Nữ sĩ Tương phố tên
thật là Đỗ Thị Đàm, con gái của một nhà nho
nghèo, quê quán tại làng Bối Khê, huyện Khoái Châu,
tỉnh Hưng Yên, là con dâu của tỉnh Quảng Trị. Lúc nhỏ
bà học ở trường tỉnh nhà, sau đó bà lên học trường
Sư phạm nữ ở Hà nội. Hồi đó bà gặp anh chàng sinh
viên Trường Y Hà Nội là Thái Văn Du người làng Quy
Thiện, huyện Hại Lăng, tỉnh Quảng Trị. Ông Du là em
ruột ông Thái Văn Toản- Thượng thư bộ Lại triều
Nguyễn (cuối thời Khải Định và đầu thời Bảo Đại).
Đỗ Thi Đàm và Thái Văn Du rất
tâm đắc với nhau về văn thơ nên đã thương yêu nhau và
trở thành vợ chồng. Tuy bà chỉ là vai trò người vợ
hai thôi nhưng đôi vợ chồng sống rất hạnh phúc “Tâm
đầu ý hợp” vô cùng. Nhưng tiếc thay duyên phận của
bà quá ngắn ngủi! Tổ ấm gia đình của bà mới xây
nên thì phải chịu cảnh mất chồng bị góa bụa lúc còn
xuân xanh 25 tuổi đời.
Bài thơ “Khóc chồng” của
bà là những tiếng lòng than vãn đau thương
làm xúc động bao người lúc bấy giờ và cả đến
sau này.
Ngoảnh lại trời Nam lệ
chứa chan
Lửa hương thôi đã lỗi
muôn vàn
Thương chàng lỡ vỡ đường
danh vong
Tủi thiếp bơ vơ
lỗi đoạn tràng
Chiếc bách dòng sâu e sóng cả
Nửa chăn bụi lấp lửa canh tàn
Từ đây non nước người xa
vắng
Chi xiết lòng em nỗi dở
dang…
Nỗi buồn cô đơn của bà
đã kéo dài qua năm tháng trong cảnh mẹ góa, con côi. Thời
gian ấy bà Đàm đã sáng tác nhiều bài thơ hay và một
số chuyện ngắn khá ấn tượng. Không ít tác phẩm của
bà đã được xuất bản trên các báo chí trong nước.
Đặc biệt có tác phẩm”GIỌT LỆ THU” của bà (được
đăng trong tạp chí Nam Phong số 131 tháng 7, năm 1928) đã
làm rung động hàng vạn trái tim thanh niên Việt Nam lúc
bấy giờ và bà đã trở thành Nữ sĩ Tương Phố có
tiếng tăm trong ngành văn chương Việt Nam.
Có thể nói rằng “Giọt
lệ thu” như mạch nước ngầm tuôn trào dòng lệ từ
tình yêu thương, chung thủy vợ chồng đã bị mất mát
bất ngờ. Tác phẩm này của bà đã làm xúc động nhiều
giai tầng trong xã hội bấy giờ. Riêng ở tỉnh Quảng
Trị tôi đã biết có nhiều người đã nhớ và thuộc
lòng từng đoạn của bài ấy như các cụ: Văn Dung, Trần
Khanh, Văn Tùy, Trần Kim Hồ (ở làng Long Hưng); cụ Phan
Giá, Lê Công Tôn (làng Thượng Xá); cụ Nguyễn Bân,
Nguyễn Kiểm (làng Phú Long); cụ Lương An (làng Tài Lương)
v.v…
“Giọt lệ thu” đã gieo vào
lòng người một tình cảm sâu đậm, một sự xót xa da
diết trong tâm hồn… Nó có một cài gì đó vừa chân
thực, vừa tâm linh huyền ảo; vừa gần gũi lại vừa xa
xôi; vừa tủi thân lại vừa trách phận vô bờ.
“Bao giờ quên được mối tình
xưa
Sinh tử còn đâu mãi tới
giờ!
Giấc mọng tìm đâu tìm
chẳng thấy?
Mênh mông biển hận, hận không
bờ!...”
Có đoạn bà tự sự một
cách xót xa, đau buồn rồi mượn cảnh đất trời,
trăng gió để chia sẻ tâm tình:
“Duyên chẳng hẹn Em nghĩ trăm
năm, tình còn ghi muôn kiếp. Anh chàng Thái văn Du mất ở
Huế ngày 25 tháng 7 năm Canh Thân(1920). Đôi lứa trẻ
trung kẻ Nam người Bắc. Khi sống đã xa nhau, lúc mất
không gặp mặt. Lòng em thương xót bao giờ cho nguôi!”
“Trời thu ảm đạm một màu
Gió thu hiu hắt thêm rầu
lòng em
Trăng thu bóng ngả bên thềm
Tình thu ai để duyên em bẽ bàng?”
Ta thấy trong “Giọt lệ thu”
tiếng khóc than của bà râm rỉ đau thương quằn quại
như người ngây dại mất hồn, cứ nhớ gì nói nấy,
nghĩ gì thì tuôn ra cho thỏa lòng thương nhớ. Giọng văn
và lời thơ cứ đan xen nhau, hòa quyện với nhau hiện ra
như dòng lệ ứa tràn từ đôi mắt…
“Trời ơi! Ba sinh hương lửa đã
có duyên kiếp ái ân bạn đời. Vì đâu chẳng để
trăm năm nữa, cũng cho xuân thu đắp đổi độ vài mươi
năm cho cam lòng trẻ thời khăn túi. Nỡ nào chắt chiu em
mới một xuân quân đã đem sinh ly tử biệt, chia phôi
bước đường..."
Tuy trong lòng bà buồn rầu
vì cảnh cô đơn sớm mất chồng nhưng bà không
ngã gục trước hoàn cảnh khó khăn con thơ, sức mình
yếu, bà cố bình tâm nhìn cảnh vật thiên nhiên mùa thu
để liên hệ tâm sự lòng mình cho khuây khỏa nỗi đau
thương:
“Anh ơi! Chung cảnh thu này, Đông
Tây Nam Bắc biết bao người cảm thu nhưng long ai thu hẳn
như em, mà mây chiều vấn dạ, gió mai lạnh lùng… Một
lần lá rụng, một mảnh tình sầu; thu càng thảm, sầu
càng tăng…
“Anh ơi! Em nghĩ đến về
với anh mùa thu; mất anh cũng lại mùa thu. Cho nên
năm lại năm, cứ độ thu sang, em lại bồi hồi nhớ
trước tưởng xưa mà thu một tâm ngây ngất sầu….
“Anh ơi! Thu về như gợi
mối thương tâm. Mỗi độ thu sang em lại vò lòng than
khóc. Nghĩ năm có một lần thu, nhưng thu năm nay đi, năm
sau còn trở lại. Hỏi ba sinh hương lửa, thời ái ân kia
dễ mấy kiếp hẹn hò nhau? Chẳng hay cơ trời dâu bể vì
đâu, xui nên chăn gối vừa êm, lửa hương mới bén…
bỗng ai xô lộn tình tan, gương vỡ cho người lỡ duyên!”
“…Anh ơi! Giọt lệ khóc thu,
em chỉ vì anh mà năm năm lai láng… Than ôi!, thu sang thu
não lòng người biết bao!”
Sầu thu nặng, lệ thu đầy
Vi lau san sát, hơi may lạnh lùng
Ngổn ngang trăm mối bên lòng
Ai đem thu cảnh, họa cùng thu
tâm!...”
Có những đoạn bà tâm
sự nỗi lòng mình như đang thì thầm nói với chồng bên
bàn thờ trong đêm vắng nghe thật cảm động:
“Anh ơi! Hờn xuân em lại hận
trời. Trời đa đoan phủ phàng con trẻ. Nơi dở dang này
em biết than thở với ai đây? Theo duyên những ước duyên
may, em có ngờ đâu giữa đường đứt gánh chung
tình. Anh đi để lại cho em những ngày mưa sầu gió thảm.
Con anh măng sữa, em còn ngây thơ. Cuộc đời trăm đắng,
ngàn cay. Trông vào ai? Cậy vào ai?...”
Có thể nói rằng trong
tất cả những tác phẩm của bà Tương
Phố thì “Giọt lệ thu” là nổi tiếng vang xa
và thấm sâu lâu dài nhất trong lòng bạn đọc qua nhiều
thế hệ, nhiều giai tầng trong xã hội. Mặc dù tác phẩm
“Giọt lệ thu” không nổi bật gì lắm về lịch sử
văn hóa nhưng nó có một giá trị về xã hội nhân văn
rất ấn tượng và được nhiều người yêu quý vì họ
tìm thấy sự đồng cảm của tâm hồn, tình nghĩa của
con người nói chung và người phụ nữ Việt Nam nói
riêng.
Xin trích một đoạn trong
cuốn “Từ điển văn học” (T2 NXB, KHXH,
1984, tg491) về nhận xét đánh giá chung văn thơ của
nữ sĩ Tương Phố mà tiêu biểu là “Giọt lệ thu” như
sau:
“Tương Phố đã góp vào bộ
phân văn chương hợp pháp 30 năm đầu Thế kỷ XX một
tiếng khóc ảo não. Ít nhiều bà có làm sống lại tâm
trạng người chinh phụ trong văn học quá khứ…. Nhưng
nỗi đau xót bất hạnh của bà có nhiều sầu thảm, vô
vọng hơn, cũng nhuốm màu sắc hiện đại hơn, vì trong
đó không chỉ có nỗi đau riêng mình mà còn gói cả
“Trời sầu” của thế hệ thanh niên tiểu tư sản
thành thị Việt Nam trong những năm sau Đại chiến I…”
Ghi chú: Hiện nay trên đồi Tương
Sơn ở Đà Lạt có nhà lưu niệm nữ sĩ Tương Phố -Đỗ
thị Đàm. Trên tấm bia lăng mộ bà có ghi năm sinh – năm
mất là (1900-1973). Sau năm 1954, bà cùng con trai là Thái
Văn Châu vào sống ở Nha Trang, sau đó lên Đà Lạt. Ông
Châu là GS. Thủy lâm của Đại học Đà Lạt. Ông Thái
Văn Châu có 10 người con (7 trai 3 gái). Người con trai đầu
là Thái Văn Đăng là liệt sĩ CM, người con trai út là
Thái Trường Chinh có gia đình riêng ở Đà Lạt, còn
những người con khác đang sinh sống ở nước ngoài.