Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Thursday, January 30, 2014

CHUYỆN CON NGỰA CỦA ANH KIỀN - Nguyễn Hồng Trân




Tại làng Thượng Xá thuộc xã Hải Quang (nay là Hải Thượng), huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị ngày xưa có anh Phan Kiền làm liên lạc cho Ủy ban huyện sau ngày cách mạng tháng Tám năm 1945. Công việc của anh phải đi lại nhiều. Thỉnh thoảng có công văn “khẩn”, anh ấy phải chạy bộ nhanh cho kịp. Thấy anh vất vả với công việc, UB đã tậu cho anh một con ngựa để đi lại thuận tiện. Vì hồi ấy rất hiếm xe đạp nên anh phải quen dần với chuyện cỡi ngựa đi thực hiện nhiệm vụ liên lạc.

 Từ đó, anh Kiền làm thân với con ngựa và chăm sóc nó rất chu đáo. Con ngựa xám này anh đặt tên là con Côn-Côn. Con Côn-Côn này cũng khôn ngoan và tình nghĩa với anh Kiền lắm. Phải nói rằng, trên đời này có con ngựa và con chó là hai con vật nuôi rất khôn và biết nghe lời chủ, sống có tình với chủ nó. Khi chủ nó vuốt ve vào trên bờm nó và nói thì nó nghe và hiểu.

Tôi còn nhớ có một lần anh Kiền cỡi ngựa về quê ăn Tết năm Bính Tuất (1946), anh buộc nó vào gốc mít sát đụn rơm, nó vói cổ sang đưa lưỡi kéo rơm ra đưa vào mồm nhai nhai ngon lành. Bọn trẻ con trong xóm thấy lạ kéo nhau đến xem con ngựa và cười vui thích thú. Anh Kiền nói với mấy đứa trẻ: “Đây là con ngựa đực rất hùng dũng và tốt bụng. Đứa nào thích cỡi ngựa chú cho trèo lên lưng ngựa cỡi chạy một vòng đến đồi cát rồi quay về?”.

Nghe chú Kiền hỏi vậy, đứa nào cũng thích nhưng không giám nói ra. Vì nếu không biết trèo lên ngựa và không biết điều khiển ngựa thì dễ bị nó hất té ngã xuống đường thì khổ thân. Thấy có 6,7 đứa trẻ cả nam lẫn nữ cứ nhìn chú Kiền rồi vui vẻ nói:

“Chú ơi, chú cho mấy đứa cháu ngồi sau lưng chú dạo chơi một vòng được không?”. Chú Kiền cười và nói: “Chuyện đó dễ thôi, mỗi lần ngồi sau lưng chú hai đứa, một trai, một gái. Trai ngồi sau lưng gái mà ôm vào cho chặt, con gái ngồi sau lưng chú cũng ôm vào thắt lưng chú cho chặt để khi ngựa chạy không bị văng rơi xuống đất, nghe chưa?”.

Cả bọn con trai đồng thanh dạ to, còn mấy đứa con gái thì im lặng, vì ái ngại về chuyện để cho con trai ôm chặt vào mình thì ngượng lắm...

Thế nhưng rồi mọi chuyện lại thấy êm đềm, không thấy đứa con gái nào ngượng ngùng gì cả mà chỉ thấy đứa nào cũng thích thú. Anh Kiền vui lắm. Mấy hôm ngày Tết, anh Kiền cỡi ngựa đi thăm bà con, bạn bè khắp trong thôn xóm trông rất oai hùng. Đi đến đâu là bọn con nít chạy theo sau cười vui rộn ràng, làm anh kiền càng thêm hứng thú.

Đến đầu năm 1947, trong một chuyến đi công tác miền Tây Quảng Trị, anh bị đạn đại bác của giặc Pháp bắn lên làm anh bị thương và rơi xuống ngựa. Con ngựa quay lại rồi nằm bên cạnh anh đưa lưỡi liếm liếm vào trán anh như thông cảm. Khi anh tỉnh lại, anh vẫn đau chân không sao trèo lên được lưng ngựa để về cơ quan. Con ngựa liền nằm xuống nghiêng lưng nó sát bên người anh để anh dùng hai tay bám vào lưng nó rồi nó từ từ đứng dậy và đi nhẹ nhàng đưa anh về được cơ quan ở vùng Tân Lệ (dưới chiến khu Ba Lòng).

Anh Kiền kể lại rằng, sau khi anh lành vết thương, ra viện về cơ quan gặp lại con Côn-Côn thì nó mừng lắm. Nó cứ nhảy qua, nhảy lại, hít hít vào đầu anh, má anh rồi hí hí, reo vang lên náo động và vẩy đuôi tỏ vẻ mừng vui thấy chủ đã trở về...

Vài hôm sau có chú Nguyễn Hương (người thị trấn Diên Sanh) là cán bộ Văn hóa truyên truyền của huyện cũng cỡi một con ngựa ô đến cơ quan. Thế là con Côn-Côn thấy có bạn gái đến liền hí vang lên mừng vui như lâu ngày mới gặp lại bạn tình. Chú Hương và anh Kiền hiểu ý hai con ngựa của mình nên đến mở dây buộc để thả cho hai cô chú ngựa dạo chơi một lúc trên mé đồi phía Nam sông Thạch Hãn.

Mùa hè năm 1947, giặc Pháp đi càn, con ngựa Côn-Côn bị Tây bắn chết cùng hàng chục con trâu bò của các gia đình nông dân vùng này. Mọi người dân đều căm tức lũ giặc hại dân và rất thương tiếc đàn trâu bò bị chết thì mùa sau không có sức kéo để cày bừa làm ăn thời vụ. Nhìn thấy cảnh trâu bò chết la liệt nằm ngổn ngang ngoài đồng, ai cũng động lòng than khóc. Anh Kiền cũng khóc theo và rất tiếc cho con ngựa tinh thần gần gũi của anh. Anh không cho họ mổ thịt như những con trâu bò mà anh lo chôn cất nó thật chu đáo và còn thắp hương trước ngôi mộ của nó nữa. Anh còn lấy một tảng đá đặt trên mộ rồi khắc dòng chữ “Côn-Côn của Phan Kiền, ta nhớ mãi!” để kỷ niệm như một người bạn thân đã lìa đời.


  (Nhân năm Giáp Ngọ-2014, kể chuyện ngựa của NHT)   


Nguyễn Hồng Trân
Nguyên Giảng viên tại Đại Học Huế
   nghongtran38@gmail.com
READ MORE - CHUYỆN CON NGỰA CỦA ANH KIỀN - Nguyễn Hồng Trân

NỒI BÁNH TÉT - truyện ngắn Nguyễn Đức Tùng




Ngày ba mươi Tết đẹp nhất trong năm. Thời gian trôi chậm, không khí huyền ảo, cơ hồ nghe được tiếng nói của đất trời. Bóng tối đổ xuống nhanh nhưng chúng tôi không đứa nào muốn rời khỏi bếp lửa ngoài sân. Nồi bánh tét bắc từ hồi trưa, nước sôi sùng sục, lửa nóng rát mặt vì đun bằng những gốc củi to, cháy đượm. 

Con chó mực sủa nhiều lần, từ sau gốc cây khế. Ba hôm nay, con mực không dám đi ra khỏi nhà quá vài bước. Ánh sáng của cây đèn bão lắc lư chiếu từ hiên nhà che sáng một vùng nhưng bóng tối mỗi lúc một dày đẩy ánh sáng lùi lại. Chú Kiên giúp việc cho nhà tôi ngồi canh bếp lửa. Mẹ tôi đã vào nhà thắp hương trên bàn thờ, dì tôi lục đục dưới bếp, tiếng động im dần. Những người giúp việc khác đã đi ngủ, chỉ còn đám trẻ và chú Kiên vẫn thức cho đến giao thừa. Chờ sau mười mấy giờ đun lửa, chú vớt bánh ra lựa những đòn đẹp nhất cúng bàn thờ. Ba tôi vào Sài gòn không về kịp, hòa bình vừa lập lại đường sá còn trắc trở, du kích chuẩn bị rút vào rừng khi chính quyền bắt tay xây dựng các Ấp chiến lược. Những người đàn ông trong gia đình, người bị Pháp giết, kẻ bị Việt Minh thủ tiêu, dân tản cư lần lượt trở về xóm cũ, phần nhiều đàn bà trẻ con và thương binh. Chú Kiên là thương binh kháng chiến, đi cà nhắc vì bị đạn ở đầu gối bên phải, trở trời đau nhức. Chú hay hát: mẹ lần mò ra trước ao, nắm áo người thân, ngỡ trong giấc mơ. Những dịp giỗ chạp, các mợ tôi nhà vắng đàn ông đều đem con cháu về quây quần bên bà ngoại cho ấm áp. Riêng dì tôi đến ở chung ăn Tết mấy hôm với em gái là mẹ tôi. Mẹ tôi có khu vườn lớn, trồng nhiều ổi, vả, khế, thanh trà, vài mảnh ruộng, cái quán tạp hóa nhỏ gần quốc lộ Một, nhiều người giúp việc đồng áng vườn tược, nên nhà lúc nào cũng đông đúc. Lá chuối xanh từ từ đổi màu trong nồi nước sôi. Mùi nếp bay thơm ngào ngạt, những sợi lạt cuốn chặt quanh khúc bánh trong nước mỗi lúc một siết chặt lại làm những đoạn ở giữa phồng ra, nước sủi tăm mới đầu li ti rồi lớn bằng mắt cá. Trong không khí lẩn khuất âu lo thời cuộc của người lớn, chú gà trống từ cuối sân vẫn vô tư xòe cánh vươn cổ gáy mỗi sáng, những đứa trẻ vẫn cười đùa đuổi nhau ầm ĩ, và trong giấc mơ của tôi mỗi đêm vẫn leng keng những đồng tiền mừng tuổi thơm mùi kim loại hạnh phúc. 
Từ hôm hai mươi ba tháng Chạp đưa ông Táo về trời mẹ tôi bắt đầu đi chợ Tết. Trong nhà không khí nhộn nhịp, tôi đi học về thấy trước hiên bày những lọ thủy tinh, những hũ sành đựng dưa món dưa chua cà pháo ngâm, ớt xanh ớt đỏ, dấm chua, không khí sắp hết năm ở nông thôn phảng phất mùi vàng mã nhang đèn hăng hắc, mùi muối rang, mùi đường ngào, mùi hành chiên tóp mỡ từ nhà ai bay ra, mùi giấy mới trên những báo xuân từ Sài Gòn. Hai đứa con trai, anh tôi và tôi, có bổn phận quét sân quét nhà, lau lư hương trên bàn thờ, chùi các chậu sứ ngoài hiên, là những công việc mà tôi vốn lười biếng cũng đâm ra thích thú. Đất trời thay đổi mỗi ngày, càng gần cuối năm càng mờ ảo, dịu dàng, bí mật, bến đò chợ Sãi, chợ Tỉnh mưa bụi bay lất phất tấp nập người qua lại. Trên những con đường mới đây còn lầy lội mưa dầm nhão quánh bùn và phân trâu nay đã bắt đầu khô ráo, thoáng thấy vài tà áo mới, đôi phong pháo đỏ tươi trong quang gánh lùng nhùng. Gần cuối năm mẹ tôi gạt nỗi lo riêng vì ba tôi không về kịp, lấy lại dáng vui vẻ thường ngày, sai người nhà đi tìm những lá chuối lớn chuẩn bị gói bánh, làm tất bật luôn tay cho đến khuya. Trên một cái mâm đồng lớn đặt giữa phản gỗ, đậu xanh đã được giã nhỏ để làm nhụy bánh chưng bánh tét, trên một cái mâm khác những xấp lá chuối chồng lên cao ngất. Sáng ba mươi vừa đi chợ sớm về mẹ tôi không kịp thay áo dài đã hối hả bắc chậu nước lên bếp, bên cạnh nồi thịt heo ướp sẵn, những thúng gạo nếp hôm trước đã được ngâm nước. 

Tôi theo chú Kiên ra vườn, chú dùng một cái rựa lớn chọn những cây tre dài để chẻ thêm lạt, một con chim sáo về muộn trên ngọn tre lao xao hót những nốt nhạc ngày thanh bình trước chiến tranh. Khi ấy tiếng súng chưa nổ lẻ tẻ giữa du kích và nghĩa quân, đường tàu lửa xuyên Việt còn chưa bị đặt mìn, những người lính bảo an gác cầu chưa có thói quen chĩa súng xuống nước bắn vào đám lục bình vừa trôi lững lờ qua cầu vừa trổ bông tím, những cô dâu từ Huế, Sài Gòn mùa hè nắng ấm về thăm quê chồng tay cầm dù, tay xách va li, đi guốc cao gót, móng chân sơn đỏ, vẫn còn thản nhiên ngủ lại qua đêm trong căn nhà hương hỏa tổ tiên. Mẹ tôi cho gói những chiếc bánh chưng vuông vức, nhưng gói bánh tét nhiều hơn, những đòn dài tròn trịa, từ sáng sớm bếp lửa ngoài sân đã được chuẩn bị. Chú Kiên bắc ba chồng gạch lớn làm bếp, những cái nồi đồng không đủ chứa phải dùng thêm một cái thùng bằng tôn cao ngang ngực, vì mẹ tôi gói bánh thật nhiều cho bầy cháu rất đông. Củi lách tách nổ, lửa lên đều, nước thỉnh thoảng sôi trào ra phải rút bớt lửa, đêm càng vào sâu trời càng lạnh, những người giúp việc đi ngủ gần hết. Trong sáu, bảy đứa trẻ, con chú bác cậu dì gần bằng tuổi nhau, có lẽ tôi là đứa nhỏ tuổi nhất, vì vậy được thưởng món quà đặc biệt, đó là chiếc bong bóng heo thổi căng, bọn trẻ ngồi sát vào nhau, lắng nghe chuyện cổ tích chuyện ma hấp dẫn để mặc con chó mực đang vẫy đuôi chồm về phía trước. Nó cố đánh hơi mùi thuốc độc. 

Ba hôm nay, trộm về làng. Trong tiểng lửa củi lách tách, chú Kiên kể rằng ở bên kia sông phía hạ lưu có một ngôi làng nhỏ, dân làng ấy có tục đi ăn trộm, nghe nói không những đàn ông mà đàn bà con gái cũng làm nghề khoét vách trèo tường đục lỗ. Nhà bà ngoại tôi lớn nhất xóm, cũng có ít của ăn của để, nên gần như năm nào cũng là đối tượng của các vị khách không mời, có năm bà tôi mất cả một cái nồi đồng lớn từ thời Tự Đức. Làng ấy thờ một vị Thành hoàng nghe nói là một đạo hiệp, thần thâu, có lệ đến cuối năm cả làng phải đi nơi khác ăn trộm những thứ quý báu để cúng thần thì con cháu mới làm ăn phát đạt, nếu không sẽ bị phạt không ngóc đầu lên được. Họ ăn trộm rất giỏi chưa bao giờ bị bắt. Đêm về khuya những người đi chơi bài tới, bài tứ sắc, đổ xâm hường về ngang qua nhà, sau những hàng chè tàu phủ kín dây tơ hồng nói cười thấp thoáng, chiếc radio Ấp chiến lược một băng tần, vỏ bằng nhựa plastic trắng, hồi ấy được các toán công tác Bình định nông thôn tặng miễn phí cho nhiều gia đình, treo đầu hồi nhà, phát đi những bài hát rộn ràng từ đài phát thanh Huế, nhạc xuân yêu cầu, chương trình Chị Hoài. Chiếc đồng hồ con gà treo tường có quả lắc sáng choang trên cột nhà thong thả điểm từng tiếng đĩnh đạc, trong bếp chỉ còn mẹ tôi vẫn lục đục sắp xếp nồi niêu xoong chảo, dì tôi đứng ở cửa cúi xuống trò chuyện, một con tắc kè bò qua thân cây khế ngoài sân, đó là một tắc kè lâu năm khi ẩn khi hiện, chỉ xuất hiện những dịp đặc biệt. Con chó mực chụm đầu nằm xuống giữa ranh giới của ánh sáng và bóng tối, mỗi khi có tiếng động khẽ liền nhỏm dậy nhe răng dỏng tai lên. 

Những đứa trẻ buồn ngủ nhíu mắt lại, chú Kiên đưa cả bọn vào nhà rồi thong thả đứng lên vớt bánh ra. Chỉ mình tôi quay lại đứng sau lưng, vì khi ba tôi đi xa, tôi được thú ngủ chung với chú, nằm trên một cái giường kê sát mặt đất bên cạnh hai người giúp việc khác, ở nhà dưới. Ru tôi ngủ, chú bắt chước ba tôi ngâm Chinh Phụ Ngâm, trống Tràng thành lung lay bóng nguyệt, học mẹ tôi hát Lục Vân Tiên, Kim Liên ơi hỡi Kim Liên, giọng khàn khàn, nhớ lỏm bỏm. Dụi lửa tắt dần, nước vẫn còn sôi, chú vớt hết những đòn bánh tét, lá chuối xanh đã sẫm lại, căng bóng, đổ lên rá, chú dùng gáo nước dừa nhúng sâu vào nồi múc từng gáo cẩn thận đổ vào một cái xoong có quai. Nước nóng bốc hơi nghi ngút. Chú dùng hai tay cẩn thận bê cái xoong nặng đầy nước sủi tăm, đứng thẳng người lên, nâng thùng nước ngang thắt lưng, và trước khi tôi kịp để ý, bất thần quay lại, nhoài cả người, hắt nước thật mạnh thật xa vào bụi sả cao ngất ở gần đó.

Đó là một bụi sả lớn, thường trồng quanh nhà vừa để làm gia vị nấu nướng, vừa để chống muỗi và chống rắn rít vì mùi sả thơm hăng hắc làm chúng tránh xa. Một tiếng thét hãi hùng vang lên. Tôi rợn người, một bóng đen vọt ra khỏi bụi sả vùng chạy, nháy mắt đã biến mất trong bóng tối nhưng tiếng thét vẫn còn vọng dài về phía cuối vườn có lũy tre xào xạc. Tôi sợ hãi hét lên, như thấy mình đang sống trong truyện cổ tích. Bụi sả vẫn không ngớt rung động, thật lâu, rung động như thế nhiều năm sau trong tâm trí của tôi. 

Rồi chiến tranh xảy tới, bom đạn ngút trời, nhà cháy, trâu bò thất lạc, người thì kẻ đi lính quốc gia, kẻ nhảy bưng cộng sản, tôi cũng bỏ xứ, mất hết tin tức mọi người. Nhiều năm sau, dịp gần Tết, khi tôi đưa H. về thăm quê, nhà cũ không còn ai, làng xóm tiêu điều. Sau một hồi lần tìm, tôi thấy lại được cái gốc đã tàn chỉ một nhánh nhỏ nhú lên của cây khế nửa chua nửa ngọt, nơi ngày trước con chó mực nằm sủa dấm dẳng, bụi bông trang hoa đỏ lơ thơ, khoảng sân gạch vụn đặt nồi nấu bánh tét chiều ba mươi, chỗ ngồi của chú Kiên, của tôi, những đứa trẻ anh chị em họ. Bụi sả không còn, thay vào đó phất phơ bụi lau trắng như cung nữ tóc bạc nhà Đường. Tôi đứng hồi lâu đến khi trời tối, đứng ở giữa đường biên của tối và sáng như con chó nhỏ ngày xưa khi kẻ trộm về làng, lạc hướng, mất khả năng phản ứng trước nghịch cảnh, đánh hơi mùi thuốc độc của thời gian, đi ngủ rồi thức dậy nhiều lần, ngửng đầu nhìn sao tìm phương vị, nhưng những vì sao ấy dù mới đầu sáng mấy cũng mờ dần đi trên nền trời đục của thế sự. 

Thừa dịp, chúng tôi trở lại Sài gòn, ghé thăm một người anh ở Thanh Đa, gặp anh đang ngồi chụm lửa cho nồi bánh chưng bánh tét. Cảnh tượng thật ngộ nghĩnh vui mắt: giữa chốn phồn hoa đô hội, có một góc tường mục nát rêu phong rác rưởi, một người đàn ông trung niên ngồi canh lửa cho nồi bánh tét, vài đứa trẻ bu quanh, bánh vừa để cúng vừa để bán, nhưng tôi biết trong thâm tâm anh ấy muốn sống lại những kỷ niệm cũ. Vì lòng người viễn xứ cũng như thơ Trần Huyền Trân, lửa khuya tàn chậm, mưa chiều đổ nhanh. Mùi bánh mới vớt lên từ nồi nước sôi ngào ngạt, trộn lẫn mùi xì dầu trong đống rác cũ, bỗng làm tôi nhớ lại những chiều ba mươi Tết trong đời, hình ảnh người giúp việc trung thành, thỉnh thoảng hứng chí nhấc bổng tôi lên trời, cười nắc nẻ, hình ảnh những đứa trẻ ngồi quanh đống lửa chụm đầu vào nhau, mùi thơm hắc từ bụi sả, tre tươi lạt mới chẻ, lá chuối non đắng, mùi nếp thơm đậu xanh từ nồi nước bay trong đêm bảng lảng lo âu nhưng hạnh phúc, đen và trong trẻo. 

Tết năm ấy một lần lúc nửa đêm đang ngủ thì thấy giường lạnh, trở mình, chú Kiên không nằm ở đó. Tôi ngái ngủ mở mắt thấy chú đang đứng im trong cửa sổ. Tôi tò mò đến sau lưng, chú xua tay ra hiệu, nhưng lúc ấy tôi cũng đã kịp nhìn thấy mẹ tôi từ ngoài sân đi vào. Hôm sau tôi để ý lại thấy chú Kiên dậy một mình lúc khuya, lần này chú đứng bên cửa hông nhìn xuống bếp, tôi lặng lẽ đến sau, nhưng chú không ngăn nữa, mẹ tôi bước ra từ trong bếp, nơi giàn bếp có treo lủng lẳng những đòn bánh tét, bà cất để dành ra Giêng làm món bánh tét chiên là thứ anh tôi và tôi vẫn thích. Bà cầm một đòn bánh tét trên tay, đứng im một lát, rồi đi xuyên qua nhà ngang gần buồng ngủ chúng tôi, tới trước sân nơi bếp lửa hôm trước, đặt đòn bánh xuống gần bụi sả, trên một tảng đá ong lớn, rồi trở vào nhà. Hôm sau bà cũng làm như thế, thêm bao nhiêu lần nữa thì tôi không nhớ, vì một hôm tôi mải chơi suốt ngày mệt quá ngủ thiếp, rồi hôm sau, như mọi đứa trẻ khác, hồn nhiên quên bẵng đi mọi chuyện. Quên một mạch ba mươi mấy năm cho tới một buổi chiều khói sương mờ tím ở Thanh Đa.

Nguyễn Đức Tùng

READ MORE - NỒI BÁNH TÉT - truyện ngắn Nguyễn Đức Tùng