Tác giả Nguyễn Đức Tùng |
VNQT
xin giới thiệu tuỳ bút CÁI HỘP GIẤY
mà anh vừa mới gửi qua email.
La Thụy
Vừa
lái xe ra khỏi siêu thị đông đúc ồn ào chiều cuối tuần, hai ngày trước lễ Giáng
sinh, đang lúng túng, tôi giật mình nghe tiếng kêu của một gã lái xe chạy vụt
qua. Không hiểu hắn ta nói gì, đoán là tiếng chửi thề của bọn thanh niên nóng
tính. Trời cuối năm lạnh căm căm, mọi vật sáng lên một lúc như vẫn thường thấy
khi bắt đầu đổ tuyết, sáu tháng sau khi tôi lấy bằng lái xe, một năm sau ngày đến
Canada. Chạy thêm một quãng, lần này một chiếc xe khác ghé sát vào, chậm lại,
cô gái ngồi ghế trước bên phải quay hẳn kính xuống, la: Cái hộp! Cái hộp của
mày trên trần! Tóc cô quấn cao, môi son đỏ mọng.
Tôi
giật mình tạt vào lề. Quả nhiên một cái hộp giấy vẫn còn nằm yên trên trần xe.
Đó
là cái hộp không.
Hồi
ấy bà con thường dùng những hộp giấy cứng để đóng thùng gửi quà về Việt Nam. Những
người muốn giúp đỡ gia đình hay gặp rắc rối trong việc gửi tiền mặt, phần vì hệ
thống chuyển tiền chưa thuận tiện như bây giờ, phần vì sự phản đối trong dư luận.
Cách tốt nhất là gởi thuốc Tây, lý do nhân đạo, vẫn dễ hơn. Ngày nghỉ cuối tuần,
thay vì đi câu cá hay đi nhảy đầm với bạn bè, uống bia trong các pub house, tôi
cặm cụi vào hiệu thuốc tìm mua đủ loại, nhét đầy hộp. Đối với kháng sinh và thuốc
đặc biệt, tôi phải đến bác sĩ để xin toa vì không thể mua ngoài thị trường. Những
thứ khác, nhất là dầu khuynh diệp xanh lá cây hiệu con Ó, thơm nồng, cay mắt,
tôi mua tự do. Cứ mười ve dầu đóng gói trong một hộp lớn, cũng màu xanh. Tôi
mua sẵn để dành, gởi lần hồi. Người nhà tôi bị bệnh gì mà phải dùng đến kháng
sinh, thuốc hồi dương, steroids, thuốc nấm móng tay, trị lao phổi, chống ung thư
nhiều thế?
Họ
chẳng có bệnh gì cả. Mà nếu bệnh, họ cũng chỉ uống thuốc rễ cây, uống nước rau
má, xông hơi lá chanh lá sả ngoài hè, chứ chẳng hề dám nghĩ tới thuốc Tây sang
trọng. Đến tay người nhận, chỉ vài ngày sau thùng thuốc đã nằm ngoài chợ trời.
Ôi chợ trời. Tôi đã đi qua Hàm Nghi, dọc đường Nguyễn Huệ, Lê Thánh Tôn, Gia
Long, chợ Cồn Đà Nẵng, Hố Nai, Tây Lộc Huế, Đông Hà. Ở đâu chợ Trời cũng nhộn
nhạo, vui vẻ, nhớp nháp, vừa héo vừa tươi. Ngươi đã nuôi sống bao nhiêu người
khốn khó, cưu mang nhiều kiếp lạc loài. Bao người lương thiện nhờ ngươi mà sống
sót, bao kẻ lưu manh nhờ ngươi mà thành quý tộc.
Xếp
hàng bưu điện cuối năm đông người, vật lộn với những thùng giấy, những sợi dây
bện, những cuộn băng keo đến toát mồ hôi, luống cuống cân đo, bị cô nhân viên mặt
đầy mụn trứng cá khó đăm đăm trả đi trả lại vì ghi sai địa chỉ, trả tiền lệ
phí, ra khỏi bưu điện trong siêu thị tôi thở phào mừng quýnh. Nghĩ đến những người
thân bên kia biển Thái Bình sắp nhận thùng quà của mình, tôi vui quá nên quên
trước quên sau. Nghĩ đến quang cảnh tòa nhà Bưu điện Sài gòn sơn xanh cũ kĩ nhưng
uy nghi, duyên dáng, với đàn chim bồ cây trắng bay lượn mỗi chiều khi mưa vừa tạnh.
Mặt bàn cà phê nhỏ xinh có mùi hành tỏi, mùi tương ớt của tô bún ốc ai vừa bưng
đi. Nhớ người thiếu nữ sinh viên sư phạm mái tóc đen tuyền thả ngang vai, nhà ở
gần đường Lạc Long Quân, chiều chiều đạp xe dưới hàng cây sầu đông qua trường
đua Phú Thọ, về quận mười một, sắp nhận được cục xà phòng Camay thơm thơm, gói
thật kỹ, nhét trong hộp thuốc tây, tôi sướng rơn người, tay run lên.
Rồi
lan man nghĩ đến bức thư nhận được tháng trước của đứa cháu gái, con đầu lòng của
ông anh họ đi tập kết. Hai vợ chồng anh tôi có bốn đứa con nhỏ, nó là đứa lớn
nhất, mười ba tuổi, đứa em nhỏ mới sinh. Thư kể: bốn tháng nay nhà cháu không
có cái ăn. Em bé mới sinh, mẹ khắt sữa không có gì bú, tối nào cũng khóc đến kiệt
sức, cháu dỗ mãi mà nó không nín. Con bé đi học về liền ném cặp sách, xắn quần
lội ruộng, mò cua bắt óc, nhưng trời nắng hạn, bùn khô quánh lại, có gì ăn được
thì thiên hạ đã bắt hết. Anh tôi hình như là trưởng phòng công nghiệp huyện.
Anh than: sắp sụp đổ rồi em ơi. Đó là những năm tám mươi. Đọc thư, tôi thương
các cháu quá.
Và
nghĩ đến mẹ tôi ở Nhan biều, chiều chiều ngồi dưới gốc cau già bên hiên duy nhất
còn sót lại sau chiến tranh, giữa giàn lá trầu cả gió rụng sớm, đổ vàng. Tôi lấy
cái hộp giấy nhân tiện ném vào băng ghế sau rồi tàn tàn lái đi tiếp. Đang mở
cassete trên xe nghe tiếng hát Hương Lan Còn Thương Rau Đắng Mọc Sau Hè, sau một
khúc quanh, lại nghe tiếng một người lái xe hét lớn: Cuộn băng! Cuộn băng keo của
mày! Tôi hấp tấp dừng xe lần nữa, bước xuống coi đi coi lại, thì ra sau khi lấy
cái hộp trên trần tôi vẫn còn sơ ý để quên cuộn băng keo lớn, khá nặng, ở trên
mui phía sau. Cuộn băng keo màu xám, trong vắt, nằm ở đó lửng lơ nhưng không rớt
dù xe đã chạy cả giờ đồng hồ, như một người hành khách lên trễ xe đò sợ bị đuổi
xuống liền cố sức bám chặt vào mặt thép trơn, lạnh.
Thỉnh
thoảng trên đường ta nghe một người lái xe hét lớn: Nắp xăng! Nắp bật ra! Dành
cho một người lái xe có chuyện vội vàng quên đóng nắp xăng, mùi xăng bốc ra nửa
thơm nửa gắt ngạt mũi. Và khi chiều về, mặt trời tắt sau núi, bỗng nghe một người
lái xe khác chạy vút qua vui vẻ kêu lên: Ly cà phê! Ly cà phê trên trần! Có thể
đoán kẻ lái xe là một người đãng trí, bị bệnh mất ngủ, thường uống cà phê, vì
cái ly còn nóng. Hoặc lúc ấy hắn ta đang thất tình? Hay đang bâng khuâng nhớ
nhà, nhớ nước, tưởng tượng đạp xe qua thong thả dưới hàng cây sầu đông hoa nhỏ
tím một người muôn năm cũ, mái tóc ngang vai thơm xà phòng Camay, hay cánh tay
để trần thoảng mùi dầu khuynh diệp?
Nguyễn
Đức Tùng
bachnguyen@shaw.ca
bachnguyen@shaw.ca