Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Wednesday, June 8, 2016

TIẾNG ĐỘC HUYỀN - Thơ Trúc Thanh Tâm



TIẾNG ĐỘC HUYỀN

Tiếng độc huyền rơi từ quá khứ
Xé hồn ta, chảy máu trinh nguyên
Áo hoa mờ ảo trong sương mỏng
Là những ẩn tình ta với em!

Phương Nam ơi, bạt ngàn lúa trổ
Cánh cò chao, trắng muốt tuổi thơ
Và trai, gái vẫn thề non hẹn biển
Phải lòng nhau nên cứ bắt đợi chờ!

Tiếng mẹ ru, võng đưa kẽo kẹt
Gió ruộng đồng khuấy động thời gian
Trong im vắng, đừng ai làm tan vỡ
Giữa không gian, trầm bổng một ngón đàn!

Chiều Bảy Núi, đất trời như gần lại
Đêm Núi Sam, trăng đẹp quá trăng ơi
Trong sâu thẳm đắng cay và hạnh phúc
Ta ru ta, với thân phận làm người!

Đừng nói trăm năm đi không tới
Cuộc đời nầy như giấc ngủ non
Tuổi thơ ơi, nụ cười mới lớn
Người học hoài chưa hết cái khôn!

Ta đứng cười vang cùng thế sự
Lở, bồi rồi như một giấc mơ
Để nghe trăn trở bao dòng lệ
Đủ biết tình yêu chẳng bến bờ!

Cả một đời ta, vai gánh nặng
Văn chương, thân hữu với tình em
Thiên đường, địa ngục gần nhau lắm
Còn tiếng độc huyền rớt trong đêm!

TRÚC THANH TÂM  
( Châu Đốc )




READ MORE - TIẾNG ĐỘC HUYỀN - Thơ Trúc Thanh Tâm

MƯA TÌNH YÊU- thơ Trầm Mặc

 

MƯA TÌNH YÊU                           
                          Trầm Mặc
                              (NTB)
                                    Tặng Côn


Hòa trong mắt ướt  mưa yêu
Ơi người tình lỡ dặm chiều còn xa
Mưa từ phố cổ mưa ra
Ru khúc "tình  mộng" giọt sa điệu sầu
Ngày sau có lạc mất nhau
Về nghe bến đợi một màu thủy chung
                                           
                         02/3/2016
                        Vỹ Dạ -Thành phố Huế

                            
READ MORE - MƯA TÌNH YÊU- thơ Trầm Mặc

DỊCH THƠ TIỀN NHÂN TRẦN ĐÌNH TÚC, MỘT NHÂN TÀI QUẢNG TRỊ - Hạ Thái Trần Quốc Phiệt


DỊCH THƠ TIỀN NHÂN TRẦN ĐÌNH TÚC
(Giới thiệu một nhân tài đất Quảng Trị)

Diễn thơ Hạ Thái Trần Quốc Phiệt


 

    Trần Đình Túc 
( 陳廷肅 1816* – 1899)


Ông là người làng Hà Trung, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
Từng giữ chức Hiệp Biện Đại Học Sĩ, Lễ Bộ Thượng Thư, tước Lại An Tử, Thụy Văn Ý, qua hai triều vua Thiệu Trị, Tự Đức.  

Là tác giả bộ tích TIÊN SƠN CHỦ NHÂN TOÀN TẬP tổng cộng 19 quyển gồm: Thi, Văn, Sớ, Biểu, Thơ, Giản. Vừa là gởi gắm tâm sự cũng là ghi lại những việc đã làm trải qua trong một thời gian khá dài với nhiều diễn biến lịch sử quan trọng trong đời.

Từ năm 2008, Cụ Trần Đình Tài, hiện ở San Diego - Cali - USA, cháu 5 đời của quan Hiệp Biện Đại Học Sĩ là người chủ xướng sưu tầm lại bộ sách nói trên, vì qua chiến tranh tất cả đều bị tiêu hủy. Hai cuốn thơ Tiên Sơn Thi Tập được copy từ tài liệu của Viện Bảo Tàng Hà Nội.

Tất cả được viết trên giấy bồi, chữ thảo, rất khó đọc. Nhà nghiên cứu Hán Nôm Linh Đàn Nguyễn Hữu Kiểm ở Sài Gòn, đã chuyển qua chữ Chân và làm bản phiên âm, sau đó với sự tiếp sức của Ông Trần Đại Vinh một nhà thông thạo Hán ngữ ở Huế đã hoàn tất việc dịch nghĩa.

Tất cả hơn 200 bài thơ hầu hết viết theo luật Đường đã được chuyển thành thơ thuần Việt ngữ, trong đó Bà Trần Lệ Khánh (Sài Gòn); Ông Hạ Thái Trần Quốc Phiệt (Cali-USA) đã tham gia chuyển dịch toàn bộ hai cuốn từ đầu chí cuối, tức là mỗi người chuyển dịch hơn 200 bài.

Ngoài ra Ông Linh Đàn (Sài Gòn); Bà Phan Thị Thanh Minh (Hà Nội); Ông Quế Sơn Du Tử (Sài Gòn), Ông Phùng Trần -Trần Quế Sơn (Illinois-USA), mỗi người đều có tham gia một số bài dịch thơ.

Theo Cụ Trần Đình Tài hai bộ Tiên Sơn Thi Tập chuẩn bị in thành sách, tất cả các nhân sự tham gia đang rà soát lại phần của mình.

Qua lời giới thiệu ngắn gọn này, từ San Diego. Cali-USA Cụ Trần Đình Tài muốn gởi lời cám ơn quý bà con,  cùng quý vị đã dày công làm copy, phiên bản, diễn nghĩa và chuyển dịch thành thơ, việc làm chiếm rất nhiều thời gian năm qua năm. Đặc biệt xin cám ơn Tiến Sĩ Nguyễn Xuân Diện, Giám Đốc Viện Hán Nôm Hà Nội đã rất nhiệt tình trong việc sưu tầm lại bộ tích 19 cuốn sách nói trên, công việc vẫn đang tiếp tục.

Xin giới thiệu 8 bài vịnh thắng cảnh ở Phú Lộc, Thừa Thiên, là nơi tác giả có thời nhận chức Dinh Điền Sứ, và khi về hưu được nhà vua cấp đất về hưu dưỡng.
Đây chắc chắn không phải là những vần thơ hay trong toàn tâp hơn 200 bài , vì về tả cảnh non nước còn rất nhiều bài trong ấy. Nhưng đây là những hình ảnh thân quen với người từng cư trú quanh vùng Cố Đô Huế.
Trân trọng kính mời xem và xin đón nhận ý kiến.

                                                                 Trần Quốc Phiệt

* Năm sinh 1816 là theo gia phả, trên wikipedia ghi là 1818, thiết nghĩ chép theo gia phả chính xác hơn.



咏富祿八景           Vịnh Phú Lộc Bát Cảnh

    陳廷肅               Trần Đình Túc
    Phiên bản           Linh Đàn
    Diễn nghĩa         Trần Đại Vinh
    Diễn thơ             Hạ Thái Trần Quốc Phiệt


     应堆山               1- Ứng Đôi Sơn

大龍抽脈自西来     Đại long trừu mạch tự tây lai
静鎮坤維起应堆     Tĩnh trấn khôn duy khởi Ứng Đôi
伐木丁冬傳遠響     Phạt mộc đinh đong truyền viễn hưởng
陵靈  氣勢積層嵬   Lăng vân khí thế tích tằng khôi
奇峯北面朝金闕     Kỳ phong bắc diện triều kim khuyết
秀色斜陽蘸水隈     Tú sắc tà dương trám thủy ôi
嵩岳降神鐘旺氣     Tung nhạc giáng thần chung vượng khí
昌期定待半千開     Xương kỳ định đãi bán (thiên) khai.

Diễn nghĩa:

Vịnh Tám Cảnh Của Phú Lộc

1. Núi Ứng Đôi 
     (núi Truồi)

Rồng lớn tuôn mạch từ phía Tây lại
Trấn giữ trục đất trỗi lên là núi Truồi
Tiếng đẵn gỗ ầm ào truyền lan xa tiếng vang
Khí thế núi vượt lên mây chất tầng cao
Núi lạ chầu thẳng về cửa thành vàng từ phương Bắc
Màu sắc đẹp của nắng chiều nhúng xuống ven nước.
Non cao, núi giáng thần, un đúc vượng khí
Thời thịnh vượng đã định, chờ năm trăm năm sẽ mở
                                      

Dịch thơ :


1- Núi Ứng Đôi  
      (núi Truồi)
     (thoát dịch)

Vẫy mạch rồng từ hướng chánh Tây
Vun bờ trấn giữ núi Truồi đây
Âm thanh đẵn gỗ lùa theo gió
Linh khí đùn tầng chạm tới mây
Kim điện ghi lòng, đầu Bắc gập
Tà dương mơ dáng, nước đầm vây
Thiêng liêng bí ẩn nhiêu khê chuyện
Thịnh vượng về lâu cuộc diện xây.

Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
             Feb-2016

河中海况               2. Hà Trung Hải Nhi

河中一帯水週圍   Hà Trung nhất đái thủy chu vi
奉錫嘉名號海兒   Phụng tích gia danh hiệu hải nhi
川澤含容通大小   Xuyên trạch hàm dung thông đại tiểu
滄溟呼吸共盈虧   Thương minh hô hấp cộng danh khuy
隨波水母浮潭面   Tùy ba thủy mẫu phù đàm diện
乘月漁翁下釣磯   Thừa nguyệt ngư ông hạ điếu ky
島嶼瀠廻民借處   Đảo tự oanh hồi dân tá sứ
朝尊萬派轉東歸   Triều tôn vạn phái chuyển đông quy.

Diễn nghĩa:

2. Hải Nhi Hà Trung  
   (Đầm phá Hà Trung)
Một dải Hà Trung nước bọc vây
Đã được ban danh hiệu là “hải nhi”
Chứa cả sông đầm, thông lớn nhỏ
Biển xanh thu hút cùng vơi đầy
Theo sóng, nước nổi lên trên mặt đầm
Nhân có trăng, ông chài buông câu
Các đảo, núi vây quanh là nơi dân tạm trú
Chầu về cội, muôn dòng đều chảy về Đông. 

Dịch thơ :   

2. Hải Nhi Hà Trung  
   (Đầm phá Hà Trung)
         (thoát dịch)
Hà Trung một dải nước vây quanh
Nhận hiệu Hải Nhi đã nổi danh
Chứa cá sông đầm thông lạch nhỏ

Thu nguồn thủy sản suốt nguồn xanh
Lùa theo sóng nước xăm sào gậy
Nương với trăng sao thả lưới mành
Đảo nhỏ gần xa dân trú ngụ
Chảy ra Đông hải sóng tròng trành.

Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
             Feb-2016


興瓶源                   3. Hưng Bình Nguyên 
夾岸安良自古名    Giáp ngạn An Lương tự cổ danh
中間吸注此興瓶    Trung gian hấp chú thử Hưng Bình
山容葯慰知源遠    Sơn dung thông uất tri nguyên viễn
水味甘平見底清    Thủy vị cam bình kiến để thanh
通貨上開交易所    Thông hóa thượng khai giao dịch sở
利農下築堰梁橫    Lợi nông hà trúc yển lương hoành
人逢治世居棲稳    Nhân phùng trị thế cư thê ổn *                         
樂事漁樵可讀耕    Lạc sự ngư tiều khả độc canh   
                                                    
Diễn nghĩa:

3. Nguồn Hưng bình

Giáp với bờ là An Lương tên từ thuở xưa
Ở giữa rót vào sông là nguồn Hưng Bình
Dáng núi xanh tươi biết là có nguồn xa
Vị nước ngọt bình trong veo trông thấy đáy
Lưu thông hàng hóa, bên trên đã mở trường giao dịch
Phía dưới làm lợi cho nông nghiệp, đã đắp một đập ngang
Người gặp đời thịnh trị, nương náu ổn 
(Có bản viết: Người và thổ sản nhiều tốt đẹp)
Vui với nghề cá, làm củi hay đọc sách, cày ruộng.

Dịch thơ :   

3. Nguồn Hưng Bình
        (thoát dịch)

Giáp với An Lương thế định hình
Sông tuôn dòng chính tận Hưng Bình
Cây rừng chằng chịt xanh xao lạ
Nước suối ngọt ngào trong trẻo kinh
Hàng hóa lưu thông thêm thịnh vượng
Nghề nông trồng trọt được phồn vinh
Gặp thời thịnh trị thanh bình sống
Canh đọc ngư tiều chẳng trọng khinh

Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
             Feb-2016


翠雲山寺                4.Thúy Vân Sơn Tự

山落平砂起翠雲    Sơn lạc bình sa khởi Thúy Vân
珠林簇向夕陽曛    Châu lâm thốc hướng tịch dương huân
修持偈語高低響    Tu trì kệ ngữ cao đê hưởng
般若鐘聲遠近開    Bát nhã chung thanh viễn cận văn
巡幸列朝常駐蹕    Tuần hạnh liệt triều thường trú tất
御題三藏炳碑文    Ngự đề tam tạng bính bi văn
梵門功德知無量    Phạn môn công đức tri vô lượng
衣鉢何籌荅圣君    Y bát hà trù đáp thánh quân

Diễn nghĩa:

4. Chùa Núi Thúy Vân
Núi kéo ra vùng cát sỏi, nổi lên hòn Thúy Vân
Một cụm rừng ngọc bên ánh nắng chiều
Sư tu trì, tiếng kinh kệ cao thấp vang vọng
Tiếng chuông bát nhã xa gần thoảng nghe
Các triều vua khi đi tuần thường trú chân ở đây
Vua ngự đề kinh kệ còn sáng tỏ nơi văn bia
Công đức cửa Phật biết là vô lượng
Y bát làm sao trù liệu, đền đáp ơn vua.

Dịch thơ :   

4. Chùa Núi Thúy Vân
         (thoát dịch)

Nổi giữa cát chuồi ngọn Thúy Vân
Rừng châu lấp lánh bóng chiều dâng
Pháp hoa câu kệ ngân nga vọng
Bát nhã hồi chuông thánh thoát ngân
Ngài ngự tuần du dùng quán hạc
Vua hài thủ bút tạc bia văn
Đức dày Phật Tổ năng vô lượng
Y bát vua ban xứng bội phần.

Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
             Feb-2016
順直官堤                5.Thuận Trực Quan Đê

圣人處事遠大哉    Thánh nhân xử sự viễn đại tai
耳目尋常所難識    Nhĩ mục tầm thường sở nan thức
順势築堤限北南    Thuận thế trúc đê hạn Bắc Nam
橫長一帶如绳直    Hoành trường nhất đái như thằng trực
中間設別甘鹹    Trung gian thiết đậu biệt cam hàm
畜泄秋開夏閉塞    Súc tiết thu khai, hạ bế tắc
上游從此利農功    Thượng du tòng thủ lợi nông công
歲屡豐穰人粒食    Tuế lũ đăng nhương nhân lạp thực
眄懷遊豫是年年    Miến hoài du dự thị niên niên
省省耕辰釣弋天    Tỉnh tỉnh canh thời điếu dặc thiên
悠悠兮海汪汪    Du du hề hải uông uông (thủy)
長使覩河思帝德    Trường sử đỗ hà tư đế đức.

Diễn nghĩa:

5. Đê Công Thuận Trực
Bậc thánh nhân xử sự có tài lớn và sâu xa thay
Tai mắt tầm thường khó mà biết được
Thuận theo địa thế, đắp đê ngăn Nam Bắc
Giăng ngang một dải như sợi dây thẳng
Ở giữa đặt một cống ngăn mặn, ngọt
Việc chứa và tháo nước thì mùa thu mở, mùa hè đóng lại
Trên thượng du của đập từ đó lợi việc làm nông
Nhiều năm được mùa, đủ gạo cơm
Nhớ xa trước đã chuẩn bị hằng năm
Lúc nhân việc cày cấy, thì thả lưới buông câu
Mênh mông như biển, nước dạt dào
Mãi khiến cho người trông thấy phải nghĩ đến công đức của vua.

Dịch thơ :   

5. Đê Công Thuận Trực
           (thoát dịch)
Thánh nhân xử sự quá tài ba
Tai mắt tầm thường khó nhận ra
Nam Bắc đê ngăn theo địa thế
Giăng ngang một dải sợi dây sà
Cống chia mặn ngọt đặt ngay giữa
Chứa tháo hè thu tùy lượng mưa
Nguồn thượng nông canh sinh lợi nhuận
Được mùa đủ gạo có dôi ra
Ôn cố tri tân nên chuẩn bị
Buông câu, cày cấy chẳng lơ là
Nước biếc mây xanh tình gắn bó
Ơn Vua là đấy nghĩ đâu xa
Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
             Feb-2016

靈蔡           6. Linh Thái
天南局量包涵大   Thiên nam cuộc lượng bao hàm đại
人物江山總無外   Nhân vật giang sơn tổng vô ngoại
胡乃靈蔡却朝洋   Hồ nãi Linh Thái khước triều dương
造没令人所不解   Tạo thiết linh nhân sở bất giải
抑向滄溟愛水潮   Ức hướng thương minh ái thủy triều
抑厭平田出俗態   Ức yếm bình điền xuất tục thái
有灵旨憂此無情   Hữu linh khẳng thọ thử vô tình
南轉峯頭隨虎拜南一作应 Ứng chuyển phong đầu tùy hổ bái (Nam nhất tác ứng)

Diễn nghĩa:

6. Núi Linh Thái
Trời Nam lượng mở bao hàm lớn
Non sông nhân vật thảy không ngoài
Sao có Linh Thái ngăn sóng biển
Dựng đặt khiến người chưa rõ được
Hướng ra bể cả, yêu thủy triều
Dừng chán ruộng bằng, vượt thói tục
Có thiêng thì nhận sự vô tình
Nên chuyển đầu non theo hổ lạy. (Nam đổi là ứng)

Dịch thơ :   

 6. Núi Linh Thái
       (thoát dịch)
Trời Nam lượng chứa lắm điều hay
Nhân vật non sông tụ tại đây
Linh Thái xây kìa ngăn sóng dạt
Thiên cơ dựng đấy tạc  lời bày
Hướng ra biển cả chân triều vỗ
Dừng lại đồng bằng gối phục xoay
Hiển ứng vô tình sao để bụng
Đầu non hổ bái nhiệm mầu thay!
Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
             Feb-2016

黑白石                   7. Hắc Bạch Thạch
奇爾石奇爾石黑   Kỳ nhĩ thạch kỳ nhĩ thạch hắc
純黑兮黑白純白   Thuần hắc hắc hề, bạch thuần bạch
天龍全水値双行   Thiên long kim thủy trĩ song hàn
原是澤山通一脉   Nguyên thị trạch sơn thông nhất mạch
撞撼風濤永不磨   Chàng hám phong đào vĩnh bất ma
往來舟揖宜相隔   Vãng lai chu tiếp nghi tương cách
千秋眼界最分明   Thiên thu nhãn giới tối phân minh
喚起人間正胸膈   Hoán khởi nhân gian chính hung cách.

Diễn nghĩa:

7. Đá Đen Đá Trắng
Lạ thay ngươi là đá lạ, ngươi là đá đen
Đen thì thuần đen , trắng thì thuần trắng
Rồng trời và nước kim đứng hai hàng
Vốn là đàm núi thông một mạch
Sóng gió gióng giã mãi chẳng mòn
Ghe thuyền qua lại cần tránh xa
Ngàn năm tầm mắt vẫn rõ ràng
Kêu gọi nhân gian từ trong bụng mình.

Dịch thơ :   

7. Đá Đen Đá Trắng
        (thoát dịch)
Đá trắng nằm kề cạnh đá đen
Mỗi bề thuần khiết giữ màu tên
Rồng trời nước bạc thông hai cõi
Đàm núi cây xanh suốt một miền
Sóng gió bình thường luôn dạt tới
Ghe thuyền thận trọng tránh sang bên
Ngàn năm vẫn rõ trong tầm mắt
Cổ võ nhân gian gắng sống hiền

Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
             Feb-2016


福象                        8. Phước Tượng

堆山抽出一支龍    Đôi sơn trừu xuất nhất chi long
一頓一起相接續    Nhất đốn nhất khởi tương tiếp tục
橫開驿路势崔嵬    Hoành khai dịch lộ thế tồi ngôi
立望山形如象伏    Lập vọng sơn hình như tượng phục
當年駕幸偶停驂    Đương niên giá hạnh ngẫu đình tham
奉錫嘉名福象岩    Phụng tích gia danh Phước Tượng nham
山溪到此限南北    Sơn khê đáo thử hạn Nam Bắc
富禄七總歸北三    Phú Lộc thất tổng quy bắc tam
馬蹟崩洪復渡海    Mã tích băng hồng phục độ hải
重重營寨起靈蔡    Trùng trùng dinh trại khởi Linh Thái
翠雲山势極巍峩    Thúy Vân sơn thế cực nguy nga
囬顧堆山外朝拜    Hồi cố Đôi Sơn ngoại triều bái
脫胎根骨下平沙    Thoái thai căn cốt hạ bình sa
村落相望千萬家    Thôn lạc tương vọng thiên vạn gia
知止安洋数百里    Tri chỉ an dương sổ bách lý
京城一望大包羅    Kinh thành nhất vọng đại bao la.

Diễn nghĩa:

8. Phước Tượng
Núi Cao Đôi nảy ra một chi long
Một lặn, một nổi cùng theo nhau
Giăng ngang đường trạm dịch thế cao vút
Đứng ngắm dáng núi như voi phục
Năm ấy ngự giá có dừng xem
Được ban tên là đá Phước Tượng
Núi khe đến đây ngăn Nam Bắc
Bảy tổng Phú Lộc, quy Bắc ba
Gáy ngựa lỡ to bằng uống biển
Từng lớp doanh trại trỗi Linh Thái
Thế núi Thúy Vân khá cao lớn
Quay nhìn lại núi Cao Đôi bên ngoài để chầu lạy.
Thoát ra gốc rễ, đi xuống cát bằng
Thôn xóm liền nhau ngàn vạn nhà
Biết dừng, yên với biển mấy trăm dặm
Trông về kinh thành thấy quá bao la.

Dịch thơ
  
8. Phước Tượng
     (thoát dịch)

Núi Cao Đôi nảy một chi long
Lặn nổi theo nhau khắn khít lòng
Đường vượt đất cao qua trạm dịch
Dáng nằm voi phục uốn lưng cong

Lần vua ngự giá đển đây xem
Phước Tượng ban tên giáng chỉ kèm
Khe núi Bắc Nam ngăn giới Tổng
Bảy về Phú Lộc, Bắc ba thêm

Vó ngựa duỗi chân băng xuống biển
Hành doanh Linh Thái chốn hùng oai
Thúy Vân thế núi hàng cao lớn
Ngoái cổ Cao Đôi chầu lạy ngoài

Gốc rễ thoát ra xuống cát bằng
Xóm làng liền lạc lối đi băng
Biết dừng với biển hằng trăm dặm
Vọng hướng kinh thành rộng rãi chăng.

Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
             Feb-2016

..................

* Ghi chú:

Dị bản của câu thứ 7 của bài số 3 HƯNG BÌNH NGUYÊN:
一作人生地産多佳致 
Nhất tác nhân sinh địa sản đa giai trí
(Người và thổ sản nhiều tốt đẹp)

READ MORE - DỊCH THƠ TIỀN NHÂN TRẦN ĐÌNH TÚC, MỘT NHÂN TÀI QUẢNG TRỊ - Hạ Thái Trần Quốc Phiệt

CHÙM THƠ NGUYỄN KHÔI


           
                                  Tác giả Nguyễn Khôi


   Lời thưa : Nguyễn Khôi tôi năm nay (79 xuân ta), già yếu, ốm đau,tuổi cao nhất họ nội tộc ở làng, con trai lấy vợ Tây, làm ăn sinh sống ở  nước ngoài, đại dương cách trở...phòng khi đột quỵ "ra đi" bất ngờ, nên có đôi vần gọi là "Di chúc  dặn con"...
Bài thơ đã được in ở trang 161/ tập 4  CỔ PHÁP CỐ SỰ - nxb Văn hóa Thông tin...có cái thú vị là :Bài thơ đã được 1 thầy  Tiến sĩ Luật/ giảng viên Đại học lấy làm "dẫn chứng " được coi là khá sinh động và đầy đủ  về " Di chúc / Luật thừa kế" ở Việt Nam hiện nay, rất có tính Thời sự ( có lẽ do cái DUYÊN : NK là chuyên viên cao cấp công tác 15 năm ở Văn phòng Quốc Hội (cơ quan lập pháp) và lại là Nhà Thơ/ Nhà Văn nên đã thể hiện bản "Thơ di chúc" gói gọn bằng 19 câu lục bát để dễ nhớ,dễ thuộc..)
  Về mặt pháp lý :có 2 ý đáng để các Bạn thơ tham khảo :
- Bài thơ đã được Xuất bản, công bố trên nhiều trang Web trong và ngoài nước...như vậy là Bản quyền thuộc về Tác giả (theo đúng Luật).
- Tuy nhiên về mặt "pháp lý" thì Bài thơ chưa đủ tư cách pháp lý khi đưa ra Tòa án làm căn cứ vì chưa được Cơ quan có thẩm quyền công nhận Bài thơ có giá trị Pháp lý để các Con buộc phải thực hiện sau khi Bố chết (nếu có tranh chấp). Bài thơ chỉ có giá trị về mặt "đạo đức"/ truyền thống Dân tộc và chỉ để Tòa "tham khảo" khi có tranh tụng mà thôi.
 NK xin đăng lại Bài thơ để các Bạn thơ đọc cho vui (cười mũi Nhà thơ lẩm cẩm) và ai thích thì cũng coi là một "tham khảo" khi viết Di chúc :

          
 DẶN  CON
                  
  Bao giờ bố chết... xin thương
Tiễn đưa gọn nhẹ đời thường thế thôi
  Điếu văn chớ có nhiều lời
Hương nhang vài thẻ, hoa tươi vài vòng
  Người thân xúm xít thật đông
Vài ba giọt lệ ấm trong tiếng cười...
  "Hóa thân hoàn vũ" xong rồi
"Cốt tro" về táng bên nơi ông bà
  Thơ văn vài tập gọi là
Tặng cho Thư viện để mà xem chung
  Cửa nhà, đất của cha ông
Giữ làm "thờ tự" nhớ đừng bán đi
  Của riêng cha mẹ những gì
Chia như Luật định chớ bì tị nhau
  Đời người thoáng tựa bóng câu
Chăm lo cần kiệm bắc cầu mưu sinh
  Sống vui trọn nghĩa ven tình
"Đời là bể khổ" tử sinh lẽ thường
  Đôi lời nhỏ nhẹ dặn con...

               NGUYỄN KHÔI
      
  
Lời thưa : nghe tin Bob Kerrey (cựu Thượng nghị sĩ), vốn là Đai úy Hải quân Mỹ, người trực tiếp tham gia và chịu trách nhiệm về vụ thảm sát thường dân vô tội, phụ nữ, trẻ em, người già thôn Thạnh Phong vào tháng 2/1969...vừa được bổ nhiệm là Chủ tịch trường Đại học Fulbright ở Tp HCM...NK tôi thấy bức xúc, xin có đôi vần (thác lời một Sinh viên ở Bến Tre) :


ẨN  ỨC
(Tặng Tôn Nữ Thị Ninh)
                 
Lão ấy làm Thầy Hiệu Trưởng
(Xưa hắn giết mẹ mình)
-Mỗi lần lên bục giảng :
"...phải Hội nhập văn minh..."
                   
Chao, khép lại thù hận :
- Ừ, cùng đi kinh doanh,
ra biển chống Bành trướng...
thì mở lòng bao dung.
                    
Nhỏ chúng em thường hát :
" Em yêu trường em
yêu cô giáo hiền..."
- Nay (phải) yêu Thầy sát thủ ...
Em thấy lòng không yên !
   ? ? ?
              
        Hà Nội 5-6-2016
        NGUYỄN KHÔI

READ MORE - CHÙM THƠ NGUYỄN KHÔI