Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Tuesday, December 4, 2018

Cảm nhận bài thơ NGỌN ĐÈN DẦU của Lê Thiên Minh Khoa - Trần Bắc Nam và Đào Việt Hùng

Bình thơ:

      Cảm nhận bài thơ NGỌN ĐÈN DẦU của Lê Thiên Minh Khoa

Trần Bắc Nam Đào Việt Hùng

 C:\Users\TTC\Pictures\scan0042.jpg
   Ký họa của HS Phạm Hoan

 

  1. Văn bản:                  

            NGỌN ĐÈN DẦU.
                                    Kính tặng quý thầy cô vùng sâu
Ngọn đèn dầu lập lòe soi đêm Ch’ro
soi lối mòn cho em đến lớp 
soi mắt học viên long lanh giờ tập viết 
soi lòng em thương dân Ch’ro …

Ngọn đèn dầu đo sớm, đo khuya 
thức cùng em mòn đêm rừng im vắng 
trang giáo án cũng từ trang giấy trắng
có dáng thân thương nho nhỏ ngọn đèn dầu 

Cái xã miền rừng đêm ở rất lâu 
cái mầm sáng mọc lên từ bóng tối 
ơi mầm sáng đã bao năm chờ đợi 
sống trong lòng người dân Ch’ro…

Lửa trại bập bùng soi đêm Ch’ro 
trong “Hội xóa mù” sao mắt em lại ướt? 
điệu la-vân(*) mượt mà trai gái hát 
em có biết là để tặng riêng nhau? 
Trong lửa trại bập bùng soi đêm Ch’ro 
có dáng thân thương nho nhỏ ngọn đèn dầu
         (Thị trấn tôi -  tập thơ - Lê Thiên Minh Khoa - NXB Thanh Niên - 2002)        
     (*) : la-vân (tiếng Ch ro): hát giao tình.

  1. Bình giảng bài thơ "NGỌN  ĐÈN DẦU" của Lê Thiên Minh Khoa (**). (trích)
TRẦN BẮC NAM
     
      ... Bài thơ Ngọn đèn dầu được Lê Thiên Minh Khoa viết từ năm 1979, nhân chuyến công tác ở Xã Ngãi Giao, huyện Châu Thành cũ (nay là huyện Châu Đức – tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), nơi có nhiều  đồng bào Ch'ro sinh sống.
      ... Người đọc vẫn thấy rõ tứ thơ cảm xúc xuất phát từ tấm lòng của một người thầy giáo đối với những người giáo viên (GV) xung kích đang ngày đêm âm thầm, miệt mài mang ánh sáng văn hóa đến cho những đồng bào dân tộc ít người ở những vùng xa xôi hẻo lánh và đầy những khó khăn của tỉnh nhà trong những năm đầu sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Hình ảnh ngọn đèn dầu trong bối cảnh đêm tối của những buôn làng Ch'ro làhình ảnh chủ đạo xuyên suõt bài thơ, ngoài  ý nghĩa tượng trưng là ánh sáng văn hóa - người giáo viên xoá mù chữ thì đây còn là hình ảnh có thực trong thời điểm bấy giờ: vì chưa có điện nên mỗi người đi học đều phải mang theo một ngọn đèn dầu, vừa để soi đường đi, vừa  để soi trang vở học, và người GV cũng chỉ có ngọn đèn dầu đề soạn bài chấm bài và ... thao thức hàng đêm.
       Hình ảnh ngọn đèn không mới nhưng được đặt trong một bối cảnh cụ thể, gân gũi và khơi gợi bằng những cảm xúc chân thật nên vẫn  làm rung cảm ngươi đọc. Điều cần lưu ý thêm là những người thầy giáo xung kích trong công tác xóa mù lúc bấy giờ không hẳn là những  giáo viên được đào tạo bài bản từ trong các trường Sư phạm, mà họ có thể là những người tình nguyện- những giáo viên nghiệp dư-những ngườibiết chữ dạy cho những người chưa biết chữ. Chữ nghĩa của họ có thể không nhiều nhưng cái tình với người, với đời thì rất sâu. Cái tình đó chính là những mầm sáng nhỏ nhoi âm ỉ nhưng mạnh mẽ và có sức lan toả. Bài thơ có 5 khổ. Bốn khổ đầu, mỗi khổ gồm  4 câu thơ. Khổ cuối cùng chỉ 2 câu. Vì là thể tự do nên các câu thơ dài ngắn khác nhau, ngắn nhât là 7 chũ, dài nhât là 9 chữ .
       Ba khổ thơ đầu vừa là kể, tả kết hợp với cảm xúc về hình ảnh ngọn đèn dầu giữa đêm làng Ch'ro. Ngọn  đèn  dầu một hình ảnh thực, rất quen thuộc trong đời sống mọi người trong những năm đầu sau ngày 30.4.1975. Vì chưa có điện  nên ngọn đèn dầu luôn gắn bó với đời sống mọi ngươi, nhât  là ở những vùng xa xôi và còn hoang sơ như Ngãi Giao lúc bấy giờ. Những điệp từ soi (khổ l) [soi lối, soi mắt, soi lòng] nói lên tác dụng của  ngọn đèn dầu  từ cụ thể đến trừu tượng (từ soi lối mòn, soi mắt học viên dến soi lòng em thương dân Ch’ro). Có thể thấy ngọn đèn dầu ở đây cũng mang ý nghĩa cụ thể (soi sáng) nhưng lại mang ý nghĩa biểu tượng (dẫn dắt, khai sáng): Chính trong công  việc tâm hồn nhân vật em - người GV xóa mù chữ trong bai thơ trơ nên phong phú, biết yêu thương gắn bó hơn với những đồng bào Ch’ro còn nhiều gian khổ; điều đó có thể trước đây chưa có (soi lòng em thương dân Ch'ro)
       Nếu ở hai khổ đầu là hình ảnh ngọn đèn dầu gắn bo với thầy trò các lớp xóa mù chữ ban đêm (khổ 1: Ngọn đèn dầu soi đường cho thầy trò đến lớp, khổ 2: ngọn đèn dầu là thước đo thời gian khuya sớm của người GV miệt mài bên trang giáo án) thì ở  khổ 3 lại là một hình ảnh vừa thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng:           
           Cái xã miền rừng đêm ở rất lâu
           cái mầm sáng mọc lên từ bóng tối
           ơi mầm sáng đã bao năm chờ đợi
           sống trong lòng người dân Ch'ro ...     
         
       Đêm rừng bao giờ cũng dài như cuộc sống tăm tối của ngừơi dân Ch'ro, nhưng chính sách Xóa mù chữ và Bổ túc văn hóa ...  đã làm  rực lên những mầm sáng của niềm tin, hy vọng về một tương lai đẹp mà bao năm họ từng ấp ủ: cái chữ, cái văn hóa sẽ xóa đi cái đói nghèo, lạc hậu đè nặng cuộc đời họ từ bao đời nay. Ý nghĩa tượng trưng là thế, nhưng laị bắt nguồn từ những hình ảnh rất  thực: “… Xã Ngãi Giao bấy giờ rộng lớn và hoang vu lắm; đứng giữa cái bóng đêm của  núi rừng mênh  mông, chứng kiến cảnh từng tốp bà con đi  học mỗi người trên tay một ngọn đèn dầu nhỏ, le lói tư những ngả rừng túa  ra… tôi có cảm giác như mọi cái  lạnh lẽo, u tối của  núi rừng rồi sẽ được xua tan. Hình ảnh đẹp mà cảm động  lắm!” (lời tâm sự của tác giả) .
        Hai khổ cuối (cảm xúc trong đêm “hội xoá mù”):
           Lửa trại bập bùng soi đêm Chro 
           trong “Hội xóa mù” sao mắt em lại ướt?
          điệu “la-vân” mượt mà trai gái hát
          em có biết là để tặng riêng nhau?
        
        Trong lửa trại bập bùng soi đêm Ch'ro
         có dáng thân thương, nho nhỏ ngọn đèn dầu!...
      Để "hội xóa mù" tưng bừng lời ca, điệu múa có công sức âm thầm của ngươi GV xóa mù chữ (XMC). Và phải chăng  ánh lửa trại bập bùng hôm nay cũng khởi nguồn từ sự nhen nhóm và quần tụ cuả hàng trăm ngọn đèn dầu trước đó? Hai câu hỏi tu từ khơi gợi cảm xúc đẹp mà chân thật về hình ảnh người GV và tình cảm của người dân Ch’ro với  họ trong đêm “hội xóa mù.
        Cũng cần lưu ý cả 5 khổ thơ tác giả đều nhắc đến ngọn lửa, khi thì nhỏ nhoi như ngọn đèn dầukhi là cái le lói của mầm sáng, khi thì bập bùng, rực sáng như  lửa trại. Có thề thấy, đây cũng là một thủ pháp nghệ thuật để góp phần làm rõ tứ thơ.
        Ở khổ cuối, tác giả lặp lại câu thơ: có dáng thân thương nho nhỏ ngọn đèn dầu. Nhưng lần này, hình ảnh ngọn đèn dầu được nâng lên thành hình ảnh người giáo viên XMC, những người đã hằng đêm, với ngọn đèn dầu trên tay, âm thầm lặn lội đến từng buôn làng hẻo lánh để mang cái chữ, cái văn hoá đến cho mọi người. Họ chính là những người đã góp phần xóa đi bóng đêm u ám của đói nghèo, lạc hậu…
TRẦN BẮC NAM
Hiệu trưởng trường THCS Nguyễn Du, Bà Rịa


  1. Biểu tượng "Ngọn đèn dầu” trong bài thơ cùng tên của Lê Thiên Minh Khoa (***) (trích)
                                                                               Đào Việt Hùng

    … Khổ 1Ngọn đèn dầu lập loè soi đêm Chơ Ro
                     Soi lối mòn cho em tới lớp
       Hình ảnh ngọn đèn dầu lúc đầu  được dùng theo nghĩa đen. Nó nói lên tinh thần ham học của người dân Chơ Ro. Ngọn đèn dầu nho nhỏ, ánh sáng yếu ớt lập loè soi trong đêm tối, soi đường cho các học viên đến lớp. Lớp học xoá mù thường tổ chức vào ban đêm, nhưng với ngọn đèn dầu, đêm đen vẫn không cản được bước chân của họ tới lớp học để tiếp thu ánh sáng văn hoá... 
                Soi mắt học viên long lanh giờ tập viết
                Soi lòng em thương dân Chơ Ro      
        Đến đây thì ngọn đèn dầu không chỉ đơn thuần là phương tiện như nói trên. Nó như một sự hiện hữu chứng kiến niềm vui giờ học viết của các học viên trong lớp qua những đôi mắt long lanh ánh lên những ước mơ, hi vọng, lại như chứng kiến và soi tỏ tấm lòng của người thầy giáo xoá mù đối với người dân Chơ Ro.
         Khổ 2 :
             Ngọn đèn dầu đo sớm, đo khuya
            Thức cùng em mòn đêm rừng sâu vắng
       Ngọn đèn dầu trong 2 câu thơ trên được dùng theo phép ẩn dụ và nhân hoá, khiến nó hiện lên như có tâm hồn và song trùng với hình ảnh người thầy giáo. Ngọn đèn dầu như một cỗ máy đo thời gian. Nó “đo sớm, đo khuya” theo nhịp điệu làm việc miệt mài, cần mẫn của người thầy giáo. Nó làm bạn cùng người thầy giáo, thức đến “mòn đêm rừng sâu vắng” để soạn bài lên lớp cho các học viên Chơ Ro. Hình ảnh ngọn đèn dầu lúc này thể hiện tấm lòng hết lòng tận tuỵ mang ánh sáng văn hoá tới đồng bào Chơ Ro của người giáo viên nhân dân.
         Vì vậy, tác giả đã hạ câu thơ kết lại :
               Trang giáo án cũng từ trang giấy trắng
                Có dáng thân thương, nho nhỏ ngọn đèn dầu
           Trang giáo án cũng là trang lòng của cô giáo. Nó có hình bóng thân thương, nho nhỏ ngọn đèn dầu.
            Ngọn đèn dầu lúc này như mang tâm hồn người, mang ngọn lửa nhiệt tình vị tha cao cả. Nó với người thầy giáo xoá mù như hình với bóng; nó thể hiện tâm hồn, tấm lòng của người thầy giáo diệt giặc dốt cho người dân Chơ Ro. 
             Ngọn đèn dầu trong khổ thơ này gợi sự làm việc miệt mài cần mẫn của các thầy, cô giáo. Nó cùng thức đến “mòn đêm rừng sâu vắng” giúp các thầy cô giáo soạn bài. Hình ảnh ngọn đèn dầu lúc này thể hiện tấm lòng tận tuỵ mang ánh sáng văn hoá tới đồng bào Chơ Ro của người giáo viên nhân dân.
            Đến khổ 3, tác giả đã dùng một hình ảnh rất sáng tạo, giàu ý nghĩa biểu tượng để nói về ngọn đèn dầu:“cái mầm sáng”.“Cái mầm sáng” vừa là hình ảnh ngọn lửa nho nhỏ của chiếc đèn dầu, vừa là hình ảnh ẩn dụ về sự khai sáng ban đầu của người thầy giáo có ý nghĩa phôi thai tạo dựng các tri thức văn hoá cho người dân Chơ Ro.  «Cái mầm sáng” ấy “mọc lên từ bóng tối” và rồi sẽ sống, sinh sôi nảy nở, lớn lên trong lòng người dân Chơ Ro, soi sáng cuộc đời người dân Chơ Ro.
       Ngọn đèn dầu đã gắn chặt với người giáo viên diệt giặc dốt. Nhà thơ nói về ngọn đèn dầu cũng là nói về người thầy giáo làm nhiệm vụ khai sáng cho người dân Chơ Ro.    
       NGHỆ  THUẬT:
        Những từ ngữ, hình ảnh có giá trị biểu cảm về ngọn đèn dầu: đo sớm đo khuya, thức mòn đêm rừng sâu vắng, cái mầm sáng, dáng thân thương nho nh ,...
       Những từ ngữ, hình ảnh này thể hiện được ý nghĩa sâu xa của ngọn đèn dầu, của người thầy giáo
       Trong bài thơ có sử dụng nhiều điệp từ, điệp ngữ : 
        Điệp từ:  soiđo, mầm sáng, Chơ Ro, đêm…
       Riêng điệp từ soi được dùng rất nhiều lần (6 lần, trong đó, riêng khổ 1, 4 lần).
       Từ soi ở câu 1, câu 2 dùng theo nghĩa đen.
       Từ soi ở câu 3 và 4 dùng theo nghĩa bóng, với nghĩa “cho thấy”, “làm sáng rõ”.
        Trong lửa trại bập bùng soi đêm Chơ Ro
        Có dáng thân thương nho nhỏ ngọn đèn dầu
      Những điệp từ điệp ngữ trên được nhắc đi nhắc lại có tác dụng tái hiện hình ảnh sinh hoạt của người dân, xoáy sâu vào tâm thức, khắc chốt lại ý nghĩa của ngọn đèn dầu đối với đồng bào dân tộc Cho Ro…
                                                                               Đào Việt Hùng.
                                                                  P. Trưởng phòng Phổ thông - Sở GD-ĐT tỉnh BR-VT.
______________
  (**):  Trích " THIẾT  KẾ THỂ NGHIỆM  MỘT TIẾT VĂN HỌC ĐỊA PHƯƠNG, CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN  THCS: Dạy  bai  thơ "NGỌN  ĐÈN DẦU" của Lê Thiên Minh Khoa”.                                          
 (***) : Trích « Giáo án: Bài thơ " NGỌN ĐÈN DẦU" của Lê Thiên Minh Khoa » - Tài liệu giảng dạy Văn học địa phương tỉnh BR-VT.


READ MORE - Cảm nhận bài thơ NGỌN ĐÈN DẦU của Lê Thiên Minh Khoa - Trần Bắc Nam và Đào Việt Hùng

MÌNH À... - Thơ Trần Mai Ngân


                       Nhà thơ Trần Mai Ngân

MÌNH À...

Mình à !
Biển bao giờ mới lặng
Sóng bao giờ mới yên
Để thuyền tình một chuyến
Đi qua bờ tử sinh...

Mượn trăm năm với mình
Ta chèo qua sóng cả
Đắm đuối và mệt lả
Trả cho xong kiếp người

Đôi ta vắng nụ cười
Cũng không nhiều nước mắt
Đôi tay đâu nắm chặt
Nên buông trôi rã rời

Ôi ! cuộc đời... cuộc đời
Là dâu bể không thôi
Chỉ có mình và tôi
Đôi ta là định mệnh...

Mình à...
Ta còn bao lâu nữa
Để trở về ngày xưa
Một nơi không bão mưa
Và không còn toan tính

Tình yêu là đinh ninh
Chắc chi ta có được
Cả khi ở cùng bên
Lòng mãi cứ mông mênh...

Hư vô đầy một chén
Tôi mời mình đêm nay
Ta cùng cạn và say
Tôi gọi mình quắt quay

Mình ơi ! Mình có hay !

            Trần Mai Ngân
               4-12-2018

READ MORE - MÌNH À... - Thơ Trần Mai Ngân

TÔI MÊ SÁCH... - Hoàng Thắng



                                        Tác giả Hoàng Thắng


TÔI MÊ SÁCH...

Tôi là người mê sách, sách đẹp, sách bìa cứng, sách hay, sách dể chưng...và để đọc...nghiền ngẫm...
Tôi không biết mình mê sách từ hồi nào, nhưng trí nhớ ở vào tuổi gần đất xa trời thì những quyển sách đầu tiên tôi tiếp cận là sách của Tự Lực Văn Đoàn. Tôi nhớ nhà tôi ở số 8 Quang Trung, Quảng Trị. Đó là một căn nhà hộp như hộp diêm quẹt mà ba tôi, một "kiến trúc sư vườn" vẽ kiểu, ở trên mái phẳng xây có một cái am để thờ một cặp chị em bị mẹ ghẻ đánh chết trong xóm. Tôi sẽ kể chuyện này.
Ba tôi đi tù thời ông Ngô Đình Diệm về thì tôi đã học lớp Tư. Mạ tôi thôi không bán sinh tố ngoài bờ sông Thạch Hãn nữa, ở nhà lo nội trợ. Chị tôi, người đẹp một thời Hoàng Thị Ái Loan, vẫn ở trong nhà, vẫn chờ chồng là anh Hoàng Văn Hiền đi tù ông Diệm (10 năm). Anh tôi Hoàng Ngân Hà vẫn còn di dạy tư phụ giúp gia đình, còn anh Hoàng Văn Thọ tôi thì cà nhỏng đánh bi đánh đáo đánh bi ngoài đường đến chiều chạng vạng, mới về, tôi ở nhà thong thả...đọc sách. Đó là tủ sách độc đáo của ba tôi, toàn là sách đời xưa, quí hiếm đối với ba tôi, nhưng không quí hiếm đối với mật vụ của cụ Cố Ngô Đình Cẩn, vốn chỉ mê man những tủ bàn cẩm xa cừ của gia đình tôi, không thèm mang đi tủ sách. Đó là một điều may mắn cho tôi, vì tôi mê sách, mê lạ lùng, mà cho đên giờ này tôi vẫn không hiểu tại sao.
Ba tôi không muốn tôi quá mất thì giờ về sách, cho nên ông hạn chế không cho tôi đọc nhiều về Tự Lực Văn Đoàn mà ông bảo là sách người lớn, nhưng tôi vẫn lén đọc. Thích nhất là đu theo ống dẫn nước máy lên trên trần nhà nằm dưới tàn cây trồng to cao ngoài đường vắt vẻo trước am thờ anh chị bị dì ghẻ đánh chết, và đọc cho tới chiều, khi nghe chuông xe đạp ba tôi về, vội vàng leo xuống có khi quên cả sách.Tôi nhớ có lần trời mưa, những sách tôi để quên ướt sủng nước và tôi bị Mạ tôi đánh cho một trận đáng kể. Ba tôi hiền không không nói gì nhiều, chỉ buồn, và chắc ông thầm thất vọng...Cha làm thầy, con làm...ướt sách

Mặc dù vậy, dù với đồng lương ba cọc ba đồng, nhà tôi nghèo rớt mồng tơi nhưng một hôm, ba tôi bảo tôi mặc quần áo chỉnh tề (tôi đã học lớp Năm), rồi dẫn tôi ra nhà sách Văn Hóa xin cho tôi hoàn toàn tự do mua sách, mua lửa - mua ký sổ (mua chịu) và cuối tháng ba tôi lãnh lương ra trả tiền tôi mua thiếu. (viết đến đây, tôi rất bùi ngùi, ba tôi đã hiểu thằng con trai mình là mê sách hơn mê ăn). Thực tế tôi chỉ mua các báo và bán Nguyệt San Thời Nay của thầy tôi, Giáo Sư Nguyễn Văn Thái (để xem những bài viết về thế giới) và Phổ Thông (để xem mục Mình Ơi và Tuấn Chàng Trai Nước Việt của bác Nguyễn Vỹ). Năm 1973, sau khi học xong năm hai cao học ở Saigon thì được thầy Thái dẫn đi ăn trưa với Vĩnh Hoành và thầy bỏ một bọc giấy báo trên bàn, đó là lương tháng đầu và tôi phải trả bữa cơm trưa thầy đãi; thầy kêu cho làm Thư Ký Toàn Soạn Thời Nay. Thật sự dù có nằm mơ cũng không dám xin, nhưng tôi cũng vinh dự học Thầy Thái hai năm cùng với Thầy Phạm Việt Tuyền báo Tự Do, và Thầy để "mắt xanh", cho cậu sinh viên nhỏ người bé tí, nhưng đam mê sách vở thay thầy ở chức vụ này, cho thầy semi-retired đi du lịch. Tôi xem bài vở, Vĩnh Hoành, Hoành học Khoá 5 Chính Trị Kinh Doanh, khóa 2 Cao Học Chính Trị Kinh Doanh Đại Học Đà Lạt trông lo tài chánh. Đây là hai năm đẹp nhất đời, Hoành và tôi gần gũi làm việc hợp tính hợp tình. Hoành, cao lớn, đẹp trai, hào sảng, Thắng nhỏ con, xấu xí nhưng láu lĩnh. Thình thoảng tôi giao căn phòng tôi mướn cho Hoành và cả anh Nguyễn VC (chủ nhiệm một tờ báo Nhà Nước VNCH) khi cần chỗ nghỉ (trưa) hay nghỉ (tối) với "bè bạn" mà không sợ ai làm phiền. Tôi vẫn đùa với Hoành..."Mày là Lennie to lớn, đẹp trai, thông minh, còn tao là George, nhỏ con, xấu xí, láu lĩnh." Hoành cười ..."Mày ngạo tao hả?." Thực tế trong câu chuyện Of Mice and Men (John Steinbeck, giải Nobel), Lennie rất trì độn. Nhưng Hoành cười, Hoành biết tôi đùa vì ngoài đẹp trai, hào hùng, thông minh, Hoành là niềm mơ ước của bao nhiêu người đẹp sắc nước hương trời !

Trở Lại Chuyện Mê Sách....

Năm 1965, Mỹ đã có mặt ở Nam Việt Nam. Anh tôi, Hoàng Ngân Hà, kềm cặp tôi rất kỹ về tiếng Anh nên tôi đã bắt đầu vỏ vẻ tiếng Anh, nói cơ bản nhưng không hiểu được khi Mỹ nói gì. Nhờ lập hội English- Speaking Club với bạn học người Tàu Hoàng Trường Tiết, hai đứa tập tành nói tiếng Anh mỗi ngày, nên nói khá nhanh, nhưng gặp Mỹ là nói một chiều. May mắn một hôm, một chàng lính Mỹ độ tuổi 20 mặc đồ trận đi ngang nhà, tôi nói," Hello !", anh ta nói lại, "Hello!", thế là hai đứa quen nhau. Người lính Mỹ đó là lính gác ở MACV và thường gác ở tòa nhà Mỹ ngoài bờ sông Thạch Hãn. Bob trẻ người, gốc Texas, và anh mê một cô bé hàng xóm nhà tôi, Đại Kiều. Anh nhờ tôi môi giới. Anh làm quen được với Đại Kiều nhưng chỉ vài câu" Hello, how are you?" vớ vẩn. Anh nói với tôi, mãn nhiệm làm lính anh sẽ từ Mỹ trở qua Việt Nam xin cưới Đại Kiều làm vợ. Nhờ Bob mà tôi vỏ vẻ nghe được tiếng Anh và accent của tôi là accent của người ở xứ Một Sao Texas.

Tôi Đi Làm Thông Dịch Viên
Không biết Bob báo với cấp trên làm sao mà một buổi sáng Thứ Bảy, có một xe jeep Mỹ đổ trước nhà, ba ông Sĩ Quan Mỹ sao bạc chấp chới trên cầu vai lừng lững đi vào nhà tôi ở số 22 Lê Thái Tổ, đường Bờ Hồ Quảng Trị, Ba tôi vẫn mặc pyjamas, ra tiếp. Một trong sĩ quan đó nói được tiếng Pháp và tôi hiểu lỏm bỏm là họ muốn tôi làm thông dịch viên cho USAID (United States Agency for International Development)… Thuở đó chiến tranh chỉ ở mức độ bắn sẻ. Ba tôi hỏi ý kiến tôi, tôi nghĩ bụng, “Có tiền mua sách, có tiền cho Mạ và có tiền đi ăn bún thịt nướng với ban T.và bạn Cửu” . Thế là tôi nhận lời ngay, không kịp hỏi là lương tiền bao nhiêu và làm việc như thế nào.
Bob vẫn đến nhà tôi và tôi hỏi có phải anh giới thiệu không thì anh không nói gì cả. Anh đẩy tôi vào bên trong giường và lăn đùng ra ngù khò. Anh xem tôi như em anh và Mạ tôi như Mạ anh. Nhà có gì ăn nấy, anh ăn được cả nước mắm và khen ngon đào để. Giống như tôi, anh rất sợ ruốc, nhưng lại mê mứt gừng dù bữa đầu anh phải chạy đi kiếm Coca Cola lạnh để uống chữa cháy.

Ngày thứ Hai, sau giờ học, tội được điều lên Văn Phòng Trường Nguyễn Hoàng, vào văn phòng, tôi thấy có một ông Mỹ dân sự da trắng ngồi đó với thầy Hồ Ngọc Thanh, Giám Thị Trường. Thầy nhìn tôi dò hỏi. Tôi nghĩ chắc ông Mỹ này đón tôi đi làm việc. Quả đúng như vậy. Tôi được điều vào làm ở USAID, văn phòng đóng ờ Tòa Hành Chánh Tỉnh Quảng Trị. Sếp lớn của tôi là ông John Brown và sếp bé của tôi là ông John H. Clary, người đến từ Philadelphia và một đám lau nhau công chức đánh thuê Philiipines mà cho đến giờ này tôi vẫn không có cảm tình mấy (nhắn với bác Nguyễn Phú Trọng và chú Nguyễn Xuân Phúc là chớ bao giờ tin mấy ông lãnh đạo ở điện Malacanang, Manilla, Philippines nhé, coi chừng bị đâm sau lưng và bị Tàu Phù lấy hết nước Việt Yêu Quí đấy).
Công việc của tôi là...thông dịch. Thông dịch cho các chương trình Self-Help (tự túc) cho làng quê Việt Nam như cấp xi măng, tôn, sắt....để đào giếng, xây trường, đê đập…và cả thông dịch đỡ đẻ, mổ xẻ vì vết đạn, đủ thứ linh tinh trên đời....vv.....Nhớ có một lần một chị bạn học bị thương mìn nổ khi đi xe hàng từ Đông Hà vào Quảng Trị học, tôi năn nỉ xin Thông Dịch Viên bệnh viện Quảng Trị thông dịch thay tôi vì chị phải lộ thể khi mổ. Theo chỗ tội biết chị được tháp một đùi thép trong chân. Khi đi học lại chị đã cám ơn tôi là đã lịch sự đi ra khỏi phòng mổ khi mà tiến trình chuẩn bị mổ bắt đầu. Nếu tôi nhớ không lầm thì trong phòng USAID, tôi làm việc với chi Hồ Thị T. và tôi kéo theo hai anh Đỗ Tư N, và Nguyễn T. N nay là học giả tu tiên ở Đàlạt và T, nay là một bác sĩ nổi danh ở Huế, vào làm luôn.

Tôi đi làm như thế, sáng đi học, chiều đi làm, ngày nào khẩn cấp thì làm cả ngày, còn mùa hè làm tuốt. Ở cái tuổi 15, 16 đây là một cơ hội thực tập tiếng Anh, dọn đường hoàn thành giấc mơ làm Thông Tín Viên Quốc Tế, vừa được đi du lịch miễn phí...vừa có tiền còm… Nhờ những năm làm thông dịch viên, tôi có cơ hội đi khắp Quảng Trị: Đông Hà, Gio Linh, Triệu Phong, Bến Hải, Hải Lăng, Cam Lo và những chiến trường đẫm máu nơi mà hai bên quân sĩ Việt Nam Cộng Hòa và bộ độ Bắc Việt chết hay bị thương còn nằm lênh láng trên trận địa... Nhờ làm thông dịch viên, tôi đã có kinh nghiệm đi máy bay C45, C 46, C47, C123, và cả C130, Cesna và xe Bronco Ford chuyển hàng đến Khe Sanh, Lao Bảo, rất tiếc chưa được bao giờ đi trực thăng. Tôi cũng ra vào Đà nẵng thường xuyên theo sếp. Tôi may mắn có thể nhìn rõ quê hương miền Trung ở tuổi 15, 17 và xây dựng một nền tảng yêu thương nước thương nòi, hầu mong một ngày nào đền đáp Me Việt Nam bằng những công việc rất nhỏ. Mờ ngoặc  -Tôi có lần phải lên Cam Lộ, trời đã xế chiều, để thông dịch và đón một em gái 10 tuổi bị Mỹ đen hiếp. Tôi đã tiếp cận cả hai, em bé sợ hãi và lính Mỹ đen mắt trắng dã ngồi khóc khi bị hỏi cung bởi M.P. Mỹ (quân cảnh Mỹ) từ đàng xa.
Hàng tháng tôi đươc lãnh 400 đô-la, qui ra tiền VNCH. Tôi tặng ngay Mạ 200 (dù bà cằn nhằn phải là 300). Tôi trình bày là tôi sẽ dùng 100 đô (quy ra tiền VNCH, dĩ nhiên) để (đi Huế - dấu Mạ) hàng tháng mua sách báo, 100 đô còn lại là để rủ bạn T. và Cữu đi ăn bún thịt nướng. Mỗi đứa sẽ ăn nhiều tô vì bún thịt nướng Quảng Trị, tuy rất ngon nhưng tô nhỏ tí.
Và cứ thế, hàng tháng tôi chọn một ngày cuối tuần, lặng lẽ đi xe traction vào Huế đi bộ ngay đến nhà sách Ưng Hạ, tha thẩn ở đó suốt ngày và sau khi mua đủ sách, xin mấy tờ báo cũ, gói lại sách mới và chạy bay ra nến xe vội vàng lên xe về Quảng Trị, không thèm ăn bún Huế hay bánh bèo, bánh nậm danh tiếng. Về đến nhà là xem qua sách và đem chất vào tủ kiếng, ngắm nghía. Mạ có hỏi thì trả lời là, "Con ra nhà sách ngoài chợ Quảng Trị mua sách". Tôi hay đi chơi ở nhà bạn tôi, Cao Thi Nhàn (qua đời hai tháng trước), cho nên Mạ tôi không thắc mắc, nếu tôi nói là tôi đi Huế qua đoạn đường Đại Lộ Kinh Hoàng Quảng Trị, có lẽ bà sẽ trói tay chân tôi buộc vào chân giường mỗi weekend.

Tôi Không Còn Làm Thông Dịch Viên: Định Mệnh Hay May Rủi?
Cuộc chiến Việt Nam leo thang. "Anh em bộ đội miền Bắc" bắt đầu mở những trận đánh lớn và tôi đã hai lần bị bắn sẻ. Một lần đi với ông John Clary từ Đông Hà về gần tới Nhan Biều. Bỗng dưng tôi nghe tiếng đạn cheo chéo và ông Clary nhấn ga chạy hết cỡ, ông bảo tôi thụp đầu xuống. Tôi cũng nghe lời, nhưng qua khúc quanh thì không còn nghe tiếng đạn. Đến Toà Hành Chánh khi bước vào văn phòng USAID, ông Clary đến ngay bàn làm việc của sếp Brown và báo cáo. Lần thứ hai, khi đi làm dự án Self-Help với Sếp Phi Tanny G. trên một giòng sông, tôi nghe tài công bảo phải tấp vào bờ lên bộ vì VC ở bên kia bắn súng xuống sông. May mà họ chỉ dọa, không thôi mạng vong. Một lần nữa khiến tôi suy nghĩ. Độc giả biết rằng nếu Thông Dịch Viên Việt nam bị bắt, họ sẽ gặp cái chết thảm. Họ -VC- đem người Mỹ đi làm tù nhưng sẽ cắt dương vật của Thông Dịch Viên, nạn nhân chỉ nằm đau đớn chờ chết vì hết máu. Một trong chuyến đi làm việc Đông Hà, chị T. bí thư của ông Brown đã bị bắn bị thương nhưng được cứu sống. Tôi không thấy chị đi làm sau biến cố ấy.

Có môt lần, ông Clary và tôi lái một chiếc xe tải bự vào Huế lãnh một chiếc đò (thuyền gỗ), từ sông Hương. Thuyền đã được buộc cẩn thận nhưng giữa đường thì sút dây. Thật ra nếu an toàn thì hai thầy trò vẫn có thể buộc lại dây, nhưng trời đã chạng vạng và bên đường đã lố nhố người ra xem, toàn thanh niên, thanh nữ (du kích?), tôi không dám chắc, nhưng răng tôi đã đánh bò cạp rồi. Ông Clary bảo tôi lên ngồi trong xe. Ông thò tay lay chiếc phone Motorola và bật máy gọi. Chừng vài phút sau chúng tôi an toàn lái xe về Quảng Trị sau khi buộc xong đò. Chiếc máy bay trực thăng màu bạc, loại quăng lưới bắt du kích hay cứu phi công bay rà rà theo hộ tống. Dĩ nhiên họ chỉ quan tâm tới ông Clary.

Tanny G. ông sếp Phi của tôi
Khi ông Clary thuyên chuyền thì Tanny G. va Sammy S., hai kiều dân Phi công chức đánh thuê, đến làm việc. Không một ai ưa hai ông Phi này. Cười nhất là anh Hoàng Ngọc H. thỉnh thoảng lại nói một tràng tiếng "cao nguyên" chọc quê hai ông Phi này. Có một dạo, hai tên này khoác lác khoe rằng mỗi lần đi Huê vacation đều được gái chào mừng đưa đón. Tôi cười sằng săc, Tôi hỏi, "Aboard the Perfume River Cruise?", hai tên cười “Yes, yes...” không hề biết thằng bé thông dịch viên này chơi kháy....Pefume River Cruise la Đò Sông Hương đấy các bạn ạ, chuyên chở gái làng chơi tối bốn phương về đóng đô đó. Tôi đã làm việc với tên Phi này một thời gian dài. Và chắc anh ta cũng chẳng ưa tôi. Suốt ngày tôi chỉ dịch và không bao giờ nói thêm bớt một câu nào với hắn. Đi như thế rất dễ ăn hối lộ. Làng xã được cấp vật liệu luôn luôn hỏi nhỏ là cho sếp tiền nhậm xà, tôi từ chối. Đãi cơm thì tôi sẵn sàng ngồi và ăn cho đồng bào mình đỡ tủi. Mỗi lần như thế Tanny đưa mắt dò hỏi tôi: “Go ahead ...ăn đ”i là hắn ngồi xuống ăn ngay, còn tôi giả bộ nhìn quanh và nói “...At your own risk...tùy ăn thì chết ráng chịu” Thế là hắn buông đũa.

Sau gần hai năm làm việc lao tâm lao lực, một ngày tôi phát bệnh nằm liệt giường, Tanny lái xe đến đón khi thấy tôi không đi làm việc (thuở đó, nhà tôi làm gì có điện thoại), hắn thấy tôi bệnh quá lắc đầu bỏ đi. Đến chiều, anh Hoàng C. nay ở Oakland, Cali, là thông dịch viên ở gần nhà, báo tin là xe Tanny G, trúng mìn, Tanny cụt hai tay một chân, người thông dịch viên chết banh xác. Khi về tới bệnh viện Quảng Tri trước khi ra hạm đội, hắn ré lên chưởi tôi, hắn bảo vì tôi không đi làm nên hắn hết vận may. Trời đất ! Nghe được không?

Ba mạ tôi tuyên bố: Không đi làm nữa. Tôi mất 400 USD nhưng tiếc nhất là không có tiền rung rỉnh mua sách. Về sau tôi nghe vợ Tanny có đến thăm chồng, nhìn thật nhanh ông chồng tàn tật và vội vàng ra về và lên máy bay về Phi..

Tủ Sách Của Tôi Lớn Dần Theo Năm Tháng
Theo năm tháng và túi tiền, tủ sách tôi lớn dần. Nhìn tủ sách mỗi ngày mỗi nhiều hơn, lòng tôi vui vẻ. Mặc dù chưng nhiều hơn đọc, những quyển sách giúp tôi tự tin hơn trong cuộc sống vốn bề ngoài nhỏ tí, tôi không tranh đua được với ai về thể lý nhưng về tâm linh và kiến thức tôi khá tự tin nhờ tủ sách tôi chịu khó tìm tòi đi mua, đọc và lưu trữ. Dĩ nhiên lúc bấy giờ sách của tôi là sách tiếng Việt. Thảng hoặc là vài tờ Time and Newsweek cũ Bob đem cho mà tôi đọc chỉ lỏm bỏm hiểu. Tôi đọc bộ hết Nhận Định của Giáo Sư Nguyễn Văn Trung (thầy yêu quí của tôi sau này trong năm 1968 khi tôi học Dự Bị Văn Khoa Anh ở Đại Học Dalat). Mở ngoặc - Tôi vô cùng phẩn uất khi sau này Phạm Công Thiện mà tôi xem là “triết gia sao chép tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức”..., đã mắng mỏ thầy tôi là anh ta ... “muốn quên Nguyễn Văn Trung như quên một thói xấu trong đời..”.-Đóng ngoặc. Hồi ở Dalat có một nhóm thanh niên trốn lính, đi đâu cũng lè kè sách triết của Phạm Công Thiện với những “hiếp dâm mặt trời”... mà không hiểu chưa lại gần mặt trời đã bị mặt trời đốt cháy rồi (do thiếu kiến thức khoa học). Cho đến bây giờ bộ sách Nhận Định của Thầy tôi đã là kim chỉ nam của tôi trong suốt cuộc sống.
Tôi vẫn thu thập sách đọc. Tôi không còn chỗ chứa sách, đành để sách khắp nơi trong phòng ngủ. Năm 1967, tôi rời Quảng Trị vào học Quốc Học Huế. Ra đi tôi dặn dò Ba tôi là không cho ai mở tủ sách. Từ 1967, qua 1968, thoát chết năm Mậu Thân 1968, tôi lên Dalat, học Đại Học Dalat, nhưng không quên thâu thập sách, mua sách. Sách là bạn hữu, không bao giờ bội phản. Tình yêu đối với sách vở còn có một lý do riêng... Sự thật về đời sống khoa học, thể lý và cả tâm linh tôi hi vọng sẽ tìm được trong sách vở, không ở nơi giảng đường hay kinh viện, vốn dĩ mình phải tuân theo luật lệ trường thi, đôi khi cứng nhắc và không cần thiết.
Tủ sách của tôi để dành ở Quảng Trị tồn tại cho đến năm 1972 thì tủ sách của tôi "qua đời". Năm 1972, tôi từ Huế (sau khi học xong ở Dalat) vào Danang sau khi kéo dài hoãn dịch học vấn thêm một năm, học chứng chỉ Văn Minh Việt Nam, thì bom đạn ập đến. Khi đón gia đình tôi vào Danang tị nạn, tôi nhìn ba tôi. Ông lắc đầu, tôi hiểu tủ sách tôi đã "mệnh chung" trong biển lửa. Tôi ngậm ngùi, biết bao giờ mới gầy dựng đươc môt tủ sách như vậy? (Tôi về Huế, với mội lá thư của Cha Hoàng Kim Đạt, ngài là thầy tôi, dạy tôi Văn Phạm Anh Văn, Giáo Sư tốt nghiệp tại Cambridge, Anh Quốc (giới thiệu tôi với một Giáo Sư Tiến Sĩ ở Huế xin làm Giáo Sư bảo trợ cho tiểu luận Cao Học Anh Văn, nhưng Giáo Sư Huế lạnh lùng, sau khi đọc xong thư, chỉ trả lời một câu cụt ngủn, "Tôi rất bận". Ngài không buồn nhìn lên và để tôi đứng tần ngần rồi lặng lẽ ra khỏi văn phòng tráng lệ của Viện Đại Học Huế của ngài, tôi thề rắng nếu một ngày tôi đi dạy học, tôi sẽ không bao giờ từ chối giúp ai và sẽ luôn khích lệ đàn em tiến lên, và tôi đã làm được như vây trong suốt hơn 30 năm hoạt động trong ngành giáo dục tư tiểu học đến đại học tại Mỹ dù có khi tôi bận rộn phải dạy đêm, dạy ngày và dạy cả thứ Bảy).

Mất tủ sách nhưng không mất phương hướng. Sau năm 1975 khi những người anh em ruột thịt miền Bắc quyết thực thi chính sách "đốt sách cải tạo người miền Nam" thì tôi hăng hái đi lùng tìm mua lại những quyển sách đã mất. Dĩ nhiên làm sao tìm lại được, nhưng có một niềm an ủi là tội mua được một số sách Nga Văn và tự học tiếng Nga vì học ngoại ngữ nào tôi cũng thích. Nhưng chính vì lầm lỗi này mà suýt chút nữa người anh em miền Bắc bỏ tù tôi rục xương, sẽ viết sau. Sách vở cũ sau 1975 bắt đầu tràn ra ngoài lề đường và Sở Văn Hóa Thông Tin chế độ mới bận rộn đánh tư sản mại bản, đâu có thì giờ để ý đến mấy quyển sách "phản động" này.
Tôi vẫn chí thú đọc sách. Tôi nghĩ rằng một quyển sách tốt là một thầy giáo hiền từ, tốt bụng. Sách vở là bạn thiết nếu mình biết chọn sách. Ngoại trừ bộ sách của thầy Nguyễn Văn Trung, sau này tôi không còn đọc sách triết lý. Tôi nhất định từ chối không đọc. Với tôi, nếu triết gia đó có căn bản toán học thì tôi còn đọc, còn không chỉ là ý kiến cá nhân, một thời để yêu và một thời để quên của tác giả. Trong quyển sách The Grand Design của nhà vật lý học danh tiếng Stephen Hawking, trang 5, ông viết..."Traditionally these are questions for philosophy, but philosophy is dead". Theo truyền thống, những câu hỏi (về vũ trụ quan) là dành cho triết học nhưng triết học đã chết, Quyển sách này xuất bản do nhà sách Bantam Books năm 2010, tôi đã khai tử triết lý từ hồi tôi 18 tuổi. Xin các bạn đừng cười chế nhạo. Bạn đi học triết đi để xem thị trường lao động từ Mỹ hay Việt Nam đối xứ bạn như thế nào, ngoại trừ bạn tốt nghiệp trường Marxist-Leninist ngoài Hanoi.

Sách Hay Trường Đại Học?
Lúc tôi còn bé, gia đình chạy ăn từng bữa toát mồ hôi, nhất là khị bị chủ nhà đuổi đi không chứa, tôi nguyện lớn lên tôi sẽ học vừa đủ để kiếm ăn, không cần học vị, những học vị sẽ làm tôi xa cách với mọi người. Kiến thức thật sự quan trọng hơn là học vị, lý do vì bạn có thể lê la ngoài đường uống bia (ở Việt Nam nhé), hay mày tao chi tớ với bè bạn không mặc cảm tự ti hay tự tôn, và tôi quyết tậm thiết lập trường đại học tại gia. Mấy tấm hình vừa post là từ trường Thầy Đồ ra nhà kho (shed) và nơi tôi xây dựng trường Thầy Đồ là trường" đại học" của tôi đó.

Tôi may mắn nhận chân ra kiến thức tuy không giúp tôi làm ra nhiều tiền, thực tế tôi vẫn nghèo như con chuột nhà thờ (as poor as a church mouse), con chuột nhà thờ thì làm gì có đồ ăn, là phải nghèo thôi, nhưng tôi đã qua nhiều tình huống thoát nạn nhờ kiến thức, và có một niềm vui khôn tả khi tìm ra được những gì thao thức muốn biết nhờ sách vở.

Coi như sau năm, thời kinh tế mới khốn đốn tôi không thể mua sách lưu trũ. Gạo không có mà ăn, bụng đói lép kẹp, lấy tiền đâu mà mua sách. Khi đi kiếm ăn bằng cách bán thuốc tây, chợ trời, nuôi thỏ bán, tôi thường la cà các quán lộ thiên bán sách ngoài đường. Nói là lộ thiên vì chỉ là sách nằm ngổn ngang trên lề đường. Người bán thường là một người chủ sách hay một trí thưc tiểu tư sản mà nhà nước bần cố nông không thèm "trọng dụng". Nếu bài thơ Ông Đồ Vũ Đình Liên có tác dụng mạnh mẽ về sự suy tàn của chữ Hán và sự trổi dậy của chữ Tây, thì tôi cũng hi vọng có một nhà thơ nào đó làm một bài thơ nói lên sự suy tàn của văn hóa tư sản và sư trổi dậy của văn hóa ba đời bần cố nông. Tôi vẫn chờ. Nếu không có ai thì tôi sẽ cố gắng làm.

Con người là một thực thể tự do. Họ đã sinh ra với những quyền bất khả xâm phạm, một kiến thức khoa học đúng nghĩa sẽ giải phóng bạn. Tôi nói điều này không phải là chia sẻ với lớp tuổi như tôi mà với giới trẻ. Nhớ là tôi dùng chữ chia sẻ nhé.

Kiến Thức Giải Phóng Con Người
Mãi cho đến khi đầu bạc răng long, tôi mới nghiệm ra vì sao tôi mê sách. Tôi muốn biết mỗi thứ một chút, biết chính xác, biết khoa hoc, khong cộng nhận triết lý hư ảo. Đành rằng ai cũng đến chỗ chết ở cuối đời, nhưng tôi muốn biết chắc là khi tôi sống, tội sống một đời đang sống, là bất cứ một quyết định nào trong đời sống, tôi sẽ cân nhắc theo lý luận khoa học. Có thể tôi sai, nhưng ít ra tội làm quyết định dựa trên những luận cứ khoa học mà tôi thâu thập được.
                                                      HOÀNG THẮNG
Còn tiếp
(Đại Học Nhà Hay Đại Học Trường-Niềm Vui Cho Tôi - Sẽ Xin Chia Sẻ Với Bạn)

READ MORE - TÔI MÊ SÁCH... - Hoàng Thắng