Đường làng Hưng Nhơn - Ảnh Nguyễn Như Khoa |
Làng Hưng Nhơn làm ruộng ai mà chẳng biết bởi nó là vùng độc canh lúa nước, một làng thuần nông. Bài này tôi muốn gửi tới các cháu sinh sau năm 1990. Trước đó ít nhiều đã nếm cái gian khổ của nghề nuôi sống chính của quê nhà.
Ruộng đồng quê ta bát ngát thẳng cánh “đại bàng bay”. Để hình dung cánh đồng khi chưa cơ giới hoá.
Độ cao (tương đối) chênh lệch trên dưới 1m. (Ruộng Cồn Mồ Kiềm với ruộng Cây Ngang). Còn chênh với mức nước biển là -8 đến -100. Có năm bị triều cường đe doạ.
Khoảng 1/10 diện tích làm một vụ. Còn lại hai vụ. Hệ thống tưới tiêu làm thay đổi bộ mặt đồng ruộng. Hầu hết làm hai vụ, đặc biệt chất lượng không chênh nhau lắm. Nếu trước đây phân mười bậc (tốt, xấu) thì nay có thể bốn đến năm bậc. Lạm phép tôi phán đoán thế, bởi tôi không am hiểu lắm.
Để nhớ:
Cái chung nhất: “ruộng sâu trâu nái”. Đàn ông phải lo khâu nặng nhất là cày bừa, đàn bà lo cấy và làm cỏ.
Đồng ruộng trôi nổi theo hai mùa lụt. Tháng tư : tiểu mản và lụt từ giữa tháng 8 đến cuối tháng mười. Tuy hết lụt lội nhưng đồng ruộng mênh mông nước cho đến tháng chạp.
Vụ mùa bắt đầu tháng 11 (lên Trạch Phổ, Mỹ Xuyên) thuê và gieo mạ. Tháng 12 ra đồng cày. Khi cày còn ngập lưng trâu, cày phải cắm vè. Trời rét cắt da.
Mạ nhổ về, chất ngổn ngang ở đập bởi dòng hói phải ngăn lại giữ không cho nước sông chảy vào ruộng. Đêm giữ mạ và chuyền lòi qua đập rồi dùng ghe thuyền (hoặc gánh bộ) chở cả đêm ra đồng để sáng mai có mạ để cấy. Người cấy quần xăn tận bẹn, mạ cấy chỉ còn le ve một tí trên ngọn. Lạnh quá, các mụ kể cả các o phải quấn điếu thuốc lá thật to rít thật mạnh, điếu thuốc cháy bùng, phà khói mù mịt có khi nuốt cả khói cho ấm bụng.
Vụ trái bắt đầu từ sau Tiểu Mản (cũng lên Trạch Phổ, Mỹ Xuyên thuê và gieo mạ trước). Ăn mồng năm xong ra cắm trại. Khi cày còn ngập lưng trâu. Cày cũng phải cằm vè.
Ta thử hình dung mỗi con trâu mộng giỏi lắm cũng chỉ cày được ba sào (3) mà làng ta có 500 mẫu. Liệu bao nhiêu trâu bao nhiêu ngày ? Nếu tính cả bừa thì bình quân chỉ 2, đến 2,5 sào. Mỗi mẫu mất 4 công trâu, vị chi 500 mẫu x 4 công = 2000. Một mùa cày cấy phải trên dưới một tháng. Tạm tính một tháng thì mỗi ngày trên đồng ruộng có trên 70 trâu và người cày (2.000 / 30). Trâu hết hơi và người cũng còn xương bọc da.
Người đi cấy, bốn giờ sáng đã ăn cơm, 5 giờ lên đường (trời còn tối om) lên nhổ mạ, khi đầy triêng (xâu khoảng 28 -30 nắm mạ), gánh từ Mỹ Xuyên, Trạch Phổ chạy ra đồng và cấy cho xong số mạ đã nhổ, có khi tối mịt mới xong. Cơm trưa thì tuỳ đó mà có thể ăn trưa trước khi gánh mạ ra đồng, cũng có trường hợp gánh mạ ra đồng mới ghé tạm ngồi ăn bên dường ruộng. Bữa tối thì thường về ăn cơm nhà.
Xong vụ cấy là tiếp đến làm cỏ. Vụ mùa làm hai lần, vụ trái từ hai, thường thì ba lần. Vụ trái tháng sáu tháng bảy nắng như đổ lửa, các o các chị và cả các bà nữa bán mặt cho đất bán lưng cho trời dùng hai bàn tay chai sạm quào bùn, quào cỏ mồ hôi mồ kê ướt dầm quần áo suốt ngày này sang ngày khác. Khổ là thế mà các bà sáng tác điệu hò, nghe mênh mang như gió truyền mây gọi. Cả một giàn đồng ca dồn cho giọng hò Ô ( điệu hò này thường hò trong khi làm cỏ, kéo dài kéo dài, xem chừng cũng vơi đi nỗi nhọc nhằn đang oằn trên lưng họ. (Làm cỏ lúa không hò “mái nhì”). Điệu hò Ô hình như mất hẵn, bởi nó biết sẽ có cào cải tiến và thuốc diệt cỏ thay thế.
Vụ trái (gọi là trái bởi nó bấp bênh) dễ mất mùa mà lại tốn nhiều công sức nhất. Thiên nhiên chỉ cho thời gian ba tháng rưởi (đầu tháng năm đến giữa tháng tám) mà giống lúa (lúa Hẻo) những gần bốn tháng nên thường lúa chưa chín nước đã nhấn chìm. Trong mùa đó có cấy loại lúa “Bát” cây cao, thân cứng, gié lúa ít hột, màu đỏ hồng, năng suất thấp, ăn không ngon, tuy nó chỉ cần một trăm ngày (3 tháng 10 ngày). Vì vậy, vạn bất dĩ phải cấy nơi ruộng sâu như Cây Ngang chẳng hạn.
Cấy chưa xong, có ruộng đã khô nẻ. Ba tháng treo chân giữa đồng đạp nước. Đạp ngày hết nước dưới hói lại đạp đêm. Năm nào làng cũng phải huy động dân đào hói. Có năm nguồn nước sông Ô Lâu cũng cạn, hói trước làng ta nước chỉ chẩy le re, lấy đâu ra cho đồng ruộng!
Vụ gặt mùa thường có lụt Tiểu mản và gặt vụ trái gặp lụt thu đông. Lụt thường kèm theo mưa. Cảnh này không nói hết cái khổ. Bao nhiêu công sức vốn liếng bỏ vào, bây giờ phải giành giật với thiên nhiên (lúa đang chìm), gặt về chất đống trên nền sân đất (hầu hết chưa có sân gạch), có khi mọc mầm vẫn chưa chất lúa cho trâu đạp được. Bí quá phả đạp chân để đỡ nóng ruột.
Thuận trời thì chất lúa cho trâu đạp, tuỳ nhiều ít mà tính số trâu, một người dắt (điều khiển) đàn trâu, một người túc trực khi trâu ị để hứng phân. Môt số người chuẩn bị mỏ xảy, xảy tách rơm lấy lúa, tiếp tục trâu đạp lần hai, xảy lấy lúa lần hai, trâu đạp lần ba. Trâu nghỉ thường không trước 12 giờ đêm. Ngày mùa, mỗi đêm ngủ chừng vài tiếng.
Phơi lúa: do sân nền đất, đợi cho ráo sân mới xúc lúa ra, trời nắng đẹp nhất cũng phải ba hôm mới khén, khi gặp mưa thì nháo nhào xúc đổ, xúc đổ trong nhà không có chổ hở, chỉ có lúa là lúa. Hơi lúa bốc lên, phải nói là “nồng nặc”.
Rơm là loại ưu tiên phơi trước bởi nó là ngọn lửa nấu chín cơm canh. Rơm phơi khô có màu vàng tươi, thổi đượm, nhiều tro, còn rơm phơi không kịp nắng màu đen xỉn, một ôm rơm to nấu không chín nồi cơm. Quê ta không gần rừng nên củi là đặc biệt hiếm. Nhà có trâu, rơm là thức ăn chính cho trâu. Lụt ngập đồng, trâu ở trong ràn chỉ nhờ rơm. Trời rét không rơm, trâu chết. Nghèo, giàu đều có “đụn” rơm. Xây xong được đụn rơm mới thở phào nhẹ nhỏm. Nhà tôi ngày xây đụn rơm thế nào cũng có một bữa “bún vịt”. Anh tôi giải thích, xảy rơm cho xoắn lại như sợi bún, xây đụn mới chắc, mới tròn, mới mướt như lông vịt, mưa không thấm vào trong.
***
Thiển nghĩ : Cơ giới hoá, đặc biệt hệ thống tưới tiêu làm cho đồng ruộng quê ta có cao độ “bằng nhau”; giống lúa, thuốc diệt cỏ vân vân và vân vân. Ta có điều kiện chủ động trong sản xuất.
Nhàn ra là cái chắc. Thay vì đôi tay chai sạm quào cỏ để…đến hiệu làm đẹp sơn sửa móng tay. Ngon lành! Ngon lành!
Email: nhuxuan29@gmail.com.
Hà Nội