|
Nguyễn Nguyên An |
Bảy
mươi bài thơ, tập hợp trong một tập thơ nhỏ nhắn,
xinh xắn với tên gọi rất gợi cảm của Nguyễn Nguyên
An là một lời nhắn gửi tời bạn đọc rằng: không
phải viết văn là không làm thơ được; không phải tuổi
trẻ mới biết viết thơ tình yêu và thơ tự do hiện đại
còn là cái duyên của những người muốn thể nghiệm
mình để biết mình tuổi già nhưng trong lòng còn rất
trẻ.
Không
phải đến bây giờ nhà văn Nguyễn Nguyên An mới làm
được thơ. Nhưng sau thành công của các tác phẩm văn
xuôi: Người đi săn hoàng hôn, Nỗi
buồn không giám gọi tên, Ngọn đèn vẫn tỏ, Trường
đại học của tôi, Bầu trời cổ tích…
thì có thể coi Cơn mê của gió
là tập thơ đầu lòng của tác giả. (biết đâu, đứa
con văn vần đâu tiên này lại bắt đầu cho một con
đường mới trong chặng đường sáng tác của ông?)
Cơn
mê của gió là một “tổ hợp” thơ
bao gồm những tố chất đang trong quá trình “phản ứng”,
“kết hợp”, “phân hóa”… để trở thành những
“hỗn hợp chất mới” hấp dẫn và thú vị. Được
“đeo bám” ngay từ đầu sự hình thành và phát triển
của quá trình “thai nghén” này; người đọc không khỏi
ngạc nhiên và tin tưởng những bài thơ đã kết tinh
thành dấu ấn thơ Nguyễn Nguyên An. Bởi vậy Cơn mê của
gió không phải là tập thơ đọc để rồi quên mà quả
thực là vẫn còn lưu giữ lại rất nhiều điều lưu
luyến mà tôi xin được tạm gọi là “Tổ hợp” thơ
trong Cơn mê của gió.
Cơn
mê của gió tập hợp một chùm thơ
tặng rất ấn tượng: Tặng Hồng Nhung, tặng Quỳnh Như,
tặng Kim Hạnh, tặng Song Cầm, thơ tặng TTH, tặng Hằng…
và hàng loạt bài thơ khác không đề tặng nhưng xôn xao
trong câu chữ, hình ảnh và cấu tứ là nỗi lòng lưu
luyến vấn vương rất khó tả của tác giả.
Trong
tặng Hông Nhung, nhân vật trữ tình xưng tôi khiêm nhường
và bình dị có một cái gì bé nhỏ và nhân hậu bên cạnh
Nhung “Uyên bác trí thức, đồ sộ tài năng”. Bởi vậy
“lời xin lỗi” cứa vào lòng bạn đọc về một mối
tình như “nốt nhạc quằn quại, vết roi đời và nụ
buồn xa ngái phương Tây”. Cặp đối lập giữa Nhung và
cái tôi trữ tình”
Nhung uyên bác trí thức
đồ sộ tài năng
anh lấm lem bùn đất
cánh đồng ngấu phù sa
cho em gieo khát vọng
tài hoa
đã
trở thành kỉ niệm đọng lại để cuối cùng còn mình
anh: đơn độc nhưng kiêu hãnh; nhân hậu và tự tin sống
phần đời còn lại:
Anh
đội bầu trời mỗi ngày
đi
chân đất vào nỗi buồn
ướt
rượi
khất
thực vô ngôn
Bài
thơ Tặng Quỳnh Như là nốt nhạc trầm buồn. Tác giả
chỉ gieo vào lòng bạn đọc một vài ngôn từ trong vắt
mà hàm nghĩa. Lúc mẹ trở dạ để Quỳnh Như có mặt
trên đời, đó là một mùa trăng, để rồi rừ đấy:
Mắt
ướt
Môi
cong
Cười
Vỡ
nắng
Thủy
tinh
Bài
thơ khép lại bằng hình ảnh Quỳnh nở gợi lên một thế
giới thơ thực-ảo không thể phân biệt và không cần
phân biệt. Quỳnh nở trong đêm là quy luật của tự
nhiên. Quỳnh Như cũng vậy:
Khẽ
động
Vào
đêm
Chút
tình
Quỳnh
nở
Bài
thơ Chung Che không
đề tặng ai nhưng tình người thật sâu đậm và chân
thành. “Chiếc ái dài vương hạt mưa rơi” của người
ấy làm “lòng ai vương vấn”, thành một vùng hoài
niệm:
Hạt
mưa ngày cũ về tìm
Người
chung che ấy thành chim bay rồi
Không
phải người đọc được chung cơn mưa ngấy ấy tìm lại
chiếc áo dài vương hát mưa rơi, mà hạt mưa tìm về
người cũ. Tứ thơ đột ngột lạ lùng. Hóa ra mưa của
trời vẫn còn lưu luyến đến người chung che cơn mưa
ngày ấy. Thế mà, người ấy đã thành cánh chim bay rồi.
Bài thơ đọng lại một nỗi buồn thương, tiếc nuối và
thách móc nhẹ nhàng tế nhị chiếc áo dài vô tư tới
mức vô tâm.
Bài
thơ Em đi, cùng nằm trong “cung nuối tiếc” cố nhân và
đã hé lộ kỉ niệm sâu sắc, xót xa, buồn tủi. Chuyện
tình ngày ấy – ngày xanh những đã “heo hanh của mùa”
Vì
em đã đi xa. Cho dù vậy, người ở lại vẫn đăm đăm
bến sông xưa như Nguyên Bính ngày nào vẫn đợi chờ
trong vô vọng:
Buồn
em tìm tời bến sông xưa như Nguyễn Bính ngày nào vẫn
đợi chờ trong vô vọng:
Buồn
em tím tới bên sông
Chiều
loang loáng nắng trắng mênh mông ngày
Tay
đan nỗi nhơ trong tay
Mình
anh quẫy một gánh đầy đêm đông.
Người
phụ nữ ấy đã theo chồng rời bến sông xưa. Nhưng lòng
người yêu cũ vẫn không thôi thương nhớ:
Nhớ
xưa khăn gói theo chồng
Áo
cơm nặng gánh nợ chồng chất vai
Chong
đêm thức trắng canh dài
Thời
gian gõ nhịp mười hai bến sầu
Chút
tình ngày xanh tưởng đã nhạt phai, nào ngờ:
Bây
chừ gửi nhớ về đâu
Rút
từng sợi để xe nhàu tương lai
Cho
dù vậy, người trong cuộc vẫn giữ lòng son. Bài thơ là
một nỗi lòng chứ không chỉ là một kỉ niệm buồn.
Bởi trong nỗi nhớ em đi có chồng chất tình thương
những ngày “chong đêm thức trắng; áo cơm nặng gánh”.
Và như vậy: Tình vẫn đậm mà còn thêm cả lòng biết
ơn không sao nói hết bằng lời chỉ để “Rút từng sợi
xe nhàu tương lai”
Trong
chùm thơ tặng, mà tôi tin tất cả là giới nữ, đẹp
nhất là bài thơ Tặng Kim Hạnh. Một cô gái nửa tỉnh
nửa quê và nhân vật trữ tình hẳn là còn mang chất
“chân quê’ nhiều lắm. Những hình ảnh quê mùa dân dã
và đám học trò “mắt thắm màu trời” đã làm nên
một mối tình – không đơn thuần là tình yêu nam nữ mà
còn lớn lao hơn là tình yêu cuộc sống thuần khiết,
bình dị rất Việt Nam. Bức tranh mái trường hiện ra như
một thước phim chân thực, đầy chất thơ:
Trường
em nửa chợ nửa quê
Nửa
mơ thị tứ nửa mê ruộng đồng
Trước
trưởng những chuyến tàu không
Phía
sau thôn đã tre đong đưa ngày
Mái
trường quê tràn ngập yêu thương này có thể tìm thấy
bất cứ đâu ở nông thôn Việt Nam. Và cái nghề được
xem là cao quý nhất trong tất cả các nghề, một lần nữa
đã được tác giả “neo” vào lòng bạn đọc bằng
những vần thơ mộc mạc và xúc động:
Anh
về hương lúa thơm lay
Lòng
neo vến đõ chiều say mất rồi
Học
trò mắt thắm màu trời
Em
gieo chữ nghĩa vun đời thêm xanh
Cái
tình anh đọng lạ ở trường em không phải chỉ về nửa
tỉnh nủa quê mà cơ bản, quan trọng hơn là những đứa
học trò. Hình ảnh “mắt thắm màu trời” không chỉ
có màu xanh mà còn khát vọng vô cùng đáng yêu của tuổi
mới lớn đang hướng về tương lai bao la xanh thẳm như
bầu trời kia. Hình ảnh “mắt thắm màu trời”, “tre
đong đưa ngày”… tôi cho là một phát hiện đặc sắc
của tác giả. Nhà thơ đáng quý không phải là ở những
bài thơ dài mà ở chi tiết nghệ thuật “xuất thần”
như trên.
Bài
thơ tặng Kim Hạnh cũng là kỉ niệm về một mốt tình
nhưng không hề xót xa, nuối tiếc hay buồn khổ… tình
yêu và hạnh phúc đã gắn kết với nhau. Trường em cũng
chính là trường anh. Tình yêu gái trai cũng chính là tình
yêu mái trường thân yêu.
Trường
em nửa chợ nửa thành
Nửa
quê nửa phố nửa dành cho anh
Nửa
nào cũng đượm nắng xanh
Cũng
thắc thỏm nhớ cũng tròng trành yêu
Câu
kết bài thơ là niềm xúc động nghẹn ngào. Bởi vậy,
không còn câu tám chữ mà chỉ có câu sáu chữ:
Yêu
trường em biết bao nhiêu!
Bài
thơ có thể trở thành “cột mốc”
của thơ viết về mái trường và đưa vào sách giáo khoa
(dùng để tham khảo) bởi vậy nội dung và nghệ thuật,
theo tôi đã gần đạt tới độ chuẩn mực.
Nguyễn
Nguyên An sinh ra ở Nam Giao bên cạnh con đường Điện
Biên Phủ, “thẳng mà không bằng phẳng”; và vào độ
tuổi xấp xỉ lục tuần, ông vẫn hằng ngày có mặt
trên từng con phố Huế thơ mộng. Hầu hết những bài
thơ trong Cơn mê của gió
đều được “thai nghén” trên mảnh đất cố đô thơ
mộng này. Bởi vậy nếu không mang chất Huế mới là lạ.
Bài
thơ Festival Huế gọn nhỏ, chỉ chín câu thơ mà hé mở
được những nét Huế bình dị và đáng yêu. Đó là vỉa
hè, phố xá, chiếc đò, chiều hoàng cung, đường khuya,
đêm lễ hội… đặc biệt là các cô gái Huế. Có cái
gì như thực như mơ làm nên nét riêng của thành phố
Festival.
Chiếc
đò vắt qua sông
Chở
nhiều cô gái Huế
Nhuộm
biếc chiều hoàng cung
Hình
ảnh “con đò vắt qua sông” là điểm nhấn của hội
họa với rất nhiều liên tưởng siêu thực. Còn sắc màu
của cô gái Huế “nhuộm biếc chiều hoàng cung” thì
chắc chắn đó là màu tím Huế. Lời thơ Cơn
mê của gió gợi lên bóng hình đời
Tôn nữ với bao nhiêu chua cay lận đận không biết ngỏ
cùng ai.
Đời
Tôn nữ
Góc
tình lận đận
Vén
ngày lên
Rạng
rỡ thanh xuân
Mỗi
khi nói đến Huế xưa, người ta không quên được hình
ảnh “một hàng Tôn nữ cười trong nón” - nét duyên,
thùy mị, nết na gia giáo này đã phôi pha qua những cuộc
bể dâu nhưng không hề biến mất trong đời sống Huế.
Bởi vậy, đọc lại những dòng thơ ngắn mà lắng đọng
này lòng bạn đọc chợt thấy rưng rưng:
Em
về Huế
mang
nỗi sầu viễn xứ
Đính
trên mùa
những
hạt phù hư
Thời
thơ ấu
lăn
qua miền khát vọng
Bếp
lủa hồng
không
ấm bốn mùa đau
Có
phải Tôn nữ ngày xưa dứt áo ra đi, bây giờ trở lại?
Qua những “năm tháng lặng thầm”, “nỗi buồn nhen
trong mắt” để cuối chặng đường vẫn còn một người
buồn thật lòng, đó là anh – chủ thể trữ tình. Bài
thơ không chỉ nói về thân phân một Tôn nữ mà còn mở
ra tâm trạng của một người anh, qua bao năm tháng vẫn
dõi theo từng khúc quảng của đời Tôn nữ, để rồi:
Buồn
như thể
Không buồn không thật
Chính
là em
Ray rứt nỗi niềm
Anh
Số
lượng những bài thơ “chạm” vào của Thiền chiếm tỉ
lệ đáng kể. Như một lẽ tự nhiện, Huế là trung tâm
Phật giáo. Những bài thơ viết về Huế không thể không
phảng phất của Thiền. Trong Cơn mê
của gió có thể liệt kê, đó là
những bài thơ: Nhân, Một, Xuống tóc,
Không… chỉ riêng tên gọi hầu hết
những vài thơ tôi vừa liệt kê đã thấy xúc cảm thơ
nghiêng về việc luận bàn đạo lí trong cuộc đời. Nói
về chữ nhân, nhà thơ ngẫm nghĩ:
Gieo
xuống chữ nhân
Mai
nở mầm xuân
Cây
đời xanh biếc
Qủa
ngọt lên mầm
Trong
bài thơ Không nhà
thơ muốn gửi một thông điệp về cách sống: cứng rắn,
khoan hòa, tự tin, và cao thượng. Sống trong cuộc đời
mà phấn đấu được một số “không” như trong bài
thơ này đã là mãn nguyện.
Không
làm khổ chính mình
Không
làm khổ người khác
Không
cúi trước kẻ mạnh
Không
ngoảnh mặt nỗi đau
Không
nói lời người khác
Không
viết điều vô nghĩa
Bài
thơ “Không” là một hướng rèn luyện tu tâm của con
người. Với thơ, có thể là một định hướng. Với bạn
đọc, có thể là một khát khao, mong ước.
Từ
một hướng cảm xúc khác, những bài thơ bốn câu: Thiền,
Yên, Về, Tát… giải bày một triết lí sống của nhà
Phật và rất thiết thực với chúng ta.
Một
ngày một niệm
Cố
giữ tĩnh yên
Khởi
công làm thiện
Rũ
sạch ưu phiền
Trong
lúc cuộc sống hiện tại đang đòi hỏi con người và
từng quốc gia phải cạnh tranh khốc liệt để sinh tồn
và phát triển thì những lời thơ này đáng để chúng ta
suy ngẫm:
Vén
dọn mình cho tròn
Trước
khi về với đất
Đặc
biệt nhất trong chùm thơ này có lẽ là bài thơ Xuống
tóc. Xuống tóc là một tục lệ của
mà Phật đánh dấu bướt ngoặt quan trọng trên con đường
tu hành. Bài thơ bày tỏ tâm trạng ngổn ngang của người
cha yêu thương con vô hạn:
Nghe
tin con xuống tóc
Ba
vừa buồn vừa vui
Lã
chã nước mắt tuôn
Thương
con mười bảy tuổi
Nỗi
lo của cha là con còn quá trẻ, “chưa nếm trải mùi
đời”, mà con đường tu hành thì rất dài và gian nan.
“Hai năm rưỡi giới hành, Thật muôn vàn hạnh khổ”.
Bài thơ khép lại bằng lời cầu chúc và niềm tin tưởng
của cha:
Mấy
lời cha đưa tiễn
Con
đi vào cõi yên
Nơi
trầm luân gió bụi
Ba
hằng chúc con nên
Chúng
ta tưng nghe ngợi ca rất nhiều “lòng mẹ bao là như biển
Thái Bình”, nhưng qua bài thơ này chúng ta đã thấy lòng
cha là một biển Thái Bình bao la.
Cơn
mê của gió chủ yếu được viết
bằng thể loại thơ tụ do hiện đại. Tác giả không tự
ép mình trong khuôn khổ của thơ lục bát truyền thống
mà mặc cho câu thơ dài ngắn tùy cảm xúc trào dâng. Lại
có những câu thơ nhảy hàng một cách cố ý để diễn
tả chính xác những tình huống cảm xúc, hoặc buộc
người đọc phải dừng lại để suy ngẫm. Đặc biệt,
hầu hết các bài thơ đều không có dấu ngữ pháp. Dường
như tôi không thấy một dấu chấm câu nào, kể cả dấu
phẩy. Nhiều câu thơ xuống dòng không cần viết hoa như
thơ truyền thống, nghệ thuật thơ đang đi theo hướng
hiện đại hóa. Chính vì vậy tập thơ đã để lại cho
người đọc những dấu ấn sâu đậm về thành công bước
đầu, cùng niềm tin tưởng nhà thơ Nguyên Nguyên An sẽ
cho ra đời những tập thơ đằm thắm với nhiều “Tổ
hợp” thơ hơn.
Huế,
2011
NGUYỄN THỊ TÚ HẰNG
Email: nguyenan009@gmail.com
Tel: 01688971486