Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Thursday, October 3, 2024

TỪ ĐIỂN PHƯƠNG NGỮ QUẢNG TRỊ (Kỳ 3/5)- Võ Công Diên biên soạn

 TỪ ĐIỂN PHƯƠNG NGỮ QUẢNG TRỊ

Biên soạn: Võ Công Diên

 

Đi rượng = Chỉ đi chơi hàm ý đi tán gái hoặc đi rong chơi của phụ nữ

Diều = nhiều

Điệng = (đễnh đoảng, chỉ người kém phát triển trí tuệ)

Địt = Trung tiện

Đợ = Dùng tay để đỡ một vật không cho rơi xuống

Dỗ = Nhổ (dỗ cỏ = nhổ cỏ)

Dớ = nhớ (Tui dớ = tôi nhớ)

Dõ = Nhỏ bé (Hắn còn dõ = Hắn còn nhỏ)

Dợ = Tạnh mưa (Trời dợ rồi = trời tạnh mưa rồi)

Dớ dà da diếc = Nhớ nhà da diết

Đỡ đang = (Xấu hổ, mắc cỡ)

Dổ khoai = Thu hoạch khoai lang

Do mi = Tại bạn, tại mầy

Đờ sơ = Chỉ người qua đời khi tuổi còn nhỏ chưa trưởng thành

Đọa qua = Mệt quá

Dọi = Rượt đuổi (Dọi chắc trữa cươi = Đuổi nhau giữa sân)

Đọi = Tô

Dọi chắc = Rượt đuổi nhau

Đôi đất = Liệng đất = Chọi đất.

Dòm = Nhìn (Dòm queng dòm cút = Nhìn ngó lung tung)

Dợn (rợn) = Dễ sợ, làm rùng mình

Đòn bào = Ghế băng dài (Ghế các thợ mộc dùng để bào gỗ)

Đòn triêng = Đòn gánh

Đòn xóc: Đòn gánh vót nhọn 2 đầu để gánh lúa, gánh rơm

Dừng roọng = Bờ đắp phân cách hai thửa ruộng khác nhau

Đợng = Đựng (Đợng trong thúng = Đựng trong cái thúng)

Dọoc = Bực mình, mệt (Doọc bụng = mệt bụng)

Đôộc = Cái lu sàng nhỏ dùng đựng nước tiểu

Dôông = Chồng (Lấy dôông = lấy chồng) (Hai cấy dôông = Hai vợ chồng)

Đôộng = Đồi cao hơn rú nhưng thấp hơn rừng

Độông đôông = Cái cây gổ hoặc tre được gác trên nóc nhà chỗ cao nhất, chính giữa nóc nhà

Dớp dúa = Dơ bẩn

Dư ni tề = Giống vậy nè

Dức = Đau nhức (Dức trôốc = đau đầu)

Dững = Những

Đừng cại = Đừng cãi lại

Đừng trẽn = Đừng mắc cỡ

Đuốc = Ruốc (Mắm đuốc = mắm ruốc)

Đưới = Dưới

Ẽ = Đại tiện (Đi ẽ, đi ỉa)

Ẹ = Dơ, bẩn

Ẽ quẹt = Không thèm nữa, bỏ đi, vất đi...

Êm rứa hi = Yên tâm vậy nha

Eng = Anh

Eng ni = Anh này

Eng tam = Anh em ruột

Gả dôông = Gả chồng

Ga Lăng Cô tề! = Ga Lăng Cô đây rồi!

Ga mô ri eng = Ga nào vậy anh?

Ga ni ga mô ri cô? = Ga này là ga nào vậy cô?

Ga tê, tau đi ga tê = Ga kia, mình đi ga kia.

Giằng giăng giằng gioói = Vất vả, mệt mỏi

Giánh nè = Nhánh tre

Giức = Nhức (Đau nhức)

Hai eng tam hắn đập chắc = Hai anh em ấy đánh nhau

Hai lạo nớ cại chắc = Hai ông kia cãi nhau

Hổ ngai = Hổ ngươi, xấu hổ

Hói = Mương nhỏ dẫn nước ra sông

Hột = Hạt (Cắn hột dưa)

Hộn hào = Hỗn láo

Hun = Hôn (Hun chắc = Hôn nhau)

Hung = Nhiều (Hung ri = nhiều vậy)

Khải trôốc = Gãi đầu

Khi mô mi đi? = Lúc nào mầy đi?

Khõ = Gõ (Khõ cái trôốt bây chừ = Gõ vào đầu )

Khõ = Gõ

Khoai hà = Khoai sâu

Không lưa = Không còn

Khóoc = Khóc

Khôông = Không

Khôông dắc = Không nhắc lại

Khôông đám mô = Không dám đâu

Khôông răng mô = Không sao đâu

Khôông răng mô eng = Không sao đâu anh.

Khu = Đít (Lỗ đít)

khu = Đít, chỉ hậu môn

Khu = Mông (Lộ khu = Thấy mông)

Khu đị = Phần tam giác ở hai đầu hồi của căn nhà

Khun = Khôn (khôn dại)

Ki đực rạ cụ đựng ni trọt chừ lộ mô? = Cái rựa dựng ngoài hiên nhà nằm đâu không thấy? 

Ki = cấy = cái; (Ki = Giọng  người nói chớt, hơi bị ngọng).

Kít = cứt

Lả = Lữa

Là đệng = đãng trí

Là diệng = bị cháy nhà (Từ rất lạ)

Lác lác /lao lác = (Chỉ hành động lời nói không đúng đắn, bậy bạ)

Lại = Lưỡi

Lại lưỡi ròi ruồi = Gảy lưỡi rồi

Lạo = Lão (Lạo ni = Lão ấy)

Lện = Sợ

Lèng = Lành (Lành bệnh rồi)

Liệng = Ném (Gần nghĩa chọi hoặc quăng ra xa ở trên)

Liệng cho tui cấy rựa = Ném cho tôi cây rựa

Lộ = Chỗ (Chỉ vị trí: Lộ ni = Chỗ này)

Lộ = Lỗ (Lộ mẹng= lỗ miệng)

Ló = Lú (Trăng non vừa lú, vừa nhú)

Ló = Lúa (Hột ló = Hạt lúa)

Lộ = Thấy (Lộ hàng, bị lộ)

Lộ chao cẳng = Vũng nước để rửa chân

Lộ chao cẳng mô ri O? = Cái hố nước để rửa chân đâu cô?

Lọ mọ = Lần mò

Lộ mội = Lỗ nước bị rò rỉ ở bờ đê

Lọ nghẹ = Lọ nồi

Lộ mội = Lỗ nước chảy bị rò rỉ

Lộ tún = Lỗ rốn , rún

Lộ= Chỗ

Lõa trôốt = Bể đầu

READ MORE - TỪ ĐIỂN PHƯƠNG NGỮ QUẢNG TRỊ (Kỳ 3/5)- Võ Công Diên biên soạn

Chùm ảnh HOA SEN MINI TAIWAN - Chu Vương Miện





 

READ MORE - Chùm ảnh HOA SEN MINI TAIWAN - Chu Vương Miện

MÙA THU HƯƠNG PHẤN – Thơ Khê Kinh Kha


 

 
MÙA THU HƯƠNG PHẤN
(Cho DP)
 
trong mắt em mùa thu vừa đến vội
gió lạnh đầy trong nỗi nhớ chơi vơi
anh chợt biết vì sao thu yếu đuối
bởi vì em gửi nhớ đến bên tôi
 
này em hỡi thu này mình xa cách
nên lá vàng rưng rức theo gió lay
nên chiều nay mình anh ôm lá khóc
mà ngỡ hồn mình trên cánh lá bay
 
anh sẽ mượn con gió trên cành lá
và cánh chim lãng đãng giữa chiều tà
để anh gửi về em nụ hôn ấm
ấm trong mặn mà- ấm trong tình ta
 
anh sẽ góp ánh trăng vào ước vọng
và giọt sương long lanh như mắt em
đề ấp ủ trong tháng ngày xa vắng
cho tình mình dịu ngọt đến dễ thương
 
anh sẽ nhặt nắng hồng rơi trên lá
và nhẹ hôn để nhớ môi em nồng
anh sẽ kết mây trời thành tóc xõa
anh sẽ ôm – tựa má vào mây mềm
và sẽ thở vào mây lời yêu mến
 
anh sẽ hái vạn ngàn cánh sao băng
và sẽ nguyện xin Chúa tình em ngoan
để mùa thu trong anh đầy hương phấn
hương phấn tình mình – hương phấn yêu đương
 
khê kinh kha

READ MORE - MÙA THU HƯƠNG PHẤN – Thơ Khê Kinh Kha

KÝ ỨC THÁNG MƯỜI, ẤN TÍCH THĂNG LONG – Thơ Ái Nhân





KÝ ỨC THÁNG MƯỜI
 
Hà nội bầu trời mùa thu năm ấy
Ngăn ngắt xanh trong như mắt em cười
Thỏa nỗi khát khao bao ngày mong đợi
Ấm áp tin yêu rạng rỡ lòng người
 
Hà nội rợp trời cờ hoa lộng lẫy
Rầm rập người đi như sóng Sông Hồng
Thề với non sông* đoàn quân trở lại
Giải phóng Thủ đô. Hùng khí Tiên Rồng
 
Hà nội qua chín mùa đông tê tái
Cúc vàng hoe long lanh mắt đợi chờ
Những thiếu nữ áo dài khăn voan trắng
Miệng nở hoa trong nắng đỏ sắc cờ
 
Hà nội rợp trời vàng sao rực rỡ
Người nắm tay người thật ngỡ như mơ
Mắt mẹ già vơi nhớ thương se sắt
Vòng tay ân tình ôm chặt ước mơ
 
Hà nội tháng mười xôn xao ký ức
Đất nước tưng bừng nô nức nắng hoa
Đỏ tươi khăn quàng hân hoan đến lớp
Rạo rực lòng người chung bước “Tiến quân ca”
 
* Lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”
 
 
ẤN TÍCH THĂNG LONG
 
Đường Lâm đó Xứ Đoài mây trắng
Mắt Sơn Tây thăm thẳm nỗi niềm
Hồn kẻ sĩ “Tả thanh thiên” khí tiết
Đào nhật Tân thắm đỏ tết muôn miền
 
Thu lồng lộng sắc trời xanh thăm thẳm
Ngào ngạt hương thơm cốm nếp làng Vòng
Ngô lúa mọc bời bời trên đồng bãi
Lộc phù sa nhuộm đỏ nước sông Hồng
 
Chuyện thuở trước trời xe duyên chồng vợ
Bến Tự Nhiên mối tình đẹp muôn đời
Chử Đồng Tử, Tiên Dung vừa gặp mặt
Đã yêu nhau muôn kiếp chẳng đổi dời
 
Ngàn năm trước chiếu dời đô hào sảng
Chọn đất linh Lý Thái Tổ xây thành
“Thiên lý nhãn” ngàn năm còn mãi sáng
Hổ phục, rồng chầu vóc dáng Thăng Long
 
Thành Hà Nội đã bao phen khói lửa
Nguyễn Trãi làm thơ gọi giặc ra hàng
Đuổi Thoát Hoan những chiến binh “Sát thát”
Hỏa hổ Ngọc hồi xác giặc chất Đống Đa
 
Trong hoạn nạn tỏ rõ lòng trung nghĩa
Tướng mất thành tuẫn tiết tự moi gan
Thề quyết tử cho trường sinh Tổ Quốc
Bom ba càng xung trận “Cảm tử quân”
 
Thu độc lập Tuyên ngôn còn vọng mãi
Ánh vàng sao lồng lộng bóng Bác cười
Khai sinh nước Việt Nam dân chủ
Độc lập – tự do - hạnh phúc muôn đời
 
Trời Hà Nội tháng mười trong xanh lắm
Năm cửa ô rực rỡ đỏ cờ hoa
Rầm rập quân reo, sóng người lớp lớp
Non nước tưng bừng chung khúc khải hoàn ca
 
Đêm tháng chạp đạn ken thành lưới thép
“Pháo đài bay”, “Thần sấm” cháy ra ma
Lũ cướp nước đến đây đều khiếp sợ
Giặc tan rồi, Vua mở hội… trả gươm
 
Đêm trăng sáng Hồ Tây sen ngào ngạt
Hồn thi nhân du dương khúc tâm tình
“Dân là gốc”, thành công vì đoàn kết
Trọng “Hiền tài nguyên khí quốc gia” vinh
 
Dân tộc mình kiên trung anh dũng
Thành phố vì hòa bình, thanh lịch hào hoa
Thủ đô đấy trái tim Tổ Quốc
Hương Tháng mười - Hồn Lạc Việt bay xa
 
 
KHÁT VỌNG  DOANH NHÂN
 
Làm ra khoai lúa
nông dân tảo tần
ngóng mưa
trông nắng
khi hạn cháy đồng
lúc mênh mông nước trắng
bội thu vui hơn “địa chủ được mùa”
 
Doanh nhân ngỡ “sướng như vua”
mà nhọc lòng trăn trở
lo lắng, chi thu, tìm tòi, học hỏi
vượt núi, ngược sông, mở lối, khơi nguồn
 
Chấp nhận rủi may
đổi thay thời cuộc
mang gia tài đặt cược
đối mặt
cạnh tranh
thương thảo
giành giữ thị trường
những mong lời lãi
 
Xe đẹp, nhà cao, xênh xang thừa thãi
mấy ai biết mình lao tâm khốn khó
lên bổng, xuống trầm, đôi khi nhăn nhó
ý chí kiên cường, tính toán, lo toan
khao khát tương lai dân nước mạnh giàu
 
 
ĐỜI DOANH NHÂN
 
Có đôi lúc khó khăn buồn se sắt
Mồ hôi hòa nước mắt ướt đầm vai
Mì tôm tạm, vội đi tìm đối tác
Canh cánh đêm dài, dậy trước ban mai
 
Niềm khát vọng đâu chỉ vì cơm áo
Khát khao mơ dân nước sánh bằng người
Khó khăn đấy vẫn nở cười rạng rỡ
Vét túi chơi sang, gặp gỡ, chào mời…
 
Xe hơi đẹp, nhà cao, hàng hiệu mới
Người đời trông mà chộn rộn ước mơ
Đêm lặng lẽ còn thẫn thờ trằn trọc
Mấy khi ngồi rảnh rỗi đọc bài thơ
 
Có những lúc lòng bộn bề trăn trở
Thiếu vốn làm ăn cầm cố gia tài
Khi dịch bệnh, lúc thiên tai bão lũ
Doanh nhân đi đầu góp của ghé vai
 
Nuôi chí lớn không nề hà ngần ngại
Khát vọng vươn lên ham muốn làm giàu
Vì cuộc sống của bao người lao động
Vượt mọi gian nan, bền bỉ, ngẩng đầu
 
Mắt luôn ngước nhìn về sao Bắc đẩu
Giữa biển mênh mang chẳng sợ lạc đường
Giữ uy tín vàng mười hàng chất lượng
Thuận đạo đời làm giàu đẹp quê hương
 
Ái Nhân

READ MORE - KÝ ỨC THÁNG MƯỜI, ẤN TÍCH THĂNG LONG – Thơ Ái Nhân

Truyện ngắn THẦY DÀI - Vũ Hùng

 

Tác giả Vũ Hùng

Truyện ngắn

THẦY DÀI

 

Cu Anh Dài là họ tên đầy đủ của một cựu đồng nghiệp cao niên của tui. Thấy tui có vẻ thắc mắc về cái tên kỳ lạ có một không hai này, Thầy Dài chậm rãi giải thích là do gã Đả Tự viên* ủy ban hành chánh xã Long Sơn từ thời đệ nhất Việt Nam cộng hòa  đánh máy sớn sác thế nào mà trong giấy khai sanh thiếu dấu nên có cái tên như vậy đó. Chứ trước khi đi tập kết ra Bắc cha Thầy dặn vợ rằng:

-Tui là Cù Hồng Chương còn thằng con khai là Cù Anh Đài nghen bà?

Rồi cái tên Cu Anh Dài nghe gọi mãi lâu ngày cũng thành quen tai và hay ho như bao tên khác.

Nghe đồn Thầy Dài học giỏi nhất làng, nhất xã. Đỗ Tú Tài toàn phần Hạng Bình Thứ. Và sau đó là giáo sư Việt Văn đệ nhất cấp trước 1975.

Thầy Dài đào hoa lắm. Đàn bà, con gái mê nườm nượp đếm không xuể.  Có điều lạ làThầy không hề điển trai thậm chí là dị tướng cũng không ngoa chút nào. Thầy cao vút, lêu nghêu với đôi mắt ti hí và hàm răng vẩu vàng ố khói thuốc lá. Ngo ngoe mấy sợi râu cố bám trên đôi môi mỏng dính thâm sì. Nước da mai mái như sốt rét rừng lâu năm.

Là con trai một nên Thầy Dài lấy vợ khá sớm khi đang học lớp đệ lục. Nhưng ở bên ngoài vẫn hú hí với ba, bốn cô bồ nhiều hơn Thầy mấy tuổi.

Nghe đồn hồi Quốc gia Thầy Dài dạy học ở Pờ Lay Kiu, cứ mỗi tuần là có một cô khá đẹp chẳng rõ quê ở đâu đến để giặt giũ, nấu nướng cho Thầy.

Sau giải phóng Thầy Dài về dạy ở quê. Nhưng bị kỷ luật thường xuyên và bị đẩy đi nhiều trường xa xôi vì liên tục vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng.

Ngày về trường tui, cũng là lần đầu tiên tui gặp, Thầy có vẻ khúm núm, sợ sệt. Sau khi đọc nhẩm quyết định ông Hiệu trưởng Năm cười nói:

- Nghe tiếng Thầy Dài đã lâu nay... hừm... chẳng biết thế nào...

Vừa lúc đó cô giáo Thư đẹp nhất trường, với chiếc áo dài tím tha thướt đi qua hành lang, Thầy Dài liếc ngang.

- Chị tui đó - Hiệu trưởng Năm nói - ông có giỏi thì tán xem, hi....hi..

Thầy Dài lí nhí:

- Thầy cứ giỡn, tui đâu dám!

Đầu tuần sau, như thường lệ Ban Giám hiệu đến trường rất sớm để chuẩn bị chào cờ. Vào văn phòng chưa kịp ngồi xuống ghế  thì Thầy Năm đã thấy Thầy Dài bước vô.

- Đến trường  sớm vậy Thầy Dài? Mời uống nước!

- Dạ, thưa Thầy... thưa Cậu Năm... tui, tui..

Tự dưng Thầy Năm thấy choáng váng, chân tay bủn rủn, mồ hôi vã ra như tắm...

Ngay ngày hôm sau, Thầy Dài bị đẩy đi một trường xa nhất huyện Trường Long Thành.

Và Thầy tiếp tục bị kỷ luật rồi cho thôi việc hẳn!

...Năm ngoái Thầy Dài bị nhồi máu cơ tim và qua đời.

Đám tang to chưa từng có.

Khách viếng cũng lắm. Người tò mò xem cũng nhiều!

Nghe đâu ba chiếc máy khâu điện hẳn hoi với những tay thợ chiến, may ròng rã suốt mấy ngày đêm vẫn không kịp đủ áo quần, khăn tang cho anh em bà con nội ngoại, cùng bốn chục bà vợ chứ không phải là mười lăm bà như người ta hay kháo ở chợ Chàm và non trăm đứa con cháu của Thầy Dài từ khắp nơi kéo về!

Tiếng trống, tiếng kèn xen lẫn tiếng khóc lóc, kể lể, than van dậy cả một góc làng.

Đứt cả ruột gan!

VŨ HÙNG

 

* Nhân viên đánh máy.

READ MORE - Truyện ngắn THẦY DÀI - Vũ Hùng

TRANG THƠ VỀ NGƯỜI LÍNH (Kỳ 1) - Tác gỉả: Nguyễn Văn Trình

 


Tác giả: Nguyễn Văn Trình

Hai người lính già               

 

Hai người lính, một thời chiến hào

hôm nay gặp lại lòng nao nao

buồn, vui bục giảng ngày vào lớp

nghĩ chuyện năm xưa thấy tự hào

 

Hơn bốn mươi năm nay gặp mặt

cả hai còn khỏe, còn rắn chắc

như ngày xưa cái thời đánh giặc

biên giới xa, núi non giăng mắc

 

Đường hành quân thêm phần gian khổ

hiểm nguy rập rình, như thách đố

vẫn yên lòng bền gan chiến đấu

mong một ngày bình yên bến đổ

 

Cuối cuộc vui, vẫn còn lưu luyến

thân thiết như xưa, thời lính chiến

hai người lính già ôm nhau khóc

nhớ một thời, rưng rưng xao xuyến

 

                            Đông Hà, 8/2024

                                     NVT

 

Đời người lính

         Nguyễn Văn Trình

 

Đời người lính, dầm mưa dãi nắng

nghiệp quân hành chiến đấu thêm hăng

cho biên cương, đất nước thanh bình

cho biển đảo xanh màu, trải nắng

 

Đời người lính, nắm chắc tay súng

trước quân thù chẳng hề nao núng

tay xiết cò diệt lũ xâm lăng

cho Tổ quốc không còn tiếng súng

 

Đời người lính, quân lệnh như sơn

dẫu khó khăn, gian khổ chẳng sờn

xây giấc mộng chuyện tình đôi lứa

lửa tình em, thôi hết dỗi hờn

 

Đời người lính, chẳng tươi giấc mộng

nhưng tình anh bao la biển rộng

dẫu đôi ta, còn phải cách xa

nhưng tình này, vẫn chung lối mộng

 

                       Đông Hà, 8/2024

                                 NVT



Lính đảo

      Nguyễn Văn Trình

 

Lính đảo, tay súng hiên ngang

sóng dập, gió lay chẳng nản

gian nan vất vã đã từng

thế trận vững vàng giăng lưới

 

Lính đảo, nụ cười hiền hậu

cùng dân bầu bạn biển khơi

đảo xa rạng ngời sức sống

biển trời lồng lộng bình yên

 

Lính đảo, canh trời giữ biển

Tổ quốc đất mẹ dịu hiền

đảo nổi, đảo chìm tiền tuyến

kiên trung giữ vững chủ quyền

 

Lính đảo, nguyện làm con sóng

cho những đoàn tàu biển rộng

ngày đêm ra khơi, vào lộng

cho biển trời thôi bão giông

 

                      Đông Hà, 8/2024

                               NVT

 

TRẠI SÁNG TÁC VHNT CHỦ ĐỀ:

“NGƯỜI LÍNH VỚI SỰ NGHIỆP  BẢO VỆ TỔ QUỐC VÀ QUÊ HƯƠNG QUẢNG TRỊ” 

NĂM 2024

TÁC GIẢ: NGUYỄN VĂN TRÌNH

HỘI VHNT TỈNH QUẢNG TRỊ

Email: nguyenvantrinh58@gmail.com

READ MORE - TRANG THƠ VỀ NGƯỜI LÍNH (Kỳ 1) - Tác gỉả: Nguyễn Văn Trình