địch phát hiện sao?

Anh nhìn lên vòm cây đa tối om rồi lắc đầu.

Chị  nói:

-Lá  đa che kín địch không thấy phải không?

Anh lắc đầu chẳng nói gì. Có lúc chị hỏi tên anh bằng một thứ giọng của cấp trên ra lệnh:

-Đồng chí tên gì? Báo cáo cho tôi biết?

Anh hơi hốt hoảng một chút rồi ngồi lặng im.

Những câu chuyện như thế vẫn diễn ra bên ánh lửa lậplòe dưới gốc cây đa trước sân bênh viện, hết đêm nầy đến đêm khác. Thân nhân của những người bệnh đi ngang qua thấy vậy lúc đầu họ lấy làm lạ rồi sau cũng quen dần chẳng ai để ý.



   Một buổi sáng chị dậy sớm lúc anh đang ngủ. Chị phải về quê lấy gạo và mang thức ăn lên. Biết tính anh không quậy phá, chỉ đi kiếm củi xong là về phòng nằm. Hồi ở trung tâm an dưỡng anh vẫn sống một mình như vậy. Chị gởi anh lại  cho cha mẹ cậu thanh niên nhờ nhận thuốc và thức ăn tối cho anh. Sáng mai chị sẽ trở lại.

Tối  đó không có chị, như thói quen anh ra ngồi dưới gốc cây đa. Anh mang tất cả những bó củi chị chồng dười gốc cây ra đem đốt một lần, anh còn lấy chiếc bếp dầu mà chị dùng để nấu ăn để gần đó, tưới hết dầu hỏa lên rồi châm  lửa. Ngọn lửa cháy lan ra chiếc bếp dầu và gặp can dầu lửa nó phụt cháy dữ dội. Anh dùng tay đập, hai bàn tay anh cháy bỏng, cháy lan lên cả tay áo, nhưng ngọn lửa càng bùng to. Anh hốt hoảng phóng vào phòng trực bệnh viện đập cửa miệng thét lên- Thủ trưởng ơi! Thủ trưởng ơi cháy to rồi.

Chị  y tá trực hốt hoảng vùng dậy, hỏi trong cơn ngái ngủ:

-Cái gì vậy?

Anh la lên:

-Thiếu tá Hoàng Trung tiểu đoàn trưởng đâu. Nhờ đồng chí báo cho đồng chí ấy biết đang có cháy to. Kia kìa.

Anh chỉ tay qua gốc cây đa, ngọn lửa cháy  hết dầu đang có vẻ tàn xuống.

Người y tá chợt hiểu, nắm ngay cơ hội:

-Đồng chí tên là gì để tôi báo cáo?

-Tôi là Phan Cải, anh nuôi của tiểu đoànX. Nhờ đồng chí báo cáo… tôi vô ý để lửa…

Người nữ y tá vui mừng quàng vai anh thương binh và nói:

-Anh bình tĩnh đi anh Phan Cải à. Lửa hết cháy rồi đấy.



      Chị đi lấy gạo và thức ăn ở quê lên. Mới bước vào cửa bệnh viện thì cô y tá từ phòng trực chạy ra và reo lên:

-Chị Thanh ơi, mừng cho chị, chồng chị đã tỉnh lại rồi.



                                                      *



    Ngày 7 tháng7 năm 1980, anh Cải và chị Thanh rời bệnh viện tâm thần. Chị Thanh mang một bó hoa cùng anh lên tặng bác sĩ Giám đốc.

Giám  đốc bệnh viện bắt tay chị Thanh vui cười nói:

-Chị  là người vợ  tuyệt vời nhất đấy chị Thanh ạ. Tôi chúc anh chị sống những ngày còn lại thật hạnh phúc.

Chị Thanh mỉm cười:

-Cảm ơn Bác sĩ Giám đốc. Nhưng  anh ấy không phải chồng tôi, bác sĩ à.



                                                          7/7/ 2002 NBT
READ MORE - NGỌN LỬA BẾP VĨNH CỬU - Truyện ngắn Nguyễn Bá Trình

MÙA HÈ TỚI - Nhạc và lời Phạm Anh Dũng - Thái Hiền hát - Duy Cường hòa âm






Mùa Hè tới! 
Ngàn phượng thắm 
đùa trong nắng mới 
Dòng sông trong vắt xoay quanh đồi đưa sóng trôi 

Trời trong sáng 
Hàng mây trắng 
cuộn trôi lãng đãng 
Bầy chim ríu rít hót lên mừng mùa Hè sang 

Gió mát về êm êm vờn mơn man 
Tiếng sáo diều vi vu tràn không gian 
Lũ bướm vàng lang thang tìm nhụy hoa 
Tiếng ve sầu lâng lâng gọi hồn ai 

Mùa Hè tới! 
Làn môi thắm 
cười trong nắng mới 
Ngàn cây xanh lá vui tưng bừng trong nắng mai 

Trời trong sáng 
Tà áo trắng 
lượn bay thấp thoáng 
Lòng ta phơi phới khúc ca mừng mùa Hè sang


READ MORE - MÙA HÈ TỚI - Nhạc và lời Phạm Anh Dũng - Thái Hiền hát - Duy Cường hòa âm

Lê Bá Lư - KÝ SỰ TÂY BẮC - Kỳ 1: HÒA BÌNH VÀ SƠN LA


     Từ trung tuần tháng 3/2013, được Tổng Công ty Điện Lực miền Nam và Tổng Công ty Điện lực miền Bắc thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam tạo điều kiện, chúng tôi đã có dịp đến thăm một số tỉnh thuộc vùng Tây-Bắc của Tổ quốc.

     Chúng tôi đã đến các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Bắc Giang, Tuyên Quang...; đã thăm hai nhà máy Thủy điện lớn nhất nước và khu vực Đông nam Á là Hòa Bình và Sơn La; thăm các di tích lich sử tại Điện Biên Phủ, như đồi A1, hầm tướng Pháp De Castries, nhà tù Sơn La, cột cờ Lủng Cú ở Đồng Văn (Hà Giang), cây đa Tân Trào, Đình Bảng (Tuyên Quang)...; thăm Dinh "Vua Mèo" ở Hà Giang; "mục sở thị" chợ tình SaPa (Lào Cai); tìm hiểu những phong tục, tập quán và những  nét văn hóa đặc trưng của đồng bào các dân tộc vùng Tây Bắc...

     Điểm đến đầu tiên là Hòa Bình. Tại đây chúng tôi đã  đến tham quan  Nhà máy Thủy điện Hòa Bình (hay còn gọi Thủy điện Sông Đà), được xây dựng trên giòng sông Đà. Thủy điện Hòa Bình được khởi công xây dựng từ ngày 6/11/1979 và sau 15 năm xây dựng, nhà máy đã khánh thành đi vào hoạt động  ngày 20/12/1994. Nhà máy do Liên Xô trước đây  giúp đỡ xây dựng, có công suất thiết kế 1.920 megawatt, gồm 8 tổ máy phát điện.  Sản lượng điện hàng năm là 8,16 tỷ kWh. Đặc biệt, các tổ máy phát điện của nhà máy đều được đặt trong đường hầm đào sâu vào  dưới chân núi.
     
     Ngoài nhiệm vụ phát điện, là nguồn cung cấp điện chủ lực cho toàn hệ thống điện Việt Nam, công trình Thủy điện Hòa Bình còn có các nhiệm vụ chống lũ cho vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng; tưới tiêu, chống hạn cho sản xuất nông nghiệp vùng hạ lưu sông Đà và đồng bằng sông Hồng; điều tiết mực nước sông, đồng thời đẩy nước mặn ra khỏi các cửa sông. Thủy điện Hòa Bình còn giúp cải thiện việc đi lại bằng đường thủy  kể cả hạ lưu và thượng lưu sông Đà.

    Thủy điện Hòa Bình là một công trình vĩ đại của thế kỷ 20 của Việt Nam. Trước khi có Thủy điện Sơn La, Hòa Bình là Thủy điện lớn nhất Việt Nam và khu vực Đông Nam Á.

    Trong quá trình xây dựng đã có 186 cán bộ, công nhân hy sinh, trong đó có 10 chuyên gia Liên Xô.  Tại Nhà truyền thống Thủy điện Hòa Bình có lưu giữ một bức thư của "NHỮNG NGƯỜI XÂY DỰNG THỦY ĐIỆN HÒA BÌNH GỞI THẾ HỆ MAI SAU- THƯ  ĐƯỢC MỞ VÀO NGÀY 01-01-2100". Bức thư được lưu giữ trong một khối đá hình thang cạnh đáy 2 mét, cạnh trên 0,8 mét, cao 1,8 mét  và nặng gần 10 tấn. Lá thư là một công trình tập thể được viết bằng mực tàu, gồm hai bản tiếng Việt và tiếng Nga.

    Từ Hòa Bình đi qua Sơn La khoảng hơn 250km, xe chạy trên Quốc lộ 6, đường  ngoằn nghoèo, khúc khuỷu, quanh co lên đèo xuống dốc theo các sườn núi;  nhiều đoạn sương mù che phủ, tầm nhìn  ô tô chỉ khoảng 50 mét, ban ngày cũng phải pha đèn. Phong cảnh núi rừng thật hùng vĩ, núi non trùng điệp. Lúc này mùa Xuân, thời tiết dễ chịu, nhiệt độ bên ngoài khoảng 20 độ C, nhiều bông hoa đua nở, có những vạt rừng hoa ban nở trắng xóa; những đồi chè, nương sắn, ô ruộng bậc thang lần lượt trôi qua trong tầm mắt. Phong cảnh thật ngoạn mục, chúng tôi cứ mong cho đường dài thêm ... Sau gần 7 giờ hành trình, đến 13 giờ chúng tôi đã đến thành phố Sơn La, ăn trưa vội vàng và chỉ nghỉ ngơi nửa tiếng, tiếp tục đi lên Thủy điện Sơn La, nằm ở huyện Mường La, cách thành phố Sơn La khoảng 60km.

    Thủy điện Sơn La hiện nay là nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam và khu vực Đông-Nam Á, có công suất lắp đặt 2.400 MW, gồm 6 tổ máy phát điện. Nhà máy  được khởi công xây dựng từ ngày 2/12/2005. Ngày 27/12/2010, tổ máy đầu tiên đã phát điện và đến ngày 23/12/2012, nhà máy đã được khánh thành và chính thức đưa vào hoạt động. Sản lượng điện nhà máy cung cấp hàng năm hơn 10 tỷ KWh,  gần bằng 1/10 sản lượng điện của cả nước năm 2012. Ông Hoàng Trọng Nam, Giám đốc Công ty Thủy điện Sơn La cho biết, sau hơn 2 năm đưa các tổ máy đi vào hoạt động, đến nay Thủy điện Sơn La đã cung cấp cho quốc gia hơn 15 ty KWh điện.

    Hiện nay, hai Công trình Thủy điện Hòa Bình và Sơn La đã trở thành những điểm du lịch hấp dẫn, thu hút nhiều khách trong nước và quốc tế đến tham quan, tạo nguồn thu đáng kể cho hai tỉnh.

   Một kỷ niệm khó quên trong chuyến hành trình, khi đoàn chúng tôi từ nhà máy Thủy điện Sơn La về thành phố Sơn La trên tỉnh lộ 106, đến đoạn cách thành phố hơn 20km thì gặp sự cố, một cây cổ thụ khoảng hai người ôm, dài hơn 40 mét từ trên núi bất ngờ đổ xuống chắn ngang đường. Chúng tôi hoảng hồn, ai nấy tự hỏi nếu xe đi nhanh hơn khoảng 5 phút thì có khi gặp tai nạn thảm khốc. Vụ cây đổ đã gây ách tắc giao thông hơn một tiếng đồng hồ.

  Về đến thành phố Sơn La trời đã gần tối, chúng tôi được mời đến giao lưu với đồng bào dân tộc Thái ở bản Tông, được các cô gái Thái hồn nhiên, dịu dàng, xinh đẹp, đặc biệt là rất  mến khách, mời uống rượu và thưởng thức các món ăn mới lạ của đồng bào Thái, như cá khe nướng, lợn cắp nách quay, gà đồi luộc, canh lá vén váy...; xem các điệu múa xòe, múa quạt, múa nón, múa thổ cẩm... cùng thưởng thức rượu cần và giao lưu các điệu múa Lâm thôn...

   Gần 11 giờ đêm cuộc vui mới tàn. Trưởng đoàn Phạm Đình Lâm hát khúc dân ca NGƯỜI ƠI NGƯỜI Ở ĐỪNG VỀ và mọi người cùng ngậm ngùi hát theo. Ai cũng bùi ngùi trước lúc chia tay và trong tôi vẫn mãi  còn ngây ngất men rượu cần cùng các điệu múa hồn nhiên...

     
        VÀI HÌNH ẢNH KỶ NIỆM TẠI HÒA BÌNH VÀ SƠN LA:



photo
     Mặt trước  Thủy điện Hòa Bình

photo
  Nhà máy Thủy điện Hòa Bình


  Cổng chính đi vào khu vực đặt các tổ máy phát điện


    Đường hầm bộ dẫn vào khu vực đặt máy phát điện


       Khu vực đặt các tổ máy phát điện


     Mục sở thị


      Từ đập  thủy điện nhìn về hạ lưu sông Đà


     Tên tuổi 186 người hy sinh


   Thắp nén nhang tưởng niệm những người đã hy sinh tại Thủy điện Hòa Bình
                                             ----------------------------------
                                          SƠN LA ĐÂY RỒI...

           Nhà máy Thủy điện Sơn La


              Khách lãng du

                  Đập ngăn nước

      Từ đập ngăn nước nhìn về hạ lưu


             Đường quanh co sườn núi từ Hòa Bình qua Sơn La


        Đồi chè bậc thang

                          Hoa ban nở trắng sườn non


                   Cảnh đẹp quá, phải dừng lại chụp hình thôi!

                Sự cố bất ngờ


          Chờ giải phóng đường thông xe

               Vui sao điệu múa thổ cẩm


       Nhớ sao điệu múa xòe

              Tình lắm điệu múa ô

                         Nhẹ nhàng điệu múa  Lâm thôn


                  Rượu cần chưa uống đã say...


                   Mời  em ly rượu trước lúc chia tay


            Bùi ngùi tạm biệt - NGƯỜI ƠI NGƯỜI Ở ĐỪNG VỀ!

READ MORE - Lê Bá Lư - KÝ SỰ TÂY BẮC - Kỳ 1: HÒA BÌNH VÀ SƠN LA