Tác giả HẠNH PHƯƠNG tên thật
: Hoàng Kim Bính. Sinh ngày : 20.5.1947. Người
làng Gia Độ, xã Triệu Độ, huyện
Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Hiện sinh sống ở ấp
Suối Cát 1, xã Suối Cát, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng
Nai.
ĐT: 0985 734 265.
Email: hkbhanhphuong@yahoo.com.vn.
Có những
người sinh ra là hành
nhân cuộc lữ. Hoặc vì tác động
ngoại cảnh gọi mời,
hoặc vì khát vọng lý tưởng nội
tâm… đành giã biệt quê
nhà mà đi.
Giã từ
quê nhà, nơi chôn nhau cắt rốn, khách ly canh cánh bên lòng biết bao hình ảnh thân thương: cha mẹ, bà con thân thuộc; lũy tre hàng chuối, bến sông giếng
nước đầu làng. Và chẳng hay tự bao giờ, hình ảnh
mái chùa đã hòa quyện làm
một với quê hương làng nước.
Thế nên, với ly khách, hình ảnh ngôi chùa là hình ảnh tác động sâu lắng nhất, đậm
nét nhất trong tâm thức.
Ai đã từng
đọc thơ Nguyễn Bính:
Quê tôi có gió bốn mùa
Có trăng giữa tháng có chùa quanh năm
Sương hôm gió sớm trăng rằm
Chỉ thanh đạm thế, âm thầm
thế thôi
Mai nầy tôi bỏ quê tôi
Bỏ trăng, bỏ gió, chao ôi bỏ chùa!
Ông Nguyễn
bảo quê ông có gió bốn mùa, trăng giữa tháng… nhưng chùa thì có cả quanh năm. Phải chăng cái “có” ấy như là cái có tất
yếu, cái có thường trực, cái có bất
khả phân ly với quê hương. Và hình như
cái có ấy lấn trùm lên mọi quê hương làng mạc
Việt Nam, từng thấm đẫm
nề nếp văn hóa làng mạc, văn hóa Phật giáo Việt Nam…
Bỏ
trăng, bỏ gió có thể bỏ dễ
dàng nhưng khi phải bỏ cả
chùa thì thi nhân Nguyễn
Bính có cảm giác rợn người như
đang vấp phải nỗi đau đứt
ruột, nên mới thốt lên hai âm tiết
thần tự giữa câu thơ
lục bát: “chao ôi”!
Nỗi đau
lớn nhất trong tâm thức ly khách là phải bỏ ngôi chùa thân thương
mà đi, bỏ lại tiếng chuông sớm
tiếng mõ chiều đầm ấm
quen thuộc mà đi… Vì vậy, trên vạn dặm đường
đời, trên dặm trường cát bụi,
nỗi nhớ quê nhà man mác, bao giờ hình ảnh ngôi chùa vẫn
là hình ảnh đặc thù, sâu đậm được nhớ
về, nhớ lại nhiều
nhất, bâng khuâng, da diết nhất…
Hãy cùng lắng
nghe thi sĩ Huyền Không
nhớ chùa:
Tự thuở ra đi vắng
bóng chùa
Đường đời đã nhọc
chuyện hơn thua
Trong tôi bừng dậy niềm
chua xót
Xao xuyến mơ về
lại cảnh xưa
Hệt như nhà thơ Nguyễn
Bính, cất bước ra đi là canh cánh bên lòng
nỗi nhớ. Nỗi nhớ
chùa. Ra đi mà hanh thông yên ả
thì có thể nỗi nhớ chùa nhẹ
nhàng hơn tí chút. Ra đi
mà vấp phải lao nhọc vì chuyện hơn thua trên đường
đời thì nỗi nhớ chùa càng xuyến
xao da diết bội phần.
Mà nhớ
chùa thì đâu phải chỉ nhớ nhung duy nhất
hình ảnh mái chùa. Nhớ chùa là nỗi nhớ mênh mang trùm cả
cảnh chùa. Mà cảnh của chùa không chỉ
là cảnh riêng của mái chùa kia. Cảnh của chùa chính là toàn cảnh của
quê hương làng nước, toàn cảnh của cả
một vùng miền văn hóa đình chùa miếu vũ khắng khít với
tổng thể ngàn năm văn hiến Việt Nam:
Thấp thoáng đâu đây cảnh tượng làng
Có con đường đỏ chạy
lang thang
Có hàng tre gợi hồn sông núi
Im lặng chùa tôi ngập nắng vàng.
Đường
đất đỏ, hàng tre xanh… hồn sông núi đó quyện với cảnh
của chùa, hồn của chùa:
Có những cây mai sống trọn đời
Bên hàng tùng bách
mãi xanh tươi
Nhìn lên phảng phất hương
trầm tỏa
Đức Phật từ
bi mỉm miệng cười.
Những
cây mai, cây tùng, cây bách sống
trọn đời là bao nhiêu tuổi? là những mấy trăm năm? Từ
ngữ trọn đời khiến
người đọc liên tưởng đến độ
lâu độ bền, độ không tính đếm
được… Đã bao nhiêu năm
tháng rồi nơi điện thờ
trầm lặng ấy vẫn
phảng phất khói hương trầm. Và nụ
cười mỉm từ bi vô lượng
của đức Phật vẫn
cứ mãi mãi như là nguồn ân phước
ban phát cho muôn loại quần sinh. Ngôn ngữ bình dị mộc
mạc, chân chất, trong sáng của câu thơ “đức Phật
từ bi miệng mỉm cười”
khiến bạn đọc cảm
xúc đến rưng rưng nước
mắt. Hình ảnh đức Phật
sao mà gần gũi thân thương với chúng ta, với
dân làng xóm thôn đến vậy?
Khi đã giới
thiệu với người đọc
nỗi nhớ một tổng
thể bối cảnh thanh bình, an lạc
của ngôi chùa với quê hương xứ
sở với làng mạc xóm thôn nơi chôn nhau cắt rốn, thiền
sư thi sĩ Huyền Không người làng Phương Lang còn nói thêm cho
chúng ta nghe nếp sinh hoạt thiền vị
nhẹ nhàng thanh thoát, bản sắc truyền
thống hàng trăm năm, trú
dạ lục thời, bốn
mùa tám tiết nơi ngôi chùa đó:
Tôi nhớ làm sao những buổi chiều
Lời kinh giải thoát vọng cao siêu
Đây ngôi chùa cổ ngày hai buổi
Cầu nguyện dân làng sống
mến yêu.
Lời
kinh giải thoát cùng tiếng mõ cốc, tiếng
chuông ngân… vang vọng
cao siêu đến chín tầng trời, ngân nga trầm
tích đến bảy tầng địa
ngục… ấy chính là pháp âm mầu nhiệm vỗ
về hôm sớm cho dân làng ngày hai buổi, sớm đến
tối, ngày rồi đêm, sống mà biết mến yêu nhau, đùm bọc
che chở lẫn nhau, tối đèn tắt lửa
có nhau.
Vì vậy
đâu cần phải có cao lương mỹ vị,
chẳng vòi vĩnh gì nem
công chả phượng, bánh tôm Hồ Tây, chả cá Lã Vọng… chỉ sắn
khoai gạo bắp, chỉ với
ánh trăng thanh, với ngọn gió lành, với tiếng chuông chùa ngân xa lan xa… thứ lương dược,
thiền duyệt thực ấy
đủ để nuôi sống dân ta, sống
cuộc đời thanh cao, sống cuộc đời
bình dị, thanh thản giữa quê hương
làng nước thanh bình…
Tôi nhớ làm sao những buổi chiều
Lời kinh giải thoát vọng cao siêu
Đây ngôi chùa cổ ngày hai buổi
Cầu nguyện dân làng sống
mến yêu.
Vì vậy làng tôi sống thái bình
Sớm khuya gần gũi tiếng chuông linh
Sắn khoai gạo bắp nuôi dân xóm
Xây dựng tương lai xứ
sở mình.
Mỗi tối dân quê đón gió lành
Khắp chùa dào dạt ánh trăng thanh
Tiếng chuông thức tỉnh lan xa mãi
An ủi dân lành mọi mái tranh.
Trầm đốt hương
thơm bay ngạt ngào
Thôn trên xóm dưới dạ nao nao
Dân làng tắm gội lên chùa lễ
Mười bốn ba mươi
mỗi tối nào.
Nếp
sinh hoạt mang tính thời khóa biểu nhà trường giữa trường
đời đó của dân làng đã trở thành nỗi nhớ thường
trực trong tâm khảm khách tha hương. Dù xa ngàn dặm không biết ở phương
sở nào, từng ngày từng tháng từng năm, thì nhà thơ vẫn cảm
thấy mình cũng như đang hòa mình làm một với nếp
sinh hoạt nề nếp muôn đời
đó.
Ôi! Cha ông chúng ta hiền
lành chất phác dung dị, một nắng
hai sương, chân lấm tay bùn… mồ hôi mồ kê dầu
dãi, nhưng cứ mười bốn
ba mươi… cứ tắm gội
sạch sẽ rồi thì lên chùa lễ
Phật.
Nề nếp sinh hoạt, nhu cầu văn hóa tín ngưỡng ấy gắn
bó hữu cơ với tâm thức
với máu thịt mình. Và khi chưa có được điều
kiện thuận thường đặt
những bước chân quy hồi cố quận…
nhà thơ vẫn cứ bâng khuâng dằng
dặc: gởi nhớ nhung về.
Và dù có bao nhiêu tang thương
dâu bể đổi thay nhà thơ vẫn canh cánh tâm thành cầu nguyện
cho chùa khỏi tái tê.
Biết đến bao giờ
trở lại quê
Phân vân lòng gởi nhớ nhung về
Tang thương dù có bao nhiêu nữa
Cũng nguyện cho chùa khỏi tái tê
Bài thơ
Nhớ Chùa, thi sĩ Huyền Không viết ở Sài Gòn năm 1956, thuở ông còn rất
trẻ, giã từ chùa Thiên Minh ở Huế vào hành đạo
ở chốn đô thành. Sau này ông cho in
lại vào tập Mây Trắng Thong Dong. Ở đó, bạn đọc
thấy tác giả bộc bạch
rõ hơn tâm tư tình cảm của
mình: “Tôi muốn dành tất cả thơ
tôi cho những ngôi chùa
suốt đời chung thủy với quê hương,
cho làng Phương Lang và
những thôn làng mộc mạc đang chia nỗi
điêu linh cùng đất nước, cho mọi tấm lòng Phật
tử sắt son hộ đạo
dựng đời, cho những tâm hồn biết sống
gắn bó với thơ”*. Thiền
sư viết dòng này ở Los Angeles cuối thu Quý Dậu (1993) nghĩa là hơn 37 năm sau.
Sắt
son gắn bó đời mình với thơ, với
mái chùa thân thương, nhà
thơ Trụ Vũ từng phát biểu:
Mỗi khi nhìn thấy bóng ngôi chùa
Tôi lại thấy quê hương
mình hiển hiện
…
Mây phương đông vẫn lên hường
Ngôi chùa còn đó
quê hương vẫn còn
(Trụ Vũ - Quê Hương)
Cứ
nhìn thấy bóng ngôi chùa
là lập tức thấy bóng hình quê hương
mình hiển hiện. Và hiển hiện là hiển
hiện giữa một vòm khí hậu
huy hoàng rực rỡ: mây hồng phương
Đông, phương trời tâm linh của Trời Phương
Ngoại.
Đối mặt với chế
độ cường quyền độc
tài, các thế lực vô minh bạo ngược, toan tiêu diệt
bóp chết tín ngưỡng của 80% dân số
miền Nam Việt Nam, thi sĩ Vũ Hoàng Chương dõng dạc tuyên ngôn:
Dân tộc ta không thể nào thua!
Đạo pháp ta đời đời xán lạn
Dầu trải qua mấy
phân ly tán,
Bị áp bức, phao vu, bội
phản
Nhưng vẫn còn núi, còn sông,
Còn chót vót mãi
Ngôi Chùa
(Vũ Hoàng Chương - Nối lửa
từ bi)
Sở dĩ
chúng tôi trích dẫn thêm
thơ của nhà thơ Trụ Vũ, Vũ Hoàng Chương
là để người đọc thấy
rõ hơn tính nhất quán hữu cơ, gắn
bó máu thịt hình ảnh ngôi chùa Phật giáo Việt Nam với chiều
dài văn hóa lịch sử Việt Nam. Cả
ba nhà thơ lớn, trụ cột
thi ca Phật giáo Việt Nam đều cùng chung một
cái nhìn, triệt để một nhận
thức: Ngôi chùa Việt Nam tự bao giờ
đã trở thành biểu tượng cho quê hương
Việt Nam.
Và cũng để
bạn đọc khỏi ngỡ
ngàng khi đọc thấy Thiền Sư
Thích Mãn Giác, chính là Thi sĩ Huyền
Không, tác giả bài thơ Nhớ Chùa, từng
minh định:
“Với lối kiến trúc đặc
biệt, những ngôi chùa bao giờ cũng ẩn giấu
sau lũy tre xanh, dưới gốc cây đa, ở một nơi
thanh tịnh như bản chất
khiêm cung, mộc mạc hồn nhiên, thích ứng
và hòa hợp của Phật giáo, mái chùa còn chất chứa
một sức mạnh vạn
năng của đời sống tâm linh và tư
tưởng Việt:
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời
của tổ tông.
Lấy nền tảng tư
tưởng đạo Phật làm nền
tảng lý tưởng đời mình, trọn
đời hiến thân xứng bậc sứ
giả Như Lai, hoằng dương Phật
pháp… nhà thơ đã dắt dẫn bạn
đọc từng bước từng
bước thấy hình ảnh ngôi chùa chan hòa làm một với quê hương
làng nước Việt Nam, gắn bó thủy chung trước
sau như nhất với văn hóa, với
dân tộc Việt Nam. Tác giả sống trọn
đời mình với tâm thức ấy, nên dù cho đi bất
cứ nơi đâu, dù xa ngàn dặm, bất cứ
thời điểm nào, có thể hàng vài ba mươi thập niên… chỉ
nghe thấy tiếng chuông chùa vang lên văng vẳng đâu đó là tác giả nhớ ngay đến
ngôi chùa, không chỉ ngôi
chùa làng Phương Lang, mà
còn biết bao nhiêu ngôi
chùa thân thương khác nữa. Vì tất cả
mọi ngôi chùa đều là những mái chùa chung. Do đó nhà thơ đã khép lại bài thơ của mình bằng
một chân lý bất di bất dịch:
Chuông vẳng nơi nao nhớ
lạ lùng
Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời
của tổ tông.
Hạnh
Phương