DỊCH THƠ TIỀN NHÂN TRẦN ĐÌNH TÚC
(Giới thiệu một nhân tài đất Quảng Trị)
Diễn thơ: Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
Trần Đình Túc
( 陳廷肅 1816* – 1899)
Ông là người làng Hà Trung, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng
Trị.
Từng giữ chức Hiệp Biện Đại Học Sĩ, Lễ Bộ Thượng
Thư, tước Lại An Tử, Thụy Văn Ý, qua hai triều vua Thiệu Trị, Tự
Đức.
Là tác giả bộ tích TIÊN SƠN CHỦ NHÂN TOÀN TẬP tổng cộng 19 quyển gồm: Thi, Văn, Sớ,
Biểu, Thơ, Giản. Vừa là gởi gắm tâm sự cũng là ghi lại những việc đã
làm trải qua trong một thời gian khá dài với nhiều diễn biến lịch sử quan trọng
trong đời.
Từ năm 2008, Cụ Trần Đình Tài, hiện ở San Diego
- Cali - USA, cháu 5 đời của quan Hiệp Biện Đại Học Sĩ là người chủ xướng sưu
tầm lại bộ sách nói trên, vì qua chiến tranh tất cả đều bị tiêu hủy. Hai cuốn
thơ Tiên Sơn Thi Tập được copy từ tài liệu của Viện Bảo Tàng Hà Nội.
Tất cả được viết trên giấy bồi, chữ thảo, rất
khó đọc. Nhà nghiên cứu Hán Nôm Linh Đàn Nguyễn Hữu Kiểm ở Sài Gòn, đã chuyển
qua chữ Chân và làm bản phiên âm, sau đó với sự tiếp sức của Ông Trần Đại Vinh một
nhà thông thạo Hán ngữ ở Huế đã hoàn tất việc dịch nghĩa.
Tất cả hơn 200 bài thơ hầu hết viết theo luật
Đường đã được chuyển thành thơ thuần Việt ngữ, trong đó Bà Trần Lệ Khánh (Sài
Gòn); Ông Hạ Thái Trần Quốc Phiệt (Cali-USA) đã tham gia chuyển dịch toàn bộ
hai cuốn từ đầu chí cuối, tức là mỗi người chuyển dịch hơn 200 bài.
Ngoài ra Ông Linh Đàn (Sài Gòn); Bà Phan Thị
Thanh Minh (Hà Nội); Ông Quế Sơn Du Tử (Sài Gòn), Ông Phùng Trần -Trần Quế Sơn
(Illinois-USA), mỗi người đều có tham gia một số bài dịch thơ.
Theo Cụ Trần Đình Tài hai bộ Tiên Sơn Thi Tập
chuẩn bị in thành sách, tất cả các nhân sự tham gia đang rà soát lại phần của
mình.
Qua lời giới thiệu ngắn gọn này, từ San Diego.
Cali-USA Cụ Trần Đình Tài muốn gởi lời cám ơn quý bà con, cùng quý vị đã dày công làm copy, phiên bản,
diễn nghĩa và chuyển dịch thành thơ, việc làm chiếm rất nhiều thời gian năm qua
năm. Đặc biệt xin cám ơn Tiến Sĩ Nguyễn Xuân Diện, Giám Đốc Viện Hán Nôm Hà Nội
đã rất nhiệt tình trong việc sưu tầm lại bộ tích 19 cuốn sách nói trên, công
việc vẫn đang tiếp tục.
Xin giới thiệu 8 bài vịnh thắng cảnh ở Phú Lộc,
Thừa Thiên, là nơi tác giả có thời nhận chức Dinh Điền Sứ, và khi về hưu được
nhà vua cấp đất về hưu dưỡng.
Đây chắc chắn không phải là những vần thơ hay
trong toàn tâp hơn 200 bài , vì về tả cảnh non nước còn rất nhiều bài trong ấy.
Nhưng đây là những hình ảnh thân quen với người từng cư trú quanh vùng Cố Đô
Huế.
Trân trọng kính mời xem và xin đón nhận ý kiến.
Trần Quốc
Phiệt
* Năm sinh 1816 là theo gia phả,
trên wikipedia ghi là 1818, thiết nghĩ chép theo gia phả chính xác hơn.
咏富祿八景 Vịnh Phú Lộc Bát Cảnh
陳廷肅 Trần Đình Túc
Phiên bản Linh Đàn
Diễn nghĩa Trần Đại Vinh
Diễn thơ Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
应堆山 1- Ứng Đôi Sơn
大龍抽脈自西来 Đại long trừu mạch tự tây lai
静鎮坤維起应堆 Tĩnh trấn khôn duy khởi Ứng Đôi
伐木丁冬傳遠響 Phạt mộc đinh đong truyền viễn
hưởng
陵靈 氣勢積層嵬
Lăng vân khí
thế tích tằng khôi
奇峯北面朝金闕 Kỳ phong bắc diện triều kim
khuyết
秀色斜陽蘸水隈 Tú sắc tà dương trám thủy ôi
嵩岳降神鐘旺氣 Tung nhạc giáng thần chung vượng khí
昌期定待半千開
Xương kỳ định đãi bán (thiên) khai.
Diễn nghĩa:
Vịnh Tám Cảnh Của Phú Lộc
1. Núi Ứng Đôi
(núi Truồi)
Rồng lớn tuôn mạch từ
phía Tây lại
Trấn giữ trục đất trỗi
lên là núi Truồi
Tiếng đẵn gỗ ầm ào
truyền lan xa tiếng vang
Khí thế núi vượt lên
mây chất tầng cao
Núi lạ chầu thẳng về
cửa thành vàng từ phương Bắc
Màu sắc đẹp của nắng chiều nhúng xuống ven nước.
Non cao, núi giáng
thần, un đúc vượng khí
Thời thịnh vượng đã
định, chờ năm trăm năm sẽ mở
Dịch thơ :
1- Núi Ứng Đôi
(núi Truồi)
(thoát dịch)
Vẫy mạch rồng từ hướng chánh Tây
Vun bờ trấn giữ núi Truồi đây
Âm thanh đẵn gỗ lùa theo gió
Linh khí đùn tầng chạm tới mây
Kim điện ghi lòng, đầu Bắc gập
Tà dương mơ dáng, nước đầm vây
Thiêng liêng bí ẩn nhiêu khê
chuyện
Thịnh vượng về lâu cuộc diện
xây.
Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
Feb-2016
河中海况 2. Hà Trung Hải Nhi
河中一帯水週圍 Hà Trung nhất đái thủy chu vi
奉錫嘉名號海兒 Phụng tích gia danh hiệu hải nhi
川澤含容通大小 Xuyên trạch hàm dung thông đại tiểu
滄溟呼吸共盈虧 Thương minh hô hấp cộng danh khuy
隨波水母浮潭面 Tùy ba thủy mẫu phù đàm diện
乘月漁翁下釣磯 Thừa nguyệt ngư ông hạ điếu ky
島嶼瀠廻民借處 Đảo tự oanh hồi dân tá sứ
朝尊萬派轉東歸 Triều tôn vạn phái chuyển đông quy.
Diễn nghĩa:
2. Hải Nhi Hà Trung
(Đầm phá Hà Trung)
Một dải Hà Trung nước
bọc vây
Đã được ban danh hiệu
là “hải nhi”
Chứa cả sông đầm,
thông lớn nhỏ
Biển xanh thu hút cùng
vơi đầy
Theo sóng, nước nổi
lên trên mặt đầm
Nhân có trăng, ông
chài buông câu
Các đảo, núi vây quanh
là nơi dân tạm trú
Chầu về cội, muôn dòng
đều chảy về Đông.
Dịch thơ :
2. Hải Nhi Hà Trung
(Đầm phá Hà Trung)
(thoát dịch)
Hà Trung một dải nước
vây quanh
Nhận hiệu Hải Nhi đã nổi danh
Chứa cá sông đầm thông lạch nhỏ
Thu nguồn thủy sản suốt nguồn xanh
Lùa theo sóng nước xăm sào gậy
Nương với trăng sao thả lưới mành
Đảo nhỏ gần xa dân trú ngụ
Chảy ra Đông hải sóng tròng trành.
Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
Feb-2016
興瓶源 3. Hưng Bình Nguyên
夾岸安良自古名 Giáp ngạn An Lương tự cổ danh
中間吸注此興瓶 Trung gian hấp chú thử Hưng Bình
山容葯慰知源遠 Sơn dung thông uất tri nguyên
viễn
水味甘平見底清 Thủy vị cam bình kiến để thanh
通貨上開交易所 Thông hóa thượng khai giao dịch
sở
利農下築堰梁橫 Lợi nông hà trúc yển lương hoành
人逢治世居棲稳 Nhân phùng trị thế cư thê ổn *
樂事漁樵可讀耕 Lạc sự ngư tiều khả độc canh
Diễn nghĩa:
3. Nguồn Hưng bình
Giáp với bờ là An
Lương tên từ thuở xưa
Ở giữa rót vào sông là
nguồn Hưng Bình
Dáng núi xanh tươi
biết là có nguồn xa
Vị nước ngọt bình
trong veo trông thấy đáy
Lưu thông hàng hóa,
bên trên đã mở trường giao dịch
Phía dưới làm lợi cho
nông nghiệp, đã đắp một đập ngang
Người gặp đời thịnh
trị, nương náu ổn
(Có bản viết: Người và thổ sản nhiều tốt đẹp)
Vui với nghề cá, làm
củi hay đọc sách, cày ruộng.
Dịch thơ :
3. Nguồn Hưng Bình
(thoát dịch)
Giáp với An Lương thế định hình
Sông tuôn dòng chính tận Hưng
Bình
Cây rừng chằng chịt xanh xao lạ
Nước suối ngọt ngào trong trẻo
kinh
Hàng hóa lưu thông thêm thịnh
vượng
Nghề nông trồng trọt được phồn
vinh
Gặp thời thịnh trị thanh bình
sống
Canh đọc ngư tiều chẳng trọng
khinh
Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
Feb-2016
翠雲山寺 4.Thúy Vân
Sơn Tự
山落平砂起翠雲 Sơn lạc bình sa khởi Thúy Vân
珠林簇向夕陽曛 Châu lâm thốc hướng tịch dương huân
修持偈語高低響 Tu trì kệ ngữ cao đê hưởng
般若鐘聲遠近開 Bát nhã chung thanh viễn cận văn
巡幸列朝常駐蹕 Tuần hạnh liệt triều thường trú tất
御題三藏炳碑文 Ngự đề tam tạng bính bi văn
梵門功德知無量 Phạn môn công đức tri vô lượng
衣鉢何籌荅圣君 Y bát hà trù đáp thánh quân
Diễn nghĩa:
4. Chùa
Núi Thúy Vân
Núi kéo ra vùng cát sỏi, nổi lên hòn Thúy Vân
Một cụm rừng ngọc bên ánh nắng chiều
Sư tu trì, tiếng kinh kệ cao thấp vang vọng
Tiếng chuông bát nhã xa gần thoảng nghe
Các triều vua khi đi tuần thường trú chân ở đây
Vua ngự đề kinh kệ còn sáng tỏ nơi văn bia
Công đức cửa Phật biết là vô lượng
Y bát làm sao trù liệu, đền đáp ơn vua.
Dịch thơ :
4. Chùa Núi Thúy Vân
(thoát dịch)
Nổi giữa cát chuồi ngọn Thúy Vân
Rừng châu lấp lánh bóng chiều
dâng
Pháp hoa câu kệ ngân nga vọng
Bát nhã hồi chuông thánh thoát
ngân
Ngài ngự tuần du dùng quán hạc
Vua hài thủ bút tạc bia văn
Đức dày Phật Tổ năng vô lượng
Y bát vua ban xứng bội phần.
Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
Feb-2016
順直官堤 5.Thuận Trực Quan Đê
圣人處事遠大哉 Thánh nhân xử sự viễn đại tai
耳目尋常所難識 Nhĩ mục tầm thường sở nan thức
順势築堤限北南 Thuận thế trúc đê hạn Bắc Nam
橫長一帶如绳直 Hoành trường nhất đái như thằng trực
中間設竇別甘鹹 Trung gian thiết đậu biệt cam hàm
畜泄秋開夏閉塞 Súc tiết thu khai, hạ bế tắc
上游從此利農功 Thượng du tòng thủ lợi nông công
歲屡豐穰人粒食 Tuế lũ đăng nhương nhân lạp thực
眄懷遊豫是年年 Miến hoài du dự thị niên niên
省省耕辰釣弋天 Tỉnh tỉnh canh thời điếu dặc thiên
悠悠兮海汪汪水 Du du hề hải uông uông (thủy)
長使覩河思帝德 Trường sử đỗ hà tư đế đức.
Diễn nghĩa:
5. Đê Công Thuận Trực
Bậc thánh nhân xử sự
có tài lớn và sâu xa thay
Tai mắt tầm thường khó
mà biết được
Thuận theo địa thế,
đắp đê ngăn Nam Bắc
Giăng ngang một dải
như sợi dây thẳng
Ở giữa đặt một cống
ngăn mặn, ngọt
Việc chứa và tháo nước
thì mùa thu mở, mùa hè đóng lại
Trên thượng du của đập
từ đó lợi việc làm nông
Nhiều năm được mùa, đủ
gạo cơm
Nhớ xa trước đã chuẩn
bị hằng năm
Lúc nhân việc cày cấy,
thì thả lưới buông câu
Mênh mông như biển,
nước dạt dào
Mãi khiến cho người
trông thấy phải nghĩ đến công đức của vua.
Dịch thơ :
5. Đê Công Thuận Trực
(thoát dịch)
Thánh nhân xử sự quá
tài ba
Tai mắt tầm thường khó
nhận ra
Nam Bắc đê ngăn theo
địa thế
Giăng ngang một dải
sợi dây sà
Cống chia mặn ngọt đặt
ngay giữa
Chứa tháo hè thu tùy
lượng mưa
Nguồn thượng nông canh
sinh lợi nhuận
Được mùa đủ gạo có dôi
ra
Ôn cố tri tân nên
chuẩn bị
Buông câu, cày cấy
chẳng lơ là
Nước biếc mây xanh
tình gắn bó
Ơn Vua là đấy nghĩ đâu
xa
Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
Feb-2016
靈蔡 6. Linh Thái
天南局量包涵大 Thiên nam cuộc lượng bao hàm đại
人物江山總無外 Nhân vật giang sơn tổng vô ngoại
胡乃靈蔡却朝洋 Hồ nãi Linh Thái khước triều
dương
造没令人所不解 Tạo thiết linh nhân sở bất giải
抑向滄溟愛水潮 Ức hướng thương minh ái thủy triều
抑厭平田出俗態 Ức yếm bình điền xuất tục thái
有灵旨憂此無情 Hữu linh khẳng thọ thử vô tình
南轉峯頭隨虎拜南一作应 Ứng chuyển phong đầu tùy hổ bái (Nam nhất tác ứng)
Diễn nghĩa:
6. Núi Linh Thái
Trời Nam lượng mở bao hàm lớn
Non sông nhân vật thảy không ngoài
Sao có Linh Thái ngăn sóng biển
Dựng đặt khiến người chưa rõ được
Hướng ra bể cả, yêu thủy triều
Dừng chán ruộng bằng, vượt thói tục
Có thiêng thì nhận sự vô tình
Nên chuyển đầu non theo hổ lạy. (Nam đổi là ứng)
Dịch thơ :
6. Núi Linh Thái
(thoát dịch)
Trời Nam lượng chứa
lắm điều hay
Nhân vật non sông tụ
tại đây
Linh Thái xây kìa ngăn
sóng dạt
Thiên cơ dựng đấy tạc lời bày
Hướng ra biển cả chân
triều vỗ
Dừng lại đồng bằng gối
phục xoay
Hiển ứng vô tình sao
để bụng
Đầu non hổ bái nhiệm
mầu thay!
Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
Feb-2016
黑白石 7. Hắc Bạch Thạch
奇爾石奇爾石黑 Kỳ nhĩ thạch kỳ nhĩ thạch hắc
純黑兮黑白純白 Thuần hắc hắc hề, bạch thuần
bạch
天龍全水値双行 Thiên long kim thủy trĩ
song hàn
原是澤山通一脉 Nguyên thị trạch sơn thông
nhất mạch
撞撼風濤永不磨 Chàng hám phong đào vĩnh bất
ma
往來舟揖宜相隔 Vãng lai chu tiếp nghi
tương cách
千秋眼界最分明 Thiên thu nhãn giới tối
phân minh
喚起人間正胸膈 Hoán khởi nhân gian chính
hung cách.
Diễn nghĩa:
7. Đá Đen Đá Trắng
Lạ thay ngươi là đá lạ, ngươi là đá đen
Đen thì thuần đen , trắng thì thuần trắng
Rồng trời và nước kim đứng hai hàng
Vốn là đàm núi thông một mạch
Sóng gió gióng giã mãi chẳng mòn
Ghe thuyền qua lại cần tránh xa
Ngàn năm tầm mắt vẫn rõ ràng
Kêu gọi nhân gian từ trong bụng mình.
Dịch thơ :
7. Đá Đen Đá Trắng
(thoát dịch)
Đá trắng nằm kề cạnh đá đen
Mỗi bề thuần khiết giữ màu tên
Rồng trời nước bạc thông hai cõi
Đàm núi cây xanh suốt một miền
Sóng gió bình thường luôn dạt
tới
Ghe thuyền thận trọng tránh sang
bên
Ngàn năm vẫn rõ trong tầm mắt
Cổ võ nhân gian gắng sống hiền
Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
Feb-2016
福象 8. Phước Tượng
堆山抽出一支龍 Đôi sơn trừu xuất nhất chi long
一頓一起相接續 Nhất đốn nhất khởi tương tiếp tục
橫開驿路势崔嵬 Hoành khai dịch lộ thế tồi ngôi
立望山形如象伏 Lập vọng sơn hình như tượng phục
當年駕幸偶停驂 Đương niên giá hạnh ngẫu đình tham
奉錫嘉名福象岩 Phụng tích gia danh Phước Tượng nham
山溪到此限南北 Sơn khê đáo thử hạn Nam Bắc
富禄七總歸北三 Phú Lộc thất tổng quy bắc tam
馬蹟崩洪復渡海 Mã tích băng hồng phục độ hải
重重營寨起靈蔡 Trùng trùng dinh trại khởi Linh Thái
翠雲山势極巍峩 Thúy Vân sơn thế cực nguy nga
囬顧堆山外朝拜 Hồi cố Đôi Sơn ngoại triều bái
脫胎根骨下平沙 Thoái thai căn cốt hạ bình sa
村落相望千萬家 Thôn lạc tương vọng thiên vạn gia
知止安洋数百里 Tri chỉ an dương sổ bách lý
京城一望大包羅 Kinh thành nhất vọng đại bao la.
Diễn nghĩa:
8. Phước Tượng
Núi Cao Đôi nảy ra một
chi long
Một lặn, một nổi cùng
theo nhau
Giăng ngang đường trạm
dịch thế cao vút
Đứng ngắm dáng núi như
voi phục
Năm ấy ngự giá có dừng
xem
Được ban tên là đá
Phước Tượng
Núi khe đến đây ngăn
Nam Bắc
Bảy tổng Phú Lộc, quy
Bắc ba
Gáy ngựa lỡ to bằng
uống biển
Từng lớp doanh trại
trỗi Linh Thái
Thế núi Thúy Vân khá
cao lớn
Quay nhìn lại núi Cao
Đôi bên ngoài để chầu lạy.
Thoát ra gốc rễ, đi
xuống cát bằng
Thôn xóm liền nhau
ngàn vạn nhà
Biết dừng, yên với
biển mấy trăm dặm
Trông về kinh thành
thấy quá bao la.
Dịch thơ :
8. Phước Tượng
(thoát dịch)
Núi Cao Đôi nảy một chi long
Lặn nổi theo nhau khắn khít lòng
Đường vượt đất cao qua trạm dịch
Dáng nằm voi phục uốn lưng cong
Lần vua ngự giá đển đây xem
Phước Tượng ban tên giáng chỉ
kèm
Khe núi Bắc Nam ngăn giới Tổng
Bảy về Phú Lộc, Bắc ba thêm
Vó ngựa duỗi chân băng xuống
biển
Hành doanh Linh Thái chốn hùng
oai
Thúy Vân thế núi hàng cao lớn
Ngoái cổ Cao Đôi chầu lạy ngoài
Gốc rễ thoát ra xuống cát bằng
Xóm làng liền lạc lối đi băng
Biết dừng với biển hằng trăm dặm
Vọng hướng kinh thành rộng rãi
chăng.
Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
Feb-2016
..................
* Ghi chú:
Dị bản của câu thứ 7 của bài số 3 HƯNG BÌNH NGUYÊN:
一作人生地産多佳致
Nhất tác nhân sinh địa sản đa giai trí
(Người và thổ sản nhiều tốt đẹp)