Tác giả Nguyễn Văn Quang
ĐƯỜNG
TÔI ĐI HỌC
Quê tôi - làng An cư, là một ngôi làng nhỏ thuộc xã
Triệu Phước. Làng nằm cạnh một dòng sông, đoạn cuối của hợp lưu hai sông Thạch
Hãn và sông Hiếu đổ ra cửa Việt. Tên làng, tên xã nghe thì bình yên, hạnh phúc
thế, nhưng quả thực dân chẳng an cư và chẳng được phước lộc là bao!
Sống nơi nước mặn đồng chua, dân thuần nông không đủ gạo
ăn, phải đi làm thuê khắp bốn phương trời. Nghe câu hát của Duy Khánh (một người
con của làng) thì đủ thông cảm:
Quê
hương em nghèo lắm ai ơi
Mùa
đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn!
Nhà tôi không đến nỗi ba đời ăn củ chuối nhưng cũng ba
đời đi ở đợ, làm thuê! Ông nội tôi lên làm thuê tận trên vùng sơn cước, Cha tôi
và hai chú tôi phải đi ở giữ trâu, phụ cày cho nhà giàu tại ba xã khác nhau;
tôi mồ côi cha lúc bảy tuổi, hai em tôi chết từ nhỏ vì thiếu ăn và bệnh tật
không có thuốc chữa. Mẹ tôi đi làm thuê, tôi đi mót lúa, mót khoai để nuôi nhau
sống qua ngày! Thế nhưng không hiểu tại sao tôi vẫn ước ao được đi học!
Thời Pháp thuộc, quê tôi nằm trong vùng kháng chiến.
Tôi mới 8 tuổi nhưng đêm đêm vẫn hăng say cùng với người lớn trong xóm đi học
bình dân học vụ trong các nhà thờ họ hoặc tại đình làng. Năm 1951 ở xã có mở
trường cấp Một thì tôi ghi danh đi học lớp Một, rồi lớp Hai tại một nhà thờ họ
của làng Cao Hy, cách làng tôi một cánh đồng. Hằng ngày tôi mang cái bị lác đựng
một cuốn vở, một chai mực tự pha chế và một ngòi bút cán làm bằng tre có buộc
vào đầu cán một lưỡi bút, gọi là bút lá tre. Đi học về phải đem bị vở ra vườn
nhà moi đất lên, bỏ vào cái hố nhỏ đã đào sẵn, đặt bị vở trên hai thanh tre gần
mặt đất rồi đậy lên bị một tấm lá chuối và lấp đất lại cho ngang với mặt đất.
Tay chân, quần áo tuyệt đối không để có một vết mực. Tây mà phát hiện có mực,
chúng biết đi học trường Việt Minh thì chúng đánh chết. Còn nhỏ mà bọn tôi đã rất
ý thức phải làm gì để tồn tại trong chiến tranh. Đến lớp học, việc trước tiên
là phải đào một cái hầm tròn vừa cho một người ngồi, gọi là hầm tròn hay hầm cá
nhân. Lần đầu tiên máy bay bắn bay ngang qua, chúng tôi chạy ra hầm, nhảy xuống
ngồi mới biết hầm còn cạn quá, vai và đầu nhô trên mặt đất, dễ ăn đạn như chơi!
Sợ quá, hôm sau tôi phải mang cuốc chét theo, cố gắng đào sâu thêm. Một hôm tôi
đang trên đường về thì máy bay đến bắn mấy loạt rồi bay đi. Tôi nhét bị vở vào
gốc cây giữa đồng rồi núp mình giữa ruộng lúa đang chín vàng. Máy bay bay đi đã
lâu mà không thấy con về, mẹ tôi lo lắng quá nên cầm lấy một cái hái (dụng cụ để
gặt lúa) giả vờ đi gặt lúa để tìm con. Hai mẹ con gặp được nhau giữa đồng lúa
thì ôm nhau khóc. Tại nhà, mẹ tôi đào hai hầm cá nhân dọc luỹ tre, cách nhau chừng
bảy mét để hai mẹ con núp khi có đại liên từ ca-nô dưới sông hay moóc- chê dưới
đồn Cửa Việt bắn lên và ca-nông trên Đông Hà bắn về. Mẹ con tôi không nằm chung
hầm vì sợ trúng đạn pháo thì chết cả hai! Mỗi lần hai mẹ con chạy ra hầm, mẹ
tôi luôn khấn to: Lạy trời nếu rủi ro có
chết thì cho tui chết, để con tui được sống kẻo hắn còn nhỏ dại tội nghiệp!
Nơi hợp lưu 2
ngọn sông người dân cào xúc hến nước lợ để cung cấp các chợ trong tỉnh (Khúc sông từ Giàng Hến về Cửa Việt)
Qua năm 1953 Tây về đốt nhà, thiêu sạch cả làng. Mẹ
tôi đi kiếm tre và rơm làm lại một cái lều che mưa nắng. Cũng năm ấy chúng đóng
đồn ở đầu làng gọi là bốt (poste) An Cư. Tây đóng đồn khắp nơi. Cách vài ba cây
số có một đồn. Dọc tỉnh lộ 4 từ thị xã về đến Cửa Việt chúng đóng đến 7 đồn. Vậy
là tôi thất học. Năm 1954 chia cắt đất nước, năm 1955 chưa có trường, tôi lại
thất học. Đến năm 1956 chính quyền miền Nam cho mở trường sơ cấp, tôi đã lớn
xác nên phải thi xếp lớp và được vào học lớp Ba. Đến 1959 học hết lớp Năm, tôi
đi bộ 7 cây số lên trường Đại Hào để thi Tiểu học. Đỗ Tiểu học thì tôi phải ở
nhà đi giữ trâu cho người bà con vì mẹ làm thuê không đủ nuôi con học trường tỉnh.
Tuy thế tâm trí tôi luôn nuôi một ước mơ được tiếp tục đi học như bạn bè cùng
trang lứa! Nhưng một đứa trẻ con như tôi, đi bộ 16 cây số lên đến trường tỉnh
Nguyễn Hoàng để học tiếp Trung học là điều không thể. Nhìn mấy đứa bạn con nhà
khá giả được tiếp tục đi học trường tỉnh trong khi tôi phải một mình đi theo
con trâu ra đồng, nhiều đêm nằm tủi thân âm thầm khóc! May làm sao, năm 1960, bộ
Giáo dục thời bấy giờ cho mở mỗi quận một lớp Đệ Thất. Tôi nghe được tin ấy mừng
lắm, vì nghĩ rằng đây là cơ may mình có thể tiếp tục con đường học tập. Làng
tôi có một đứa học sau tôi một lớp tên là Phụng, Thằng Phụng lại mồ côi mẹ, cha
chiêu yếu làm không đủ nuôi con phải nhờ người o của hắn nuôi giúp. Hắn cũng là
một đứa hiếu học. Vậy là hai đứa tôi rủ nhau nộp đơn thi vào Đệ Thất Trung học
Triệu Phong. Quá mơ ước được đi học mà đi thi chứ lòng không tự tin lắm vì đã bỏ
học một năm và mình là dân nông thôn e không tranh nổi với dân trên vùng ngoại
ô và thị xã! Thế mà kết quả đến không ngờ. Cả hai đứa tôi đều lọt vào con số ít
ỏi 50 trên 492 học sinh dự thi. Thi đỗ rồi vẫn không nghĩ ra cách để đi học. Mẹ
tôi và o của thằng Phụng đều lắc đầu: “Tau
chịu, tau chịu!”
Trong làng có một bà quan đã đến nhà nói thẳng với mẹ
tôi rằng: “Mấy đứa cháu tau ở trên thị xã
sáng sữa bò, tối trứng lộn sung sướng thế mà học không nổi, con mi bủng beo rứa,
đừng cho hắn đi học, sinh bệnh ra mà chết chừ!”
Mẹ tôi nghe nói thế sợ quá, kiên quyết không cho tôi
đi. Tôi thì nằng nặc xin mãi, nên cuối cùng mẹ tôi đành nhượng bộ, nói lẩy: Mặc
kệ mi, mi mần răng học được thì học, tau bất kham!”
Hậu điện nhà thờ
HỌ ĐỖ vẫn còn dáng dấp xưa cũ, ngày ấy những cô cậu học sinh THTP ngồi học tại
nơi nầy
Tôi và thằng Phụng vẫn quyết tâm đi học. Dù sao, mẹ
tôi cũng như o thằng Phụng vẫn thương con, thương cháu, vẫn thầm mong sao cho
chúng tôi ăn học bằng người. Và thế là họ tiếp tục kiếp làm thuê, cần cù hơn,
chịu khó, chịu khổ nhiều hơn để có cơm có khoai, sắn cho chúng tôi ăn học! Tất
nhiên chúng tôi không thể ở nhà trọ nên chỉ có một cách duy nhất là rèn đôi
chân cho chắc, khoẻ để cuốc bộ một ngày hai vòng: Từ An Cư lên nhà thờ họ Đỗ
Bích Khê một năm, rồi sau đó là đình Cổ thành và đình Hậu kiên. cung đường cả
đi lẫn về trên 24 cây số. Mẹ tôi ngày đi làm thuê, đêm đi bắt cá bằng cách cùng
những người khác vây sáo lại để bắt gọi là đi mò sáo. Tôi học xong bài là một
mình đến chõng tre ngủ. không biết mẹ về từ lúc nào. Nhưng cứ gần 3 giờ sáng là
mẹ thức dậy ăn cơm. Nói là ăn cơm nhưng thực ra thì cơm ít, sắn khoai nhiều. Phần
lớn cơm bới vào mo cau cho bữa ăn trưa để khi mở ra ăn tại lớp đỡ tủi hổ với bạn
bè! Ăn uống xong, chuẩn bị sách vở, chừng 3 giờ rưởi sáng hai đứa hai cái bị
lác, hai mo cơm và hai cái gậy chống đi trong đêm tối mịt mờ! Băng qua cánh đồng
làng Cao Hy (xã Triệu Phước) gặp một trạm gác của lính dân vệ xã. Họ quát lớn:
“Ai, đứng lại!” Cả hai đứa sợ run người, nhưng cũng lấy lại bình tỉnh để đáp:
“Dạ hai đứa cháu bên làng An Cư đi học.” Họ lại hỏi vặn: “Học hành đâu giờ
này?”
“Dạ,
tụi cháu học trường Trung học Triệu Phong, tận côi Sãi, xa lắm!” -
“Ừ,
rứa thì cho đi đi!”
Chúng tôi mừng quá, tiếp tục cuộc hành trình.
Qua đến Bồ Bản thì trời tờ mờ sáng. Đôi chân phải hoạt
động đều và khẩn trương để có thể kịp giờ vào lớp (7 giờ sáng). Nhiều lúc trể
giờ, lén nhảy cửa sổ vào ngồi bàn sau cùng mà vẫn bị thầy phát hiện, kêu đứng dậy
la một trận nên thân. Sau khi chúng tôi trình bày lý do, hoàn cảnh, thầy cũng
thông cảm và cho ngồi tiếp tục học. Nhìn chung, tụi tôi phần lớn là con nhà
nghèo, thất học từ nhỏ và ở xa trường, nên việc đi học gắn với mo cơm bới. Mùa
đông không phơi được nên cái mo để gói cơm mốc meo trông rất bẩn! Trên đường
đi, hai đứa tôi gặp các bạn khác cũng cặp kè mo cơm bên mình, cũng kiếp nhà
nghèo như nhau, cùng cảnh ngộ nên dễ thân nhau. Chúng tôi hẹn đợi nhau cùng đi
để chuyện trò cho quên mệt nhọc. Qua Vĩnh Lại có Trương Đăng Sỏ, lên Đại Hào có
Phạm Tiến, Phạm Như Tâm ... Hỏi ra mới biết Tiến mồ côi cha, mẹ đi lấy chồng,
được bà nội nuôi từ bé. Bà nội đã già nhưng thương cháu quá cũng ngày hai buổi
đi giũi cá về bán kiếm gạo cho cháu ăn học! Cảm động làm sao tấm lòng thương
con, thương cháu của bà Mẹ Việt Nam! Trong lớp, con nhà giàu chơi với nhau, bọn
con nhà nghèo chúng tôi chơi thân với nhau; tụi tôi nghèo cơm áo nhưng rất quyết
tâm nên học khá giỏi, được thầy cô thương và thường quan tâm động viên, giúp đỡ.
Trường quy định mặc đồng phục quần xanh, áo trắng. Chúng tôi cũng phải chấp
hành để khỏi bị phạt. Nhưng mẹ không có khả năng may nổi cho con bộ đồng phục
nên tôi phải tự bản thân tìm cách làm thuê để có quần áo mặc. Một loại hình lao
động mà bây giờ tôi vẫn nhớ rất rõ là đi thắp hương thay. Tôi có một người bà
con họ hàng nhà ở trên thị xã Quảng Trị. Nhà này có người con gái chết trẻ, đem
về chôn ở nghĩa địa của làng. Do xa xôi cách trở, gia đình họ không thể về thắp
hương liên tục 50 ngày đầu ở mộ được. Họ thấy tôi nghèo cũng muốn giúp đỡ, nên
đã hợp đồng với tôi. Nội dung như sau: “Cứ
mỗi chiều tối tôi ra nghĩa địa thắp hương cho người vừa qua đời ấy, thắp đủ 50
ngày” thì sẽ cho tôi đủ vải để may bộ áo quần đi học. Tôi ra điều kiện là vải
tốt, xấu cũng được, nhưng vải áo phải màu trắng, vải quần phải màu xanh đậm.
Họ chấp nhận, và tôi hăng hái thực hiện hợp đồng. Mấy
buổi đầu đi một mình ra nghĩa địa trong gió lạnh tôi thấy run người, nhất là
lúc ra về trời tối thêm nên cứ tưởng tượng có người chết đi theo sau lưng mình.
Nhưng chí đã quyết, nghĩ đến bộ áo quần đồng phục sắp có đã giúp tôi vượt qua tất
cả. Mỗi năm người mỗi cao thêm, áo quần thì dần bạc màu và ngắn lại, lai quần
đã lên quá mắt cá chân khá xa, nhưng nó vẫn theo tôi cho hết năm Đệ Tứ!
Lớp tôi có một bạn cũng con nhà nghèo, quê ở Ái Tử học
rất giỏi, vì nó đã học trường tư một năm trên thị xã nên cái gì nó cũng biết
trước, nói cho cam quả, nó cũng thông minh, (mà không thông minh thì làm sao hồi
ấy nó chỉ đỗ Tú Tài mà bây giờ nó dạy luyện thi Đại học cho ba đứa con và các học
trò đời nay đến học thêm với nó?). Học trò trong lớp có nhiều đứa giỏi, phần lớn
là những đứa con nhà nghèo, cần cù, chịu khó học. Môn Pháp văn thì tôi và thằng
Hoá ngang sức nhau, cuối năm Đệ Lục, hai đứa tôi đã viết lưu bút cho nhau bằng
tiếng Pháp. Toán thì nó giỏi hơn tôi nên luôn đứng đầu sổ. Học xong lớp Đệ Ngũ
thì nó thi băng lên Đệ Tam Nguyễn Hoàng, nghĩa là bỏ qua lớp Đệ Tứ. Tôi không
dám thi băng, sợ trượt thì xấu hổ, hơn nữa lúc ấy tôi chưa nghĩ mình có thể đi
bộ một quãng đường gần 16 cây số để lên học trường Nguyễn Hoàng.
Học xong lớp Đệ Tứ là thi Trung học Đệ Nhất cấp. Hồi ấy
đánh giá bằng cấp chia làm 4 hạng: Ưu, Bình, Bình thứ và Thứ. Tôi được hạng
Bình. Mừng quá, tôi chạy ngay về nhà báo cho Mẹ biết. Mẹ tôi bắt một con gà
giò, sáo một lon nếp đặt lên cúng tạ ơn Trời đất, Tổ tiên.
Bốn năm học ở Triệu Phong để lại biết bao nhiêu kỷ niệm
thân thương, nhưng rồi tôi cũng đành tạm chia xa mái trường để lên Trung học Đệ
Nhị cấp Nguyễn Hoàng. Mấy đứa bạn nghèo nhà quê xa trường chúng tôi lại phải
tìm cách giúp nhau để có điều kiện ăn học. Con đường duy nhất là kiếm nhà dạy
kèm để có cơm ăn và có chỗ trọ. Nhanh nhất trong đám chúng tôi là Phạm Tiến. Hắn
bạo dạn, xông xáo, không sợ xấu hổ. Hắn đi hỏi từ nhà này qua nhà khác. Tôi
chưa từng làm quen với cảnh sống thành phố nên rụt rè, lớ ngớ không dám đi hỏi
tìm. Đang lo lắng bồn chồn thì thằng Tiến chạy về báo cho tôi là đã tìm ra chỗ
dạy kèm cho nó và một chỗ khác cho tôi. Tôi mừng như bắt được vàng!
Hắn dẫn tôi đến giới thiệu với nhà chủ rồi ra về. Tôi
cảm ơn hắn và ở lại với nhà ấy. Ông chủ nhà là một sĩ quan cấp uý, có một mẹ
già, vợ và 4 con nhỏ. Việc làm của tôi không những dạy học mà còn việc đưa và
đón các cháu đi học hàng ngày. Tôi ở trọ được hơn một tuần thì chị vợ gọi tôi đến
và thân mật bảo: “Anh chị cũng cần em ở dạy
cho các cháu, nhưng bà mẹ chồng không muốn có người lạ trong nhà. Em thông cảm
và chịu khó đi tìm nhà khác mà kèm.” Nghe chưa hết câu, tôi đã sững sờ, tuyệt
vọng, nghĩ rằng con đường đến trường đã bị chặn lối từ đây! Sáng hôm sau tôi bỏ
buổi học, về quê xin mẹ mấy đồng để ăn cơm ở quán cơm xã hội, nằm cạnh bờ sông
Thạch Hãn. Tôi bỏ học hai buổi để đi kiếm nhà làm gia sư (gọi là làm prề-xép-tơ, tiếng Pháp: précepteur). Tôi đang buồn lo
không ngủ được thì thằng Phụng, thằng bạn nghèo cùng làng đến báo một tin vui: “Có một gia đình nông dân ở xóm Dương, thôn
Cổ thành đang cần một prề-xép. Họ có hai con trai năm vừa rồi thi trượt Đệ Thất
Nguyễn Hoàng, muốn nhờ người kèm để sang năm thi lại.”
Tôi như người chết đuối níu được phao. Thằng Phụng dẫn
tôi đến giới thiệu với bác chủ nhà, chuyện trò một hồi, nó chào ra về. Tôi cảm
ơn nó và ở lại với gia đình này. Hồi ấy vào cho được Đệ Thất Nguyễn Hoàng thật
chua xương! Dạy cho học sinh từ yếu kém lên trung bình hoặc khá thì còn dễ, dạy
cho thi đỗ Đệ Thất quả là một áp lực lớn đối với tôi, nhất là mình còn có tham
vọng học giỏi. Nhưng với quyết tâm của cả thầy lẫn trò, với sự chăm lo, động
viên của bác chủ nhà, năm sau hai học trò tôi kèm đều đỗ vào Nguyễn Hoàng với vị
thứ khá cao. Bác chủ nhà tuy nông dân nhưng rất chăm lo việc học cho con. Bác mừng
quá, nói lời cảm ơn tôi, và mời tôi tiếp tục kèm cặp hai em cho đến ngày tôi
thôi học Nguyễn Hoàng. Do sức khoẻ yếu, làm việc quá sức nên việc học của tôi
đuối dần. Thi Tú tài Bán tôi đỗ Bình thứ và Tú tài Toàn chỉ đỗ hạng Thứ. Tôi
hơi buồn nhưng không xấu hổ vì biết mình không thể làm hơn thế, khỏi đúp lớp là
may! Xong Tú tài Toàn, các bạn tôi tiếp tục vào Huế kiếm phương tiện học tiếp Đại
học. Tôi không mơ gì thêm nên bằng lòng về xin một chân dạy giờ tại trường Bồ đề
Triệu Phong. Gần cuối năm học 1967-1968 tôi trở lại thăm trường cũ Triệu Phong,
thì cơ duyên đã đến. Tôi được gặp thầy Hiệu trưởng Phan Thanh Thiên, thầy mời
tôi vào phòng uống nước. Thầy hỏi tôi có thích về dạy trung học Triệu phong
không, tôi mừng quá, nói lời cảm ơn thầy. Sau đó thầy đã làm việc với Nha Học
chánh, và hai tháng sau tôi đã có giấy nhận về dạy tại ngôi trường mà 4 năm trước
mình còn là học trò ở đây. Những đứa bạn nghèo của tôi mạnh dạn vào Huế kiếm
nhà dạy kèm để học tiếp lên Đại học. Các bạn đã tự lo việc học được rồi thì giục
tôi bỏ dạy để vào Huế học với họ. Tôi không chịu nên họ bàn cách thứ hai là cứ
ghi danh học, bài vở họ chép dùm, gởi xe đò (xe khách) ra cho tôi. Có thầy ở
Sài gòn ra dạy thì báo để tôi đổi giờ dạy cho các giáo viên khác để vào học.
Kiên trì theo con đường ấy, với sự giúp đỡ của những thằng bạn nghèo tốt bụng,
ba năm sau, năm 1971 tôi đã đỗ được bằng Cử nhân Việt Hán.
Con đường đi học của tôi là vậy đó, gian nan, vất vả,
nhưng chưa bao giờ than thở, bỏ cuộc. Nghiệm lại, thấy câu nói của người Pháp: “Vouloir c’est pouvoir - muốn là được.”
nghe cũng có lý!
Nhờ được thầy cũ giúp đỡ, tôi có cơ duyên gắn bó với
trường xưa cho gần đến ngày trường ngưng hoạt động (4/1975). Tôi là người thứ
ba ở với trường lâu nhất: 4 năm học và 7 năm dạy. (Trường tồn tại 15 năm thì Thầy Hồ Bính và bác Hồ Thơm ở với trường 14
năm, tôi: 11 năm.)
Từ cái duyên trở thành cái nợ. Nợ này không ai đòi
tôi, nhưng tình cảm đối với trường xưa, sự hàm ơn đối với thầy cũ và những kỷ
niệm thân thương của tuổi học trò cứ bắt tôi phải ngày đêm suy nghĩ. Trường thì
đã bị huỷ hoại trong chiến tranh. Năm mươi năm trôi qua, cũng đã hai phần đời
người mà thầy xưa, bạn cũ mỗi người một nơi, ai còn ai mất, sống thế nào, chết
ra sao, ... không thể biết được hoàn cảnh của nhau! Tôi đem tâm tình này trao đổi
với các thầy cô, các CHS của trường về nguyện vọng tổ chức một ngày đoàn tụ, và
làm một cuốn Đặc san kỷ niệm - xem như một cuốn lưu bút của 15 thế hệ học sinh
TP thân yêu. Vui thay, mọi người đều đồng tình ủng hộ và quyết tâm thực hiện
thành công cả hai nguyện vọng đã đề ra.
Thị xã Quảng Trị, tháng 4/2010
Nguyễn Văn Quang