Tam tòa Thánh Mẫu- ba vị Thánh tối linh trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ.
Hình từ Báo Bắc Giang Điện Tử - baobacgiang.com.vn
TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU Ở VIỆT NAM
Tín ngưỡng thờ Mẫu là sự tin tưởng, ngưỡng mộ tôn vinh và thờ
phụng những vị nữ thần gắn với các hiện tượng tự nhiên, vũ trụ được dân gian
cho là có chức năng sáng tạo, bảo trợ và chở che cho sự sống của con người (như
trời, đất, sông, nước, núi rừng…); hoặc thờ phụng các vị thái hậu, hoàng hậu,
công chúa là những người khi sống tài giỏi, có công với dân với nước, khi mất
hiển linh phù trợ cho người an vật thịnh. Các vị nữ thần này được tôn vinh với
các chức vị: Thánh Mẫu (Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Chúa xứ Thánh Mẫu, Linh Sơn Thánh
Mẫu), Quốc Mẫu (Quốc Mẫu Âu Cơ), Vương Mẫu....
Tục thờ Mẫu ra đời trên cơ sở tục thờ nữ thần. Các Thánh Mẫu
đều là nữ thần, được thờ trong đền, chùa, miếu, điện, phủ. Do ảnh hưởng của Đạo
giáo Trung Quốc, tín ngưỡng thờ Mẫu ở nước ta đã phát triển và hình thành tín
ngưỡng Tam Phủ (Thiên Phủ - miền Trời có Mẫu Cửu Trùng cai quản; Sơn Phủ - miền
núi rừng có Mẫu Thượng Ngàn cai quản; Thủy Phủ - miền sông nước có Mẫu Thoải
cai quản), Tứ phủ gồm ba phủ trên (tức Tam phủ) và Phủ trần gian, có Mẫu Liễu Hạnh
cai quản.
Đến thế kỷ XVI, trên cơ sở tín ngưỡng Tam Phủ, Tứ Phủ, với sự
ra đời của Thánh Mẫu Liễu Hạnh, một tôn giáo bản địa sơ khai được hình thành,
đó là đạo Mẫu (còn gọi là đạo Nội).
So với tín ngưỡng thờ nữ thần, thờ Mẫu, đạo Mẫu đã có bước
phát triển, bước đầu hình thành một hệ thống tương đối nhất quán về điện thần với
các phủ, các hàng Điện Thần của Đạo Mẫu có hàng chục vị thần linh nhưng đều quy
tụ dưới sự điều chỉnh của Tam Tòa Thánh Mẫu. Trong đó có một vị thần Mẫu cao nhất,
mang tư cách là một vị giáo chủ - Thánh Mẫu Liễu Hạnh, được xem như là hoá thân
của Mẫu Thượng Thiên. Những nghi lễ của Đạo Mẫu đã bước đầu được chuẩn hoá,
trong đó nghi lễ hầu bóng là một điển hình.
Điện thờ Mẫu có ở khắp mọi nơi, từ đồng bằng lên miền núi và
cả ở trong khu cư trú của cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Ở một số nơi, ban
thờ Mẫu chỉ là một ban thờ nhỏ khiêm tốn đặt tại một góc trong ngôi chùa, hoặc một điện thờ nhỏ trong gia đình, nhưng
có nơi lại tồn tại như một điện phủ nguy nga. Cho nên, người ta chỉ nhận diện
trong từng kiến trúc tổng thể của điện (ban) thờ, nhất là ở sự bày bố điện
(ban) thờ và nghi lễ thờ cúng, chứ không căn cứ vào chi tiết cụ thể của tín ngưỡng
thờ Mẫu. Chính những nét riêng ấy đã làm nên những đặc trưng của tín ngưỡng thờ
Mẫu khiến cho tín ngưỡng này là một hình thức tín ngưỡng thuần phát đặc biệt của
người Việt Nam.
Cấu trúc nơi thờ Mẫu:
Trong tâm thức dân gian của cư dân nông nghiệp: Dòng sông,
con suối, hồ nước... là những nơi có nước mang tính nữ (Âm). Vì vậy hầu hết các
điện mẫu thường được xây dựng cạnh sông, suối, hồ, biển (cửa biển)... Và các cửa
điện (ban thờ) Mẫu bao giờ cũng được đặt quay về phía nguồn nước - những nơi tụ
thuỷ, tụ phúc, hàm chứa những mong ước làm ăn phát đạt. Vì vậy, nếu như không
chọn được thế đất lành tự nhiên có sông, hồ ôm bọc thì bao giờ trong khuôn viên
dựng điện Mẫu người ta cũng làm hồ, ao, giếng... để dựng lại một không gian cần
phải có, ứng với thuật phong thuỷ của người xưa.
Cũng để tạo tính âm, nhiều điện mẫu ở vùng cao thường được dựng
trong các hang động hoặc xây dựng theo các hòn non bộ với những ngọn đá mọc lên
từ đất hoặc dầm chân trong nước.
Cấu trúc không gian trong điện thờ Mẫu:
Vị trí chư vị Thánh được sắp xếp theo 3 tầng: Tầng trên
không, tầng ngành trên ban, bệ thờ và tầng trệt.
Ở tầng không là sự hiện diện của đôi mãng xà (còn gọi là ông
Lốt), tượng trưng cho quan lớn Tuần Tranh. Một con màu trắng, một con màu sẫm
quấn trên sà ngang phía trái bên trên bàn thờ.
Ở tầng ngang bên trên ban (bệ) thờ có khi chỉ có một bàn, có
khi là một dãy bàn từ ngoài vào cao dần (tùy từng nơi), là nơi ngự của các
thánh Mẫu (cũng có khi chỉ là một tượng Mẫu) và các chư vị Thánh.
Ở hạ ban (tầng trệt) bao giờ cũng thờ ông Năm Dinh hay Ngũ Hổ
tướng quân, với biểu trưng là tượng hoặc bức tranh hổ; phía trước tượng hoặc
tranh, đặt một bát hương.
Trước ban thờ Mẫu bao giờ cũng treo tầng lớp những đồ vàng
mã, nhưng phổ biến và không thể thiếu là nón, hài, thuyền rồng, đèn lồng đủ
màu, với nhiều kích cỡ khác nhau. Sở dĩ có treo những đồ vật ấy vì trong đạo thờ
Mẫu, từ Thánh Mẫu tới hàng quan, hàng chầu, ông Hoàng, các Cô, các Cậu đều gồm
các vị thần linh có gốc gác từ chốn rừng núi cao, nơi ven biển xa xôi, ở mọi miền
của đất nước.
Tam Tòa Thanh Mẫu:
Trong các điện thờ, người ta thờ cúng rất nhiều thần linh,
nhưng đều quy tụ dưới sự điều chỉnh của Tam Toà thánh Mẫu. Vì vậy, nơi điện thờ
chính thường có ba pho tượng thờ, mà tín ngưỡng gọi tôn kính là Tam Tòa Thánh Mẫu.
- Tượng Mẫu Đệ Nhất, mặc áo đỏ, trùm khăn đỏ tức Thánh Mẫu
Liễu Hạnh được đặt ở giữa.
- Bên trái là mẫu Đệ Nhị (mẫu Thượng Ngàn), bà chúa của Sơn
Lâm, mặc áo xanh, khăn xanh.
- Bên phải là mẫu Đệ Tam, tức mẫu Thoải, mặc áo trắng, trùm
khăn trắng.
Văn khấn lễ Tam Tòa Thánh Mẫu:
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
- Con kính lạy Đức Hiệu Thiên chí tôn kim quyết Ngọc Hoàng
Huyền cung cao Thượng đế.
- Con kính lạy Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
- Con xin kính Cửu trùng Thanh Vân lục cung công chúa.
- Con kính lạy Đức thiên tiên Quỳnh Hoa Liễu Hạnh Mã Hoàng
Công chúa, sắc phong Chế Thắng Hoà Diệu đại vương, gia phong Tiên Hương Thánh Mấu.
- Con kính lạy Đức đệ nhị đỉnh thượng cao sơn triều mường
Sơn tinh công chúa Lê Mại Đại Vương.
- Con kính lạy Đức đệ tứ khâm sai Thánh Mẫu, tứ vi chầu bà,
năm tòa quan lớn, mười dinh các quan, mười hai Tiên cô, mười hai Thánh cậu, ngũ
hổ Đại tướng, Thanh Hoàng Bạch xà đại tướng.
Hôm nay là ngày:
tháng: năm: Đệ tử con là:
Ngụ tại:
Đến nơi Điện (Phủ, Đền) ......... chắp tay kính lễ khấu đầu
vọng bái, lòng con thành khẩn, thiết tha, kính dâng lễ vật, cúi xin các Ngài
xót thương phù hộ độ trì cho gia chung chúng con sức khỏe dồi dào, phúc thọ
khang ninh, đắc tài, đắc lộc, vạn sự hanh thông, gặp nhiều may mắn.
Đệ tử con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được
phù hộ độ trì.
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
(Trích từ VÀO CHÙA LỄ PHẬT NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT,
Đặng Xuân Xuyến; Văn Hóa Thông Tin; 2006)