HOA HỒNG XANH VÀ LÁ DIÊU BÔNG
BÀI THƠ BLUE ROSES - HOA HỒNG XANH
Hoa Hồng Xanh - Blue Roses là bài thơ của Rudyard Kipling, một văn thi sĩ người Anh.
I. Vài Hàng Tiểu Sử Rudyard Kipling
Joseph
Rudyard Kipling (sinh tại Mumbai, Ấn Độ 30 tháng 12, 1865 – qua đời 18 tháng 1, 1936) là một trong những tác giả nổi tiếng nhất ở Vương quốc Anh, cả về văn xuôi
và thơ, vào cuối thế kỷ 19 và
đầu thế kỷ 20. Rudyard
Kipling đoạt giải Nobel Văn học năm 1907 - ông được trao giải Nobel khi mới 42 tuổi – là
người trẻ tuổi nhất trong lịch sử giải
Nobel Văn học.
Các tác phẩm tiêu biểu:
- Plain Tales from the Hills (Truyện kể núi
đồi, 1887)
- The Jungle Book (Sách Rừng xanh, 1894), tập truyện - dựng thành phim
- The Five Nations (Năm dân tộc, 1903), thơ
- If (Nếu, 1910), thơ - Cuối thế kỷ XX, đài
BBC đã đề nghị thính
giả chọn những bài
thơ hay nhất của các
nhà thơ Anh, bài
thơ này được chọn nhiều nhất.
- Đặc biệt bài thơ Blue Roses được rất nhiều
người biết đến và thích. Có người cho nó thuộc về thơ "Siêu thực". [..."Chủ nghĩa/Trường phái Siêu thực (Surrealism) là khuynh hướng nghệ thuật bắt nguồn từ chủ nghĩa Tượng trưng và
Phân tâm học, đặt phi lý
tính lên trên lý tính. Chủ
trương, khuynh hướng trường phái nầy nhằm giúp con người thoát ra khỏi mọi xiềng xích xã hội. Chủ nghĩa siêu thực cố gắng diễn tả tiềm thức bằng cách
trình bày các vật thể và
sự việc như được thấy trong những
giấc mơ"...] (Nguồn Wikipedia)
II. Bài thơ Blue Roses
Xin giới thiệu đến các bạn
bài thơ Blue Roses, theo tôi đầy cảm xúc, đánh động lòng người.
Nguyên tác:
Blue Roses
By Rudyard Kipling
Roses red and
roses white
Plucked I for my
love's delight.
She would none of
all my posies--
Bade me gather her
blue roses.
Half the world I
wandered through,
Seeking where such
flowers grew.
Half the world
unto my quest
Answered me with
laugh and jest.
Home I came at
wintertide,
But my silly love
had died,
Seeking with her
latest breath
Roses from the
arms of Death.
It may be beyond
the grave
She shall find
what she would have.
Mine was but an
idle quest--
Roses white and
red are best
III. Ý
nghĩa của hoa
hồng xanh
Hoa hồng xanh
tượng trưng cho những điều không thể thành hiện thực, hoặc không thể đạt được. Bởi hoa hồng xanh rất hiếm trong tự nhiên,
nên nó đại diện cho điều gì
đó hầu như không
nằm trong tầm tay của con người, một
giấc mơ không thể thực
hiện.
IV. Dịch Thơ
Blue Roses
Có nhiều người dịch bài thơ Blue Roses, sau đây là các bài dịch tiêu biểu:
1. Nguyễn Viết Thắng dịch:
Hoa hồng xanh
Tôi mang đến tặng em
Hoa hồng đỏ và trắng.
Không hiểu sao em bỗng
Nói em thích hồng xanh.
Tôi đi khắp thế gian
Tìm thứ hoa như vậy.
Nhưng người ta cười nói:
“Chẳng có ở trên trần”.
Tôi trở về mùa đông
Em của tôi đã chết
Em có còn nhận biết
Hoa từ tay Tử thần.
Biết đâu nơi suối vàng
Có loài hoa ao ước.
Chẳng có hoa nào đẹp
Bằng hoa cõi trần gian.
2. Trần Đức Phổ dịch:
Bông Hồng Xanh
.
Hoa hồng đỏ, hoa hồng trắng
Tôi hái trao tặng người thương
Vô tình nàng chê chẳng nhận
Đòi màu xanh biếc hoa hường!
Lang thang nửa vòng trái đất
Chẳng đâu mọc thứ hoa này
Hỏi tìm nửa vòng trái đất
Chỉ toàn cười mỉa, chua cay
Trở về trong mùa đông lạnh
Người yêu thơ dại qua đời
Nhìn nàng trút hơi thở cuối,
Tử thần cướp đóa hồng tôi!
Có lẽ bên kia thế giới
Nàng tìm thấy được niềm vui
Riêng tôi chân tình chẳng đổi
Hồng đỏ. hồng trắng tuyệt vời!
3. Nguyên Lạc phóng dịch
a. Vài ý riêng về dịch thơ nước ngoài:
Trước khi phóng dịch bài thơ, tôi xin ghi ra đây vài ý chủ quan:
- Dịch thơ từ tiếng nước
ngoài, nhất
là tiếng đa âm - các nước phương Tây, ra tiếng đơn âm - tiếng Việt; hoặc ngược lại, là một điều rất khó. Coi chừng "dịch
là diệt". Dịch chính xác từng mặt chữ - giống như các dịch giả chuyên nghiệp, thì bài thơ sẽ không mượt
mà. Theo tôi,
thi nhân chỉ cần nắm bắt được "hồn thơ", dịch theo ngôn ngữ riêng của mình - với điều kiện đừng quá xa rời nguyên bản - thì bài thơ dịch sẽ mượt mà hơn.
- Tiêu biểu viêc nắm vững "hồn thơ" rồi dịch rẩt tài hoa là trường hợp Phan Huy Vịnh, dịch câu thơ chữ Hán của Bạch Cư Dị ra tiếng thuần Việt mà nhiều người cho là còn hay hơn câu nguyên tác:
Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân => Cùng một lứa bên trời lận đận
- Với những điều nói trên, tôi sẽ không dịch chính xác theo mặt chữ một vài từ/ chữ, chỉ dịch thoát chúng theo ý/tứ câu/bài thơ.
Thí dụ: "The grave" không dịch là "mộ phần", "nghĩa địa", "chết" ... mà dịch là "cõi khác". Tương tợ, "Half the
world" tôi không dịch là "nửa vòng trái đất", mà dịch là "khắp cùng trái đất", "khắp cùng thiên hạ" cho mạnh nghĩa, vân vân...
b. Phóng dịch bài thơ:
Tôi sẽ cố gắng nắm "hồn thơ", theo
sát nguyên
tác để dịch bài thơ Blue Roses . Chủ quan, trong công việc dịch thuật
văn thơ nước
ngoài, ai cũng
tham khảo các người dịch trước, tôi cũng không
ngoại lệ.
Đúng ra bài
thơ này có nhiều người dịch rồi, tôi không nên dịch; nhưng vì đồng ý với nhiều
người cho rằng nó thuộc về thơ "Siêu thực", và giống như bài thơ Việt Nam nhiều người yêu thích- đã được các nhạc sĩ tài hoa phổ nhạc : Lá Diêu Bông của thi sĩ Hoàng Cầm - nên tôi dịch lại.
Bài thơ hầu như là loại thơ 6 chữ, do đó theo chủ quan tôi, dịch thơ theo loại 5 chữ thì thiếu chữ, không diễn tả hết ý nguyên bản; còn dịch bằng 6/8, 7 hoặc 8 chữ ... thì dư chữ và khó khăn. Tôi sẽ phóng dịch bằng thơ 6 chữ như thi sĩ Trần Đức Phổ.
Đây là bài phóng dịch thơ của tôi:
HOA HỒNG XANH
Hoa hồng trắng hoa hồng đỏ
Hái tặng làm vui tình nhân
Không phải màu hoa mong muốn
Nàng đòi xanh biển hoa hồng!
Lang thang khắp cùng trái đất
Tìm đâu được thứ hoa này
Hỏi
tìm khắp cùng thiên hạ
Nhận toàn
giễu cợt mỉa mai
Về đúng ngay lúc mùa đông
Ngây thơ yêu đang hấp hối
Tìm nàng thở hơi
thở cuối
Hoa hồng trong tay Tử thần!
Có lẽ bên kia cõi khác
Nàng sẽ tìm được hồng xanh
Riêng tôi tấm
lòng không khác
Trắng đỏ tuyệt nhất luôn dành
BÀI THƠ LÁ DIÊU BÔNG
Lá Diêu Bông là bài thơ của Hoàng Cầm,
thi sĩ người Việt. Bài thơ
Blue Roses - Hoa Hồng Xanh khiến ta liên tưởng đến bài thơ Lá Diêu Bông của thi sĩ Hoàng Cầm, vì cả hai đều nói đến sự truy tìm những
điều không
thể thành
hiện thực.
Bài
thơ Lá Diêu
Bông viết về một câu chuyện có thật, câu chuyện về mối tình đầu tiên trong đời Hoàng Cầm với người con gái lớn tuối, đáng chị mình.
1. Tiểu sử Hoàng Cầm
Hoàng
Cầm tên
thật là
Bùi Tằng Việt, sinh năm 1921 (một bài
báo ở Saigon gần đây
cho biết ông sinh vào năm 1922) tại Làng Lạc Thổ, Huyện Lang Tài, Phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh trong một gia đình
Nho Giáo. Hoàng Cầm học Tiểu Học tại Bắc
Giang rồi lên Hà Nội học
Trung Học và đậu Tú
Tài II Pháp. Khi còn đang học lớp
Ðệ Tứ, Hoàng Cầm phóng tác cuốn Graziella của Lamartine thành
chuyện Việt Nam với tên
Hận Ngày
Xanh. Tiểu thuyết đầu tay của
Hoàng
Cầm là
Thoi Mộng, viết vào
năm 1943. Trở về Bắc Giang, dạy học
tại trường La Clarté, Hoàng Cầm vẫn viết văn, làm thơ để gửi đăng trên các báo Tiểu Thuyết Thứ Năm, Tiểu Thuyết Thứ Bẩy. Anh là
người dịch truyện Ba Tư Một Ngàn
Ðêm Lẻ ra Việt ngữ... [Hoàng Cầm Trong Tôi - Phạm Duy]
2. Nguyên văn bài thơ
Lá Diêu Bông
Đứa nào/ tìm được lá diêu bông
Từ nay ta gọi là chồng.
Mùa Đông sau em tìm thấy lá
Chị lắc đầu/Trông nắng vãn bên sông
Ngày cưới chị/ Em tìm thấy lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim
Chị ba con/ Em tìm thấy lá
Xoè tay phủ mặt chị không nhìn.
Từ thuở ấy/ Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể/ Gió quê vi vút gọị
Diêu bông hời … ới Diêu bông!”.
(Hoàng Cầm)
3. Phổ nhạc bài thơ Lá Diêu Bông
- Năm
1984 bài thơ Lá
Diêu Bông của Hoàng Cầm đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhac, cùng tên. Nội dung bài thơ được
giữ nguyên,
Phạm Duy chỉ thêm
vào hai câu lục bát ở cuối bài:
Em đi trăm núi
nghìn sông
Nào tìm thấy lá diêu bông bao giờ?
- Ngoài ra, khoảng năm 1990, nhạc sĩ Trần Tiến phổ lại nhạc với lời mới cho bài thơ này, bài hát mang âm hưởng dân ca Bắc bộ, lấy tên là "Sao em nỡ vội lấy chồng".
Trích lời bài hát "Sao em nỡ vội lấy chồng" - Trần Tiến :
Bướm vàng đã đậu trái mù u rồi
Lấy chồng sớm làm gì, để lời ru thêm buồn
Ru em thời thiếu nữ xa xôi
Còn đâu bao đêm
trăng thanh
Tát gàu sòng, vui
bên anh
Ru em thời con gái kiêu sa
Em đố ai tìm được lá diêu bông
Em xin lấy làm chồng
. . .
Thương em tôi tìm được lá diêu bông
Sao em nỡ vội lấy chồng
Diêu bông hỡi diêu bông
Sao em nỡ vội lấy chồng!
4. Về lá diêu bông:
Lá
diêu bông là lá gì ?
- Lá diêu bông (lá bông diêu thì đúng hơn)
là thứ lá đặc biệt ở làng Ðình Bảng, Bắc Ninh, phụ nữ thời xưa thường vắt ra nước rồi bôi
lên mặt cho da dẻ được hồng hào
tươi đẹp - theo Phạm Duy
- Lá diêu bông được nhà thơ Hoàng Cầm giải thích rằng đó là lá của hoa phiêu diêu, hoa trong mộng tưởng. Tình yêu luôn đẹp và phiêu diêu như vậy.
***
Theo chủ quan của tác giả bài viết thì cả hai bài thơ đều hay, đầy cảm xúc. Vấn đề được nêu ra ở đây là:
- Những
điều bản thân mình mong muốn mà
"không thể trở
thành hiện thực", khi
người
mình thương yêu
"vẫn hiện hữu" và người mình thương yêu đã bị "Thần
Chết cướp đi", cái nào thảm hơn cái nào?
Nguyên Lạc
...................
Mời nghe:
- Lá Diêu
Bông (Thơ Hoàng Cầm, nhạc Phạm Duy - Ý Lan hát)
- Sao Em Nỡ Vội Lấy Chồng
(Nhạc Trần
Tiến - ca sĩ Tố
My)