Từ
bến xe thị trấn đi bộ
đến hết con đường cái quan vừa đúng 1 tiếng đồng hồ. Chỗ ngã rẽ bắt đầu
con đường mòn này về làng cũng mất gần 2 tiếng
có khi hơn.
Phía tây thị
trấn là những quả đồi bát úp dày đặc
sim mua. Con đường
mòn nhỏ len lỏi, bé như sợi chỉ găm đầy cỏ may và gai xấu
hổ. Hoàng cố nhận ra hướng
của ngôi làng mà anh
đã sống hết thời thơ ấu nhưng
không tài nào nhận
ra. Ngày bé, cũng trên lối
mòn này Hoàng cùng lũ chăn trâu chơi trò giặc
giã, lấy ống tre nhỏ làm súng bắn đùng đoàng. Những viên đạn làm bằng hạt trơng thơm cay vị tiêu rừng như vẫn còn trong ký ức…
Học
hết cấp II, Hoàng gần như từ giã miền thơ ấu. Thị trấn nơi Hoàng trọ học
không có sim mua, luôn réo rắt
tiếng nhạc bôlêrô buồn thảm, những cô gái mắt xanh mỏ đỏ bên ly cà phê đá đập nước
đọng thành vũng trên
bàn. Ba năm cấp III
thi thoảng Hoàng cũng
trở về, mỗi dịp
như thế
ngôi làng dường như thu nhỏ lại, gây cho Hoàng cảm giác một
ngày nào đó sẽ biến mất khỏi
thế gian mà không để lại một
dấu vết. Rồi cổng trường
đại học mở ra nuốt
chững gã nhà quê sim
mua thuở nào. Hoàng tốt nghiệp, trở thành công chức, lấy vợ sinh con, lương cơ quan nhà tập thể
và nghiễm nhiên trở thành thị dân, thứ thị dân đời
ép một. Cũng đôi lần nhớ quê, muốn về thăm làng nhưng rồi
Hoàng cứ ngại ngần. Cha mẹ khuất bóng lúc Hoàng còn học cấp III, bà con xa thì đã quên bẵng Hoàng từ lâu. Duy còn Nguyệt đôi lúc làm tim Hoàng quặn thắt. Người chị họ nhưng cùng tuổi, xinh đẹp
dịu dàng, người đã từng cho Hoàng thử cảm giác thế
nào là đôi môi thiếu nữ. Hoàng đá vào búi cỏ lòa xòa cạnh
lối mòn, nhớ lại một
đêm trăng xa lắc. “Sau
này lớn lên, Hoàng mần chi?” “Tôi đi làm Nhà nước, ở ri cực quá”. “Ừ, Hoàng học giỏi, gắng mà bon chen” “Còn chị?...” Vừa thốt lên Hoàng đã biết mình lỡ lời. “Tui thì mần
chi, con gái con lứa,
nhỏ thì giữ trâu cắt cỏ, lớn
thì lấy chồng đẻ con…” Nguyệt cúi xuống bứt một cọng
xấu hổ có chùm hoa tim tím, bé
xíu. Mắt lá từ từ khép lại,
gió thổi qua triền đồi những
tiếng u u, u u. “Ước chi tui lấy được một
người như
Hoàng…” Tiếng
Nguyệt nhỏ dần, Hoàng nghe như tan lẫn vào tiếng gió và sau đó không còn
nhận ra tiếng khóc hay tiếng côn trùng. Những giọt ấm nóng thấm
dần qua vai áo…
Chợt
ân hận vì từ lúc xuống xe không kịp hỏi ai đường
về làng. Mà hỏi để làm gì bởi
Hoàng muốn đôi chân
anh lần theo lối cũ, con đường vòng từ xóm Củi sang xóm Bàu nơi ngày
xưa anh vẫn
thường ví bò về chuồng mỗi buổi chiều. Ngày ấy dù đã 13, 14 tuổi Hoàng vẫn còn là thằng nhóc tóc khét lẹt vì cháy nắng, đôi cẳng chân chằng chịt những vết cào móc của gai mâm xôi, mãng lồ. Vậy mà thằng
nhỏ tóc cháy nắng ấy lúc nào ngủ
cũng nằm mơ thấy Nguyệt. Nguyệt cầm liềm
bứt tranh giữa đồi nắng,
má chín lựng màu sim
vừa trở bói, Nguyệt bơi giữa sông vú chũm cau đùa với sóng nước… Bao nhiêu là hình ảnh mà khi thức dậy thật
lâu Hoàng vẫn còn ngơ ngẩn. Lại nhớ có lần hai người chọc nhau. “Đáng ra Hoàng phải gọi Nguyệt
bằng chị”. “Thèm đó, chị chi bằng tuổi người ta, mà này, tui nghe
nói bà con xa thì cũng như người
dưng, cũng… được mà, thiệt
mà”. Hoàng nói như khóc. “Mai mốt về
thị trấn học, làm ông này bà nọ, nhớ
chi ai hè”. “Thôi, biết
răng mà nói, chừ thì
thương đã”. Con đường bỗng
dưng hẹp
lại, chân Hoàng đá phải một bãi phân trâu đã khô, ít bụi phân bay lên ngay trước mũi giày rồi lập tức
tan lẫn vào đám cỏ rối. Trời
đất, vậy mà bao nhiêu năm rồi Hoàng không nhớ nổi, thời
gian thì tính được nhưng có
những điều như gai nhọn đâm vào tay thành chai,
khi nào đụng đến là đau, biết chi ngày tháng.
Hoàng chợt
sững người. Từ trên đỉnh đồi nhìn xuống làng thấy rõ một sợi khói mỏng
manh bay lên trong buổi
chiều chạng vạng. Cây cối um tùm nhưng
Hoàng vẫn nhận ra hình như chỉ có một nóc nhà thì phải. Làng xưa ít
nhà, dân tứ xứ đi kinh tế mới thì bạ
đâu đó là làng. Nhưng chí ít cũng có gần hai chục gia đình sao giờ bỗng quá hiu quạnh.Chân
Hoàng bỗng bước nhanh gấp gáp.
“Hoàng mô hè, răng tui không nhớ”. Người
đàn ông gầy guộc, da tái xanh như người sốt rét kinh niên nhắc đi nhắc lại. Hoàng cũng không nhớ nổi
người đứng trước mặt anh là ai. “Tui là Chiến, Chiến con ông Nậu thợ cội đó”. Hoàng kinh ngạc, tưởng
chừng đất sụt dưới
chân. Trí nhớ vận hành như tia chớp của anh nhớ
lại một điều khủng khiếp. “Lâu quá tôi quên…tôi
quên mất rồi. Nhưng mà,
tôi nhớ hình
như Chiến
con bác Nậu cùng tuổi với tôi là cái anh đi rà sắt gặp hầm
lựu đạn nổ, chết
banh xác”. “Rứa là
chú nhớ lộn rồi, đó là thằng
Tranh em tui”. Hoàng chớp
chớp mắt, quả thật người
đàn ông này lớn hơn anh
nhiều tuổi, có thể đó là Chiến. Còn cái người cùng tuổi với anh, chết
vì lựu đạn có thể là Tranh mà lâu rồi anh không nhớ ra nổi. “Thôi được, chi thì chi, chú cứ tắm rửa
rồi nghỉ ngơi, nói chuyện sau”.
Căn nhà nhỏ,
tối tăm. Buổi chiều sắp tắt
nắng khiến căn nhà chỉ còn vài vệt sáng mờ ảo. Rửa
mặt xong, đầu óc tỉnh táo Hoàng mới nhận ra một bầy con nít đều
săm sắp, mũi dãi lòng
thòng đang láo liêng nhìn anh. Giống
như bầy
chuột con, Hoàng nghĩ
thầm. Bầy chuột xao động khi anh lấy ra đùm bánh lọc gói lá chuối mua lúc vừa xuống bến xe thị trấn. Vài cái chớp
mắt bầy chuột biến đâu mất, để lại trên nền
nhà ẩm thấp những mảnh lá vương vãi.
Hoàng nhai trệu
trạo miếng cơm độn sắn. Bao nhiêu năm rồi mà người
dân ở đây vẫn còn ăn thứ cơm ngày xưa anh cố lèn chặt dạ vào mỗi
buổi sáng chân thấp chân cao đến trường. Chai rượu trắng nút vỏ mỳ tôm cuộn xoắn vơi dần. Hai người ngồi đối diện,
chiếc đèn dầu hỏa tỏa
ra thứ ánh sáng mờ đục, gió tạt
khiến hai chiếc bóng sấp ngửa, chực bổ vào nhau.
Trong lặng
im là chính, đôi lúc Hoàng hỏi
giọng nhát gừng như người mơ ngủ. Người
đàn ông hầu chuyện Hoàng trả lời lại
bằng thứ giọng đặc
sệt thổ âm, ngắt quãng, nhiều chỗ yếu ớt
đến nỗi Hoàng tự hỏi, không biết
anh ta còn ngồi đó
hay không. Chắp nhặt câu chuyện không đầu không cuối Hoàng hình dung những biến cố xảy
ra với ngôi làng bé
nhỏ ngày xưa của tuổi thơ anh.
Những
năm khi Hoàng còn là sinh viên, làng rộ
lên nghề đào bới phế liệu. Cái nghề
bạc bẽo và sinh tử này đã cướp đi không biết bao nhiêu mạng người. Nhà mụ Cả Điền,
thằng con cưa trái
105 ly nổ tan
tành, xương cốt
cả nhà lượm lại chưa đầy một nồi
đất. Nhà ông Hợi Tàng (có đứa con tàng tàng), cả nhà chết vì tháo bom lân tinh, xương thịt vãi ra người ta phải dùng đũa để gắp, gắp
rồi bỏ vào thau nhôm vẫn còn cháy khét lẹt. Nhà này, nhà kia… Hoàng
cảm thấy tức ngực.
“Sao không kiếm nghề khác mà làm?” “Nghề chi? Chú thấy xung quanh làng 3 mặt rừng rú, một
mặt là sông. Đi cội thì kiểm lâm bắt, sông thì không có cá
tôm. Ruộng đất canh tác được nhỏ như lỗ mũi, có làm cũng không đủ ăn..”.
“Vậy
làng chỉ còn mỗi nhà anh ở đây thôi à?”. Ngọn đèn hao dầu, bấc cứ lụi
dần. Im lặng tưởng như vô tận. “Thì còn ai nữa. Cả làng chưa đến 20 nóc nhà. Có mấy
hộ dắt díu nhau vô miền Nam, Tây Nguyên chi đó
tui không biết, còn lại rồi cũng bỏ
đi, người thì qua Lào
làm thợ nề, kẻ thì lang bạt
dọc các bãi vàng.
Theo nhau đi hết, còn
lại mình tui”. Hoàng
bất giác nghĩ tới bầy chuột
con. “Chừ có mình tui
với bầy con, ngày hai buổi vô rú chặt củi. Khi nào đủ
chuyến xe thì gánh ra
đường lộ, lái buôn từ thị trấn
lên chở. Họ đem mắm muối, gạo cơm lên, có chút
tiền thì dành
để may áo quần”
Có tiếng
sương rơi trên tàu lá chuối và tiếng gió u u len qua khe cửa. Trời tối sẫm,
không cả một vì sao nhỏ. Thứ rượu cất
bằng sắn tươi pha quá nhiều cồn đã đánh gục
Hoàng. Tựa lưng vào
chiếc cột ám khói, Hoàng như đi vào
một thế giới khác, như là cõi nào ở âm ty, địa
ngục. Tiếng người đàn ông ngắt quãng, đều đều. Theo lời
kể, Hoàng lúc lúc giật mình, lúc lại muốn hét lên, chồm tới tát vào mặt
người đàn ông để nói rằng đó là câu chuyện láo lếu. Nhưng
Hoàng say quá hoặc
yếu quá, tấm thân mềm nhũn, bất động. Hoàng không thể tin được,
rằng trong câu chuyện Nguyệt đã từng là vợ anh ta, là mẹ của bầy
chuột con đang chui
rúc mê mệt đâu đó
trong ngôi nhà ẩm thấp này. “Nguyệt không muốn đi đâu cả, muốn ở đây suốt
đời. Cô ấy với tui có 5 mặt
con, bầy con nít chú
thấy lúc chiều” Tiếng khóc ti tỉ nghe như tiếng mọt trên xà nhà. “Cô ấy mới bỏ
tui đây. Năm ngoái Nguyệt
đi đốt than, xui quá,
bếp nằm ngay trên ổ bom bi. Rứa là cả người không còn chỗ
mô nguyên vẹn…” Tiếng khóc ti tỉ bỗng vỡ
ra nhưng không át được tiếng
gió về khuya đang rít
lên từng hồi. Đầu óc Hoàng trở nên mụ mị. Hoàng nhìn thấy
Nguyệt đang đứng ngay trước mặt, thân mình không một mảnh áo, máu bết
lại từng mảng. Chỉ có đôi mắt, đôi mắt trong sáng, quá đỗi buồn. Nguyệt nhìn anh như van lơn, day
dứt điều gì. “Nguyệt đợi Hoàng lâu quá, đợi suốt
cuộc đời rồi Hoàng nghe. Chỉ tại
Nguyệt khổ quá, không bước chân ra được khỏi làng, để đi với Hoàng. Mà làng cũng còn
đâu nữa Hoàng ơi…”
Vừa nói, thân hình tơi tả của Nguyệt
cứ chập chờn rồi mất
hút dần. Hoàng nghe
thấy tiếng hét của mình rồi sau đó chỉ toàn là bóng tối.
Những
giọt sương buổi sớm khiến
Hoàng tỉnh giấc lúc mờ sáng. Im lặng tuyệt đối. Hoàng nghe như có tiếng chân người rất khẽ đâu đó nhưng nhìn
quanh chẳng thấy ai. Ngôi nhà ẩm thấp đêm qua đã biến mất, mình Hoàng nằm
lọt giữa lùm dưới dại, bốn phía mọc đầy cây xấu
hổ. Cố trấn tĩnh nỗi
sợ hãi, Hoàng vạch lùm cây bước ra. Xung quanh chỗ Hoàng đứng chẳng có dấu vết gì của
ngôi làng tuổi thơ, cả ngôi nhà đêm qua, cả người đàn ông tên Chiến cùng lũ trẻ.
Đột nhiên Hoàng rùng
mình, trên tay anh đang nắm
chặt không biết tự bao giờ,
là một lọn tóc dài, xanh mướt. Và trước mặt Hoàng, trên lùm dưới dại, một bầy chuột
con đang vắt vẻo,chúng nhìn anh trân trối…
Mất
hơn 3 giờ
đồng hồ, Hoàng mới về đến
bến xe thị trấn. Trước
khi trở lại thành phố, Hoàng dò hỏi mãi mà chẳng ai hay biết gì về ngôi làng nằm ở phía tây thị
trấn. Có người nói không chắc chắn rằng, cách đây vài năm ở đó chỉ
có ngôi nhà của đôi vợ chồng trẻ
và đàn con. Rồi sau
đó, trong một lần lên rừng đốt than, bom bi đã nổ tung giết chết cả gia đình họ…
Đà Nẵng
17.6.2006
Phạm Xuân Hùng
Nguồn: vanchuongviet.org