Vang vọng
dài
theo ngọn
gió
bay xa()
TS.
Bùi Như Hải
1.
Nhà thơ Nguyễn Văn Trình là một
trong những gương mặt tiêu biểu của
nền văn học QuảngTrị
đương đại. Nếu tính
từ bài thơ đầu
tiên Chiều
biên cương viết vào năm
1980 đến nay, Nguyễn Văn Trình đã
có hàng chục
bài thơ đăng ở các báo,
tạp chí Trung ương và địa
phương, hàng trăm bài thơ đã được
tải lên trên các trang mạng
Facebook, Zalo, trong các tuyển
tập thơ in chung, thì
đã xuất bản được 3 tập thơ in riêng,
đó là: Mây trắng bên trời
(Nxb.Thuận
Hóa, 2011), Nắng chiêm bao (Nxb.
Hội nhà văn, 2019), Bóng
chiều rơi (Nxb.Hội
Nhà văn, 2022). Với hành
trình sáng tác
hơn 40 năm không ngừng nghỉ - khoảng
thời gian cũng đủ
để Nguyễn Văn
Trình thể hiện
niềm say mê đắm đuối,
khát vọng mãnh
liệt của một
nhà thơ tài năng, một cá
tính thơ riêng khác đầy sáng tạo,
độc đáo, có thành
tựu, có sự
đóng góp không nhỏ
vào nền thơ ca đương đại QuảngTrị
nói riêng và nước
nhà nói chung, được
bạn bè, đồng
nghiệp, độc giả
và giới nghiên cứu,
phê bình văn học dành
nhiều tình cảm
yêu mến, quan tâm, đón nhận, viết
bài có cả
khen ngợi lẫn góp
ý.
Bóng chiều rơi của nhà thơ Nguyễn
Văn Trình, do Nhà xuất bản
Hội Nhà văn
ấn hành sẽ
được ra mắt bạn
đọc vào quý
II năm 2022. Tập thơ tập hợp111 thi
phẩm, thể hiện một
cách sâu sắc về thế
giới tâm hồn phong phú, về bản
lĩnh sáng tạo
nghệ thuật
độc đáo, tinh tế,
biến hóa sinh động. Nhan đề
tập thơ rất ấn
tượng, in đậm dấu
ấn trong sự nghiệp
cầm bút của
nhà thơ Nguyễn Văn Trình khi tuổi
đời đã ngoài lục tuần, được chưng
cất lên bởi sự trải
nghiệm thời gian dài hơn bốn mươi
năm miệt mài, cần mẫn, công phu
cày xới trên cánh đồng ruộng chữ, để rồi
ươm mầm, cho ra đời những quả ngọt thi
ca dày dặn, tinh tế, đầy âm thanh,
nhạc điệu, man mác tình
cảm nhẹ
nhàng, được chắt
lọc từ trái
tim của một nhà
giáo, nhà thơ vượt qua cái tuổi
“lục thập nhi nhĩ thuận”.
2.
Nội dung thể hiện trong Bóng
chiều rơi
đa dạng, phong phú đủ mọi
sắc màu của
cuộc sống, đủ
các cung bậc của
tình cảm, trong đó
cảm thức về
quê hương, đất nước, gắn
bó sâu nặng, nghĩa tình
với Tổ quốc
và nhân dân, với người
lính, với mái
trường thân yêu và tình
yêu đôi lứa… là những mạch
ngầm cuộn
chảy, xuyên suốt trong cuộc đời
cầm bút của
nhà thơ Nguyễn Văn Trình.
2.1.
Tình yêu quê hương là một
thứ tình cảm
đặc biệt, sâu sắc,
chung thủy, được Nguyễn Văn Trình
dưỡng nuôi và lớn
lên qua từng năm tháng. Những
thi phẩm về quê
hương được anh viết ra từ gan
ruột, đủ để người
đọc cảm nhận
được những ân
tình của nhà thơ Nguyễn
Văn Trình đối với quê hương.
Đông Hà - quê hương của Nguyễn
Văn Trình đã trở
thành mạch
nguồn chính, dồi
dào, bất tận trong
suốt hành trình
sáng tác thi ca
của anh. Mảnh đất
này không chỉ là
nguyên quán, mà còn là
nơi Nguyễn Văn Trình vui buồn, ân nghĩa quanh đời, gửi
trao tin cậy trọn cả
cuộc đời của
mình, những thi phẩm
tiêu biểu như: Thẫn thờ chốn quê, Chiều trên
sông quê, Thương hoài giếng quê, Mãi bờ tre xanh…
là tiếng nói
thao thiết yêu quê hương, cất lên từ những
cung bậc trầm lắng,
đạm nhiên, da diết. Nguyễn Văn
Trình tạo được
ấn tượng bởi
một lối viết
tài hoa, cảm xúc
chân thật từ những
gì gần gũi,
thân thương nhất qua những hương vị của
cảnh vật thiên
nhiên, đất đai, sông nước, màu sắc,
hương thơm, âm thanh… của quê nhà:
“Chiều quê / Cảnh cũ bờ tre / Chim ca /
Ríu rít mà nghe rộn ràng / Quê hương, làng nước, tuổi
thơ… / Vấn vương / Nỗi nhớ, thẫn thờ chốn quê.”
(Thẫn thờ chốn quê)
Hình hài quê hương hiển thị
trong thơ của Nguyễn Văn Trình qua
một dòng sông, một bến
đò, một điệu
hò hay dáng hình cô
thôn nữ nghiêng
nghiêng vành nón
đợi trông… Tất cả
đều mang vẻ đẹp
mộc mạc chân
quê, lý tưởng, nặng
sâu tình yêu quê hương của thi
nhân:“Ra sông/ Lại nhớ đến đò / Nhớ
cô / Thôn nữ điệu hò trên sông / Nghiêng nghiêng/ Vành
nón đợi trông / Giấu trong/ Thổn thức, nỗi lòng người
thương.”(Chiều trên sông quê)
Nguyễn văn Trình không chỉ tạc
nên bức tranh thiên nhiên và con người Đông Hà sinh động,
tươi tắn, mà còn vẽ
nên những bức tranh của các
vùng đất khác trên quê hương Quảng Trị khói lửa,
anh hùng, thủy chung, nghĩa tình.
Những vùng đất
như Hải Lăng, Triệu Phong, thị xã
Quảng Trị, Vĩnh
Linh, Gio Linh… cũng đã trở
thành nguồn
lực sáng tạo
mạnh mẽ, tình
cảm nồng cháy
trong thơ Nguyễn Văn Trình.
Đó là, Hải Lăng -
vùng đất phía Nam của tỉnh QuảngTrị
sâu nặng, nghĩa tình được
thi sĩ Nguyễn Văn Trình ưu ái
dành riêng viết
cả một chùm thơ như: Rú cát Hải
Lăng, Về thăm đồng trũng Hải Lăng, Ô Lâu huyền thoại…
Viết về miền
quê Hải Lăng, tác giả đã
thể hiện một
tình yêu dào dạt,
chất chứa nhiều
cảm xúc qua những
hình ảnh rất
đỗi gần gũi,
thân thương: “Chiều về / Rú cát
Hải Lăng / Mịn màng / Đồi cát rú cây ngập
ngừng / Lưng chừng / Bóng ngã chân đồi / Xa xôi /
Thấp thoáng một vùng cỏ may.”
(Rú cát Hải Lăng)
Đó là, Triệu phong -
vùng đất rốn lũ của Quảng Trị. Nguyễn Văn
Trình đã từng một
thời dạy học
tại Trường THPT Bồ Bản, Triệu
Phong, vì thế
mảnh đất này
cũng đã đi vào
kí ức, để
rồi trở thành
nguồn xúc cảm,
trăn trở trước phận
đời, phận người
nghèo khổ, cơ cực,
đau thương mất mát do thiên tai, lũ
lụt tàn phá nặng nề:
“Về nơi rốn lũ Triệu Phong / Mưa như trời
trút nước / Lũ về ngập tới ngọn tre / Nhà
trẻ chìm sâu dòng nước / Bốn bề tang tóc đau
thương / Trường học trạm xá vùi sâu trong bùn.”
(Rốn lũ Triệu Phong)
Đó là, Thành Cổ -
thị xã Quảng Trị một thời máu lửa, khốc liệt
của cuộc
chiến đấu
hết sức ác liệt, kéo dài hơn tám mươi mốt ngày đêm
của quân và dân ta để giành lại
từng tấc đất quê hương: “Sông
vẫn giữ niềm đau quá khứ / Xây nên thành những
tượng đài / Và chắt chiu từng mầm nhựa sống /
Sông mãi hát bài ca hy vọng / Thì thầm Thành Cổ
khúc ru.”
(Hồn thiêng Thạch Hãn)
Đó là Gio Linh - vùng
đất của du lịch biển nổi tiếng
với bãi tắm Cửa Việt thơ mộng,
tinh khôi, những đồi đất đỏ Ba
- zan màu mỡ, những đồi
chè, cà phê…xanh mướt bạt ngàn:
“Chiều
về / Biển lặng êm đềm / Dịu êm / Cát trắng một bờ
tinh khôi / Vội vàng / Chở nắng vươn khơi / Thuyền đi /
Lướt giữa biển trời bao la.”
(Chiều Cửa Việt)
Đó là, Vĩnh Linh -
mảnh đất lũy
thép lũy hoa, một thời đạn lửa, anh
dũng, kiên trung:
“Hồ
Xá một thời đạn lửa / kiêu hùng đất lửa, lũy
thépVĩnh Linh / Gan dạ, anh dũng, kiên trung / Hồ
Xá ngày ấy, anh hùng vang danh…”
(Về thăm Hồ Xá)
2.2.Tình yêu quê hương càng mặn
nồng bao nhiêu, thì tình yêu đất nước càng đậm sâu
bấy nhiêu, đó là một lẽ thường của quy luật tình
cảm, quy luật cảm xúc, bởi tình
yêu quê hương luôn là cội nguồn của tình yêu đất
nước. Chính vì
thế, độc giả
sẽ còn tìm
thấy những
mảnh đất dấu
yêu trên mọi miền đất
nước Việt Nam trong
tập thơ Bóng chiều
rơi được Nguyễn
Văn Trình ghi lại bằng
những xúc cảm
tuôn trào, bay bổng, đầy chất
lãng mạn - trữ
tình như men say tình yêu đến từ
những chuyến
đi dặm dài
đất nước, truyền đến
độc giả thêm yêu
hơn những cảnh sắc
tươi đẹp, hùng vĩ, những tên đất,
tên người vừa quen vừa lạ
nhưng ân tình, thủy chung. Tập thơ
Bóng chiều
rơi gồm 111 bài thơ, thì
đã có đến
65 thi phẩm viết
về đề tài
quê hương, đất nước.
Những bài thơ này
chủ yếu được
Nguyễn Văn Trình sáng
tác trong những
chuyến đi thực
tế, tham quan, du lịch khắp
mọi miền đất
nước và đã
ghi lại những cảm
xúc của mình
qua những dấu thơ thao thiết, yêu
thương.
Năm 2017, trong một lần trở lại
thủ đô Hà Nội -
trái tim hồng của cả nước, thủ đô ngàn năm văn
hiến, thành phố vì hòa bình, thi sĩ
Nguyễn Văn Trình đã bồi hồi xúc
động, dâng trào bao cảm xúc trước
vẻ đẹp thơ mộng
của mùa thu Hà
Nội linh thiêng và hào hoa:
“Hà
Nội thu về / Hồ Tây / Màn sương giăng bảng lảng / Chùa
Trấn Quốc / Tiếng chuông ngân trầm mặc / Vang vọng dài
theo ngọn gió bay xa.”
(Hà Nội thu về)
Năm 2016, lần đầu tiên nhà thơ
Nguyễn Văn Trình đặt chân lên Hà Giang -
mảnh đất linh thiêng địa đầu cực Bắc của Tổ
quốc, nơi có cột cờ Lũng Cú - dấu mốc chủ quyền
lãnh thổ quốc gia, nơi có công viên địa chất toàn cầu
Cao nguyên đá Đồng Văn, người thơ đã
tự hào, xúc
động dâng trào cảm xúc:
“Lên Hà Giang / Điểm địa đầu Tổ quốc
/ Tham quan Cột cờ Lũng Cú / Ngọn quốc kỳ
kiêu hãnh / Tung bay trên đỉnh Núi Rồng.”
(Cột cờ Lũng Cú - Dấu mốc chủ
quyền biên giới quốc gia)
Đến Tuyên Quang -
vùng Đông Bắc của Tổ quốc, mảnh đất giàu
truyền thống cách mạng và có nhiều phong cảnh thiên
nhiên thơ mộng trữ tình, nhất là
những hồ, thác nước đẹp đến hút hồn du khách đã
để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng thi
nhân Nguyễn Văn Trình: “Xuống / Bến thủy lên
thuyền / Tham quan hồ Na hang / Biển hồ nằm trên
núi / Mặt hồ rộng mênh mang / Núi non càng
hùng vĩ / Cảnh trí thật thơ mộng / Được
ví Vịnh Hạ Long / Giữa đại ngàn ĐôngBắc.”
(Na Hang hồ trên núi)
Đến Nghệ An - vùng đất của văn
hóa lịch sử, vùng đất của những danh nhân, đã làm
rạng danh non sông đất nước. Năm 2017 trong một lần trở
lại thăm quê Bác Làng Sen, Nguyễn Văn Trình đã xúc động,
tự hào viết: “Về thăm / Quê Bác Làng Sen /… / Nhớ
thời / Quá khứ lệ rơi / Đồng chua nước mặn / Cuộc
đời gió mưa / Quê nghèo / Mái rạ lưa thưa / Củ khoai,
củ sắn / Sớm trưa qua ngày /… / Bác thương dân mình
đói khổ / Cuộc đời chìm đắm, cổ ngựa thân trâu /
Sầu đau lòng dân mất nước / Bác vào Sài Gòn tìm đường
cứu nước.”
(Về thăm quê Bác Làng Sen)
Đến Đà Nẵng -
thành phố lớn nhất, năng động nhất miền Trung -
Tây Nguyên, địa bàn chiến lược an ninh quốc phòng trọng
yếu của đất nước. Đà Nẵng cũng được mệnh danh là
thành phố đáng sống nhất Việt Nam. Nơi đây có nhiều
phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, thơ mộng trữ tình, có
nhiều di tích lịch sử văn hóa, tâm linh, nhiều khu du
lịch nghỉ dưỡng mang tầm vóc quốc tế. Năm 2019 trong
một lần trở lại nơi đây, Nguyễn Văn Trình đã cảm
tác viết liền một chùm thơ đầy xúc động,
được độc giả
yêu mến như: Về nơi mây núi Sơn Trà, Non
nước Ngũ Hành, Thắng cảnh Bà Nà…
Với thi nhân Nguyễn Văn Trình, Đà Nẵng
là vương quốc kỳ
diệu của lòng
người đang vươn mình tiến
tới đón gió
trùng khơi:“Bốn phương
hội tụ Đà Thành / Du khách ngỡ ngàng / Bao
cảnh đổi thay / Thành phố vươn mình / Đón
gió trùng khơi.” (Về nơi mây núi Sơn Trà)
Những vùng đất
Tây Nguyên và Nam Bộ như Gia
Lai, Kon Tum, Buôn Mê Thuột, Đà Lạt,
Thành phố Hồ Chí
Minh, Cần Thơ…nhà thơ Nguyễn Văn Trình cũng nặng
ân tình, cũng từng ghé
đến để tìm
hiểu, thưởng ngoạn
trong những dịp anh có cơ hội tham quan du lịch,
gặp gỡ nhiều
con người, từ đó chắt
lọc, gạn đục khơi
trong để viết nên những thi phẩm
để đời, được
bạn đọc ghi nhận
như: Thủy điện Y- a- Ly Gia Lai, Tham quan nhà
rông Kon - Klor, Cầu treo Kon - Klor, Với Buôn
Đôn, Thăm biệt điện Bảo Đại, Làng cà phê
Trung Nguyên, Thác Thủy Tiên,
Thành phố của mù sương, Khu du lịch thác Prenn,
Viên ngọc xanh giữa lòng thành phố, Cõi thiền
Linh Ẩn Tự, Với Bến Ninh
Kiều, Miệt vườn Cần Thơ, Chợ nổi Cái
Răng, Tháng bảy mưa ngâu…
Đà
Lạt - thành
phố của mù
sương, mộng mơ,
mang vẻ đẹp
lãng mạn như men say
tình yêu theo cái nét rất
duyên của riêng mình. Qua bài thơ Thành
phố của mù sương,
người đọc không chỉ cảm
nhận được
một thành phố
đầy hoa, mờ sương, xứ sở
của tình yêu, mà thiên nhiên và con người
nơi đây đã làm say đắm, xiêu lòng
bao lữ khách:“Đà
Lạt mù sương / Phố nhạt nhòa / Bóng ai / Thấp thoáng
phía mờ xa / Phôi pha / Tà áo màu sương trắng / Tóc mai
trong nắng / Gió vờn bay / Nghiêng nghiêng / Vành nón ngày
vui mới / Chơi vơi cảm xúc / Phố xưa ngậm ngùi…”
(Thành phố của mù sương)
Gia Lai - vùng
đất được mệnh
danh là nàng thơ của thiên nhiên thơ
mộng hùng vĩ
và trong trẻo. Trong
con mắt thi sĩ Nguyễn Văn Trình, Gia
Lai là một vùng
đất của miền
cao nguyên nắng gió, xanh thẳm
của đại
ngàn, âm vang cồng chiêng mang câu chuyện
sử thi bao ngàn đời
khắp chốn, rất
đầy chất men tình,
vẫy gọi những
giấc mơ đang về:“Tham
quan hồ thủy điện / Y- a- Ly Gia Lai / Đường
đi lên nhà máy / Uốn lượn rất nên thơ / Giữa
cao nguyên bất ngờ / Bạt ngàn rừng nối rừng…”
(Thủy điện Y- a - Ly Gia Lai)
Hồ Chí Minh - thành
phố trẻ tựa
như người thiếu nữ
kiêu sa nhưng hay hờn dỗi,
chợt nắng chợt mưa. Đó là
một nét đẹp
của thành phố phương Nam văn
minh, đầy hoa lệ, nhộn nhịp
nhưng cũng đầy chất
chứa nỗi buồn
nhớ cố hương
của người thơ, cái tâm trạng hoang hoải,
chơi vơi trước cảnh
cuối chiều mưa ngâu
tháng Bảy: “Chiều Sài Gòn
/ Tháng bảy mưa ngâu / Mưa tần ngần / Trên mái ngói rêu
phong / Mình ta / Góc phố gác buồn cà phê.”
(Tháng bảy mưa ngâu)
2.3.
Nguyễn Văn Trình đã từng là một người lính
chiến đấu trên mặt trận biên giới phía Bắc,
và hiện nay anh là hội viên
Hội cựu chiến binh Việt Nam. Chính
từ những năm tháng
trực tiếp
trải qua biết bao
thăng trầm, gian khổ của cuộc
chiến tranh vệ quốc,
một cách thật
tự nhiên, hình tượng
người lính đã
trở thành niềm
cảm hứng, thôi thúc
mãnh liệt cho sự
sáng tạo của
nhà thơ Nguyễn Văn Trình. Viết về
người lính, với
Nguyễn Văn Trình là
tất cả niềm
kiêu hãnh, tự hào. Người
lính trong những thi phẩm như:
Những con tàu đi canh giặc biển, Người lính đảo
tiền tiêu Tổ quốc, Xuân về trên miền biên viễn,
Xuân biên cương, Cứu dân
trong lũ dữ, Vì bình yên cuộc
sống… mang những đặc
trưng của thời đại
và phong cách riêng khác, nhưng tựu chung
thì mẫu người
văn hóa mới -
người lính vẫn
là người
chiến sĩ cách
mạng, biểu tượng
cho vẻ đẹp cao cả
của dân tộc Việt
Nam bền gan, vững chí, anh hùng, bất
khuất trước
những khó khăn, thử
thách sống còn
và trước
những tham vọng bá quyền của kẻ
thù xâm lược.
Người chiến
sĩ giải phóng
quân trong Bóng
chiều rơi cơ
bản vẫn tiếp
nối phẩm chất
của người
chiến sĩ vô sản
với tâm hồn đấu
tranh rực lửa, vững vàng
trước mọi
thử thách, nguy hiểm
hiện lên sáng ngời,
cao đẹp. Đó là, hình ảnh
người chiến
sĩ giải phóng
quân đã anh dũng vượt sông Thạch
Hãn để vào
trấn giữ
Thành Cổ,
Quảng Trị. Trong mưa bom bão đạn
của kẻ thù, đã
có rất nhiều
chiến sĩ giải
phóng quân chiến đấu
với tinh thần quyết
tử cho Tổ quốc
quyết sinh vĩnh viễn
nằm lại trong lòng
dòng Thạch
Hãn. Sự hy sinh của
các anh đã trở
thành biểu
tượng đẹp
nhất, bi ai, hùng tráng
nhất, là huyền
thoại về lòng
yêu nước, sự hy sinh về chủ
nghĩa anh hùng cách
mạng của dân tộc
Việt Nam:
“Những người
lính Cổ
Thành / Dầu
dãi nắng
mưa / Khói
lửa chiến
trường / Đối
mặt bom đạn kẻ
thù hủy
diệt / Những
trận đánh
giữ thành
ác liệt
/ Vẫn ôm nhau, trong nụ
cười chiến
thắng / Vẫn
hô vang lời quyết
chiến, với quân thù.”
(Hồn thiêng Thạch Hãn)
Hình ảnh người lính Hải Quân
anh hùng, ngày đêm trấn giữ biển đảo quê hương
nơi đầu sóng ngọn
gió trong Bóng
chiều rơi đã để
lại trong lòng bạn
đọc những ấn
tượng khó quên.
Hình ảnh hiên ngang, bất khuất
của các chiến
sĩ Hải Quân đứng giữa
biển trời bao la,
vững vàng đứng
gác, nung nấu lòng
yêu nước, sục sôi lòng căm thù
giặc biển:“Giữa
đại dương / Những con tàu đi canh giặc biển / Vẫn hiên
ngang nơi đầu sóng, ngọn gió / Dõi mắt nhìn về phía
trùng khơi.”
(Những con tàu đi canh giặc
biển)
Hình
ảnh người lính
biên phòng trong Bóng
chiều rơi cũng đã
để lại trong
trái tim bạn đọc biết bao
cảm xúc, ấn tượng
khó quên. Như tạc vào
cảnh sắc thiên
nhiên nơi núi rừng biên viễn
với màu xanh đại
ngàn, với trời xanh
mây trắng, hoa xuân khoe sắc biên cương,
mây giăng mờ lối nhỏ…là
hình ảnh người
chiến sĩ biên phòng
được tác giả
khắc họa vừa
chân thực, gần gũi vừa
sắc nét, đa chiều.
Người lính biên phòng rất
kiên gan bền chí, quả cảm
trên mọi nẻo đường
tuần tra: “Xuân về / Trên
dải đất biên cương / Nắng vương / Tỏa
khắp con đường tuần tra / Nhành Ban / Sắc
trắng như ngà / Vẫy chào / Chiến sĩ tuần
tra sớm chiều.”
(Xuân biên cương)
Người lính biên
phòng đảo Cồn Cỏ đứng canh gác
giữa biển trời
lồng lộng, sóng
nước mênh mông mãi mãi
là khúc ca đẹp, hào
hùng nơi biển đảo
quê hương: “Giữa trùng dương sóng vỗ / Nơi ấy với
người lính đảo: / “Đảo
là nhà, biển cả là quê hương” …
(Người lính đảo tiền tiêu Tổ
quốc)
Hình ảnh người chiến sĩ Công an nhân dân liều mình
cứu dân trong cơn lũ dữ miền
Trung, tích cực
giúp dân khắc phục
hậu quả sau mưa lũ,
sớm ổn định
cuộc sống trở
lại bình thường đã trở thành
những hình ảnh
đẹp, đầy xúc
cảm trong Bóng chiều rơi của
Nguyễn Văn Trình: “Tang tóc trắng
trời / Cơn hồng thủy đã đi qua / … /
Các anh lại về giúp dân sau lũ / Dựng lại nhà,
vệ sinh trường học / Mong một ngày cuộc sống lại như
xưa …”
(Cứu dân trong lũ dữ)
Và người chiến sĩ
Công an nhân dân trong thời
bình cũng là
cuộc chiến, với bao bộn bề,
gian khổ hy sinh, đánh đổi
bằng xương máu để
bảo vệ cuộc sống của người dân được
bình yên, hạnh phúc:
“Người chiến sĩ Công An nhân dân / Giữa thời bình
vẫn là cuộc chiến / Bao bộn bề, gian khổ hy sinh / Tự
hào màu áo xanh lá mạ / Sáng ngời những chiến công rộn
rã.”
(Vì bình yên cuộc sống)
2.4.
Đến với Bóng
chiều rơi, bạn
đọc sẽ có
một cuộc hành
trình trở về
với một khung trời
tuổi mộng của
một thời áo
trắng, với bao hoài
niệm, cảm xúc tinh
khôi, bịn rịn không
thể nhạt
nhòa. Nhà thơ Nguyễn Văn Trình
nguyên là thầy giáo dạy Ngữ văn cấp
III, cả cuộc đời
luôn gắn bó sâu nặng với học sinh, với
đồng nghiệp, với
mái trường thân yêu. Những bài thơ
Nguyễn Văn Trình sáng tác
về đề tài này vì thế
rất chân thật, giản dị,
và giàu cảm
xúc.
Đó là, những
kỷ niệm chan chứa
yêu thương, không bao giờ nguôi quên
ngôi Trường THPT Bồ Bản,
Triệu Phong - nơi đầu
tiên Nguyễn Văn Trình đến
nhận công tác, giảng dạy:
“Nhớ
một thời dạy học / Con đường về trường xưa / Đò
ngang nhiều cách trở / Sang sông lại nhớ đò.”
(Bến xưa)
Đó là, những nghĩa
tình gắn bó
sâu nặng của nhà thơ Nguyễn
Văn Trình với mái Trường
THPT Lê Lợi - Đông Hà gần hai mươi năm, nơi đây anh đã
cùng nhạc sĩ Trần Kiềm cho ra đời bài ca truyền thống
của nhà trường, nay bài hát vẫn vang lên trong mỗi dịp
nhà trường có lễ hội, nhằm để giáo dục cho học
sinh về truyền thống và niềm tự hào về ngôi trường
THPT Lê Lợi anh hùng. Ngày về dự hội trường hai mươi
năm xây dựng và trưởng thành, Nguyễn Văn Trình cảm xúc
dâng trào: “Ngày về / Trường dự hội /
Hai mươi năm / Một chặng đường / Ngẩn ngơ /
Đứng lặng, sân trường thêm yêu / Bao nhiêu / Nhung nhớ
còn đây / Từ trong / Ký ức vọng về xốn xang.” (Ngôi
trường tuổi hai mươi)
Đó là, những đầy
vơi nỗi niềm của nhà thơ
Nguyễn Văn Trình gắn bó với
ngôi Trường THPT Chế Lan Viên trong
những năm tháng cuối của
sự nghiệp trồng người cao cả và là nơi Nguyễn Văn
Trình nghỉ hưu theo chế độ. Trong một lần trở lại dự
hội trường xưa tròn mười năm xây dựng và phát triển,
Nguyễn Văn Trình đã xúc động viết:
“Ngày về / Dự hội trường xưa / Ngỡ như /
Vừa mới đã mười năm qua / Chế Lan Viên, mãi không xa
/ Dẫu bao kỷ niệm / Vẫn là đâu đây.”
(Ngôi trường hoài niệm)
2.5.
Tình yêu đôi lứa là địa hạt
của văn chương nói chung, thi ca nói
riêng, đem đến cho thi nhân những
cảm xúc thăng hoa,
sáng tạo. Nhà thơ Nguyễn Văn
Trình cũng không ngoại lệ, là gương mặt
khá tiêu biểu xuất
hiện trên một số
tạp chí và
báo của trung ương và địa phương,
được giới
trẻ rất yêu mến
bởi thơ viết về
tình yêu đôi lứa của
anh mang nhiều cung bậc cảm xúc,
rất gần gũi,
giản dị. Những thi phẩm viết
về tình yêu đôi
lứa trong Bóng
chiều rơi như:
Chút tơ lòng, Thiên thu còn lại, Mắt biếc,
Lối về còn xa, Chút men tình, Bóng chiều
rơi, Nỗi nhớ hanh hao, Uyên ương một thuở
mơ hồ, Cơn mưa đầu mùa…
là những thi phẩm khá hay, thể hiện
những cung bậc cảm
xúc, những trạng
thái tình yêu, đặc
biệt là tình
yêu đầu đời. Nhà thơ Thế
Lữ đã từng
viết: “Cái thuở
ban đầu lưu luyến ấy
/ Nghìn năm hồ
dễ mấy ai quên”.
Cái tình yêu đầu -
thuở ban đầu ngây thơ ấy
khó ai có thể quên
được, dù sau này trong cuộc đời
có thể có
rất nhiều mối
tình đẹp hơn, bỏng
cháy hơn nhưng cái “hương vị”, cảm
giác da diết
của lần đầu
tiên sẽ mãi không thể nào
tìm lại được
nữa:“Lối cũ ta về tìm tuổi
mộng / Chênh chao sợi nhớ, đông đầy sợi thương
/ Bóng chiều nhuộm tím con đường / Ngập
ngừng chân bước, uyên ương một thời.”
(Nỗi nhớ hanh hao)
Thường tình yêu
đầu đời chính là
tình yêu ngây thơ nhất, thuần khiết
nhất bởi đó
là tình yêu của
tuổi trẻ và
tự do khát vọng thể hiện mình.
Cảm xúc của
tình yêu đầu đời
vì thế thường
dạt dào, mãnh
liệt, niềm vui tràn đầy
nhưng cũng nhuốm đầy
nỗi buồn, đau
thương, và nuối tiếc:“Hoang
hoải chiều đứng ngắm mây trôi / Giọt nhớ nhung, đường
côi lẻ bóng / Chút tơ lòng, dài thêm mộng tưởng/ Màu
yêu đương thắp lửa phượng hồng.”
(Chút tơ lòng)
Tình yêu đầu đời
dại khờ, giận
hờn vu vơ, chỉ biết
con tim muốn gì, hay tự ái,
cực đoan, rồi mãi mãi
xa nhau, chia cách, biệt ly không báo
trước, để lại
nỗi sầu đơn lẻ
vì còn vương sợi
tình:“Chếnh choáng hơi
men, chếnh choáng tình / Giọt rượu nồng vơi cạn
chén môi xinh / Lối về sương phủ mờ chân dốc / Một
bóng đơn côi, góc nhạc buồn.” (Chút men tình)
Và
đến khi trưởng thành,
tình yêu ấy lại
khác hơn, vì
người thơ đã tìm
được một
tình yêu đích thực,
biết yêu thương nhau, cùng vượt
qua mọi khó khăn, thử thách.
Tình yêu chân thành, thủy chung bao giờ cũng
không có chỗ cho sự lừa
dối, đó là
niềm tin, khẳng định
tình yêu đích thực
của thi nhân: “Ai thả bóng chiều
rơi xuống phố / Con đường riêng một bước cô
đơn.”
(Bóng chiều rơi)
3. Dẫu
là một cái
nhìn lướt qua nhưng
thực sự cũng
rất cần thiết
để bạn đọc
nhận diện
phương thức biểu
hiện nghệ
thuật trong Bóng chiều rơi vô
cùng quý giá
về kỹ thuật
sáng tác thơ của
nhà thơ Nguyễn Văn Trình có
khéo léo, hài
hòa và tài
tình hay không, nhưng đồng thời
cũng chính là
những chỉ tiêu cần
thiết, quan trọng để
đo lường giá trị nghệ thuật
của các tác
phẩm thơ. Hình
thức nghệ
thuật gồm
nhiều yếu tố
cấu thành như: Thể
loại, ngôn ngữ, nhịp điệu,
hình ảnh, nhạc tính
và các biện
pháp tu từ khác….
Những yếu tố
hình thức nghệ
thuật này phản
ánh tư duy, quan niệm nghệ
thuật, góp phần
hình thành
hướng thẩm
mỹ, xác lập nên mô
hình nghệ thuật,
dấu ấn phong cách thơ của
tác giả. Ở
bài viết này,
tôi chỉ nêu một vài đặc
điểm nổi
trội để bạn
đọc thấy
được nét riêng của
chủ thể sáng
tạo - tác giả
tập thơ Bóng chiều rơi.
Trong Bóng chiều rơi của nhà thơ Nguyễn
Văn Trình đã vận dụng, kết hợp hài hòa giữa các thể
thơ trên nền tảng truyền thống và hiện đại
như: Lục bát biến thể, thơ tự do, thơ 5 chữ, thơ
6 chữ và thơ 7 chữ…Thể lục bát và lục bát biến thể
vận dụng khá nhuần nhuyễn, chuyên nghiệp, đã tạo được
sức lôi cuốn đối với độc giả, tiêu
biểu như các bài thơ: Thẫn
thờ chốn quê, Rú cát Hải lăng, Về thăm quê
Bác Làng Sen, Thương hoài giếng quê, Khúc ru
cánh đồng, Mãi bờ tre xanh…
Đặc biệt là những bài
thơ lục bát biến thể theo hướng cách tân hiện đại,
sáng tạo, tinh tế, đó là
cách chia tách các khổ thơ lục bát theo cách riêng của
mình: Cứ một câu lục, một câu
bát làm nên một khổ thơ hai câu, liên tục cho đến hết
bài thơ, ví dụ
như:“Trông về tuổi mộng phôi pha /Mắt đà ươn
ướt, lệ nhòa trang thơ /… / Giọt thương còn đọng
cỏ hồng / Hoàng hôn loang loáng, cuối trời xa xăm
.”
(Uyên ương một thuở mơ hồ)
Các thể thơ 5 chữ, 6 chữ và 7 chữ có sáng tạo mới,
những khổ thơ trong các bài thơ thuộc thể loại này bao
giờ cũng có số lượng câu thơ trên bốn câu như truyền
thống, tạo được sức hấp dẫn,
mang đến cho người đọc những cảm nhận mới lạ,
đầy sáng tạo dẫn dụ
một bài thơ 7 chữ, như: “Mây
gió về kia nào ai biết / Sợi buồn còn lại, xiết
tim đau /… / Sương phủ bờ vai em gầy guộc /
Vô tình lạc bước phía xa xôi.”
(Bóng chiều rơi)
Các
bài thơ viết theo thể tự do chiếm một số lượng lớn,
đầy sáng tạo, hơn nửa tập thơ, điều đặc
biệt là Nguyễn
Văn Trình lại chọn
cho mình hướng đi riêng khác, đó
là cách tân trên
chính cái nền
truyền thống, vì
thế mỗi bài
thơ thuộc thể loại
này có sức
hấp dẫn riêng, thể
hiện cá tính sáng tạo,
mới mẻ, tạo nên phong cách của
tác giả trữ
tình - lãng
mạn: “Sông cứ chảy đôi bờ
bồi lỡ / PhướcTích, Hội Kỳ bên nhớ bên mong /
Bên sông hoa rụng, còn vương lối về / Tình quê
bến đợi / Bến chờ sông thương.”(Ô Lâu
huyền thoại)
Một
số bút pháp
nghệ thuật như bút
pháp hiện
thực, lãng
mạn, tượng trưng… được vận
dụng rất linh hoạt, kết hợp nhuần nhuyễn.
Bút pháp hiện thực kết hợp với những cảm hứng hiện
thực được tác
giả sử dụng
trong Hồn thiêng Thạch Hãn, Dòng sông khát
vọng…nhằm tô
đậm, tái hiện lại
hiện thực chiến tranh khốc liệt và
hình tượng người
lính một cách sinh động, rất chân
thực, như nó vốn
có, vốn tồn
tại: “Mồ hôi áo lính, quyện
máu thắm bờ sông / Màu áo các anh, hòa màu xanh của
nước / Tuổi hai mươi nằm lại bến sông này
/
Nằm lại giữa đôi bờ sông Thạch Hãn / Để rạng ngời
Tổ quốc linh thiêng…”
(Hồn thiêng Thạch Hãn)
Bút pháp Lãng mạn cùng với
việc sáng tạo
hình ảnh thơ, với những
liên tưởng, tưởng tượng
độc đáo,
giàu cảm xúc, gợi cảm: “Sông
chừ hát khúc hoan ca / Tượng đài chiến thắng đã xây
đôi bờ / Cụm di tích Hiền Lương - Bến Hải / Thiên anh
hùng ca bất tử muôn đời.”
(Dòng sông khát vọng)
Bút pháp tượng trưng gắn liền với các hình ảnh thơ
mang nhiều ý nghĩa biểu tượng, gợi nhiều liên tưởng
cho người đọc: “Hà Nội thu về
/ Hồ Tây / Màn sương giăng bảng lảng / Chùa
Trấn Quốc / Tiếng chuông ngân trầm mặc / Vang
vọng dài theo ngọn gió bay xa.”
( Hà Nội thu về)
Ngôn ngữ thơ trong Bóng chiều rơi - Nguyễn Văn
Trình giản dị, mộc mạc nhưng lại
giàu hình ảnh, gợi nhiều liên tưởng, suy tưởng,
có sức hút đối với độc
giả: “Tìm
về / Thăm lại chốn quê / Thăm đàn em nhỏ /
Mô tê nô đùa / Thăm đồng / Lúa chính ươm
vàng / Bâng khuâng / Lòng lại rộn ràng bước
chân.”
(Thẫn thờ chốn quê)
Giọng
điệu trong tập thơ
chủ yếu là
giọng điệu tâm tình hồn hậu, chân thành mà lắng đọng
sâu xa, ngọt ngào:
“Về thăm / Đồng trũng Hải Lăng /
Thênh thang / Ruộng lúa mênh mang cánh cò
/ Dịu dàng / Ngọn gió đồng quê
/ Mà say hương lúa / Mà mê hương
đồng.”
(Về thăm đồng trũng Hải Lăng)
Phong
cách nghệ
thuật trong Bóng chiều rơi mang
đậm phong cách: Trữ tình và lãng
mạn. Những bài thơ tác giả viết
từ việc “tức cảnh sinh tình”, từ những rung động
cảm xúc chân thành về tình yêu quê hương,
đất nước, về những con người bình dị, chân chất,
lặng thầm cống hiến, hi sinh vì
quê hương, Tổ quốc,
vì một tương lai tươi sáng,
tốt đẹp:“Cánh cò
/
Cõng nắng, cõng mưa / Cõng đôi gánh nước / Giữa trưa
nắng hè /… / Gieo ai nỗi nhớ / Thương hoài giếng
quê.”
(Thương hoài giếng quê)
4.
Thiết nghĩ, điều đáng
ghi nhận là tuyệt đại
đa số những bài
thơ trong Bóng chiều rơi - Nguyễn Văn Trình
rất đáng được
đọc, được thưởng
thức và rất
đáng suy ngẫm, bởi sức cuốn hút
của những giá trị nội dung và nghệ thuật của tập
thơ như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên,
trong một tài sản
thơ có đến 111 bài thơ, thì đâu
đó - âu là một
lẽ thường
tình - còn có
một ít “quặng” tinh luyện chưa thật
nhuyễn.
Có thể khẳng
định, ghi nhận rằng: Tập
thơ Bóng chiều rơi đã
được nhà thơ
Nguyễn Văn Trình dốc hết
tâm huyết của mình,
cần mẫn như con tằm rút
ruột, ươm tơ để hầu
mong đem đến cho người đọc yêu
thơ những vần
thơ có giá trị,
giàu ý nghĩa, đầy tính nhân văn
của một tâm hồn nghệ
sĩ luôn nặng lòng,
ân nghĩa với đời, với
người.
Với sự yêu mến, ngưỡng mộ thi sĩ Nguyễn Văn Trình,
tôi hy vọng Bóng chiều rơi sẽ: Vang vọng dài
theo ngọn gió bay xa - mời gọi độc giả cảm nhận
và cùng đồng cảm, cùng sáng tạo.
Porland - Maine, ngày 16/4/2022