NON MAI (Kỳ 1/2)
NON MAI (Kỳ 2/2)
(Trích từ tập sách KHẢO VỀ QUẢNG TRỊ XƯA,
tác giả LÊ ĐỨC THỌ)
Về mặt hồi cố, Mai Lĩnh
sơn/non Mai và Thạch Hãn giang là cặp đôi sông núi biểu trưng của người Việt, của
không gian văn hoá Việt. Nó chỉ gần gũi, thân quen và đi vào tâm thức của người
Việt - bắt đầu từ người Việt vùng phía nam Quảng Trị thuộc hai huyện Triệu
Phong và Hải Lăng; sau mới lan dần ra để trở thành biểu trưng, nhập thân vào
dân Việt cả vùng Quảng Trị. Người Vân Kiều đương nhiên sẽ không biết và họ
không cần gì phải biết khi sông thiêng của họ là Đakrông và núi thiêng của họ
không phải là Mai Lĩnh. Tìm về với Mai Lĩnh phải tìm về với người dân Việt trên
đôi bờ Thạch Hãn.
Những người Việt thuộc các làng
vùng thung lũng Ba Lòng - những người thuộc thế hệ những năm chống Pháp và Mỹ sống
tại vùng này và cả những thế hệ trẻ hơn về sau thường xuyên đi rừng với nghề
sơn tràng thì không lạ lùng gì với Non Mai/Mai Lĩnh. Đứng từ phía làng Xuân Lâm
của xã Triệu Nguyên hay từ Phú Thành của xã Mò Ó, người dân địa phương có thể
chỉ lên phía Động Trăn, Động Chấn (nằm phía bắc Động Chè và phía nam động Ché)
và khẳng quyết đó là núi Mai Lĩnh.
Nếu có ai đó hỏi một cụ già
vùng Ba Lòng rằng: Non Mai - Sông Hãn ở đâu? Người ta dễ dàng chỉ một tay xuống
đất và một tay xiên lên trời mà nói: Thạch Hãn đây. Mai Lĩnh đó tề. Bởi thế nên
nhạc sĩ Lê Anh trong một ca khúc viết về quê hương Quảng Trị đầy chất dân ca
vùng Thạch Hãn: “Giọng hò thương nhớ” đã thốt lên bằng tâm cảm và cũng bằng cả
sự hồn nhiên: Thạch Hãn đó, Mai Lĩnh là đây, biết mấy ân tình, giữa muôn
trùng sông nước; nắng cháy bão bùng vẫn chung lòng sau trước. “Thạch Hãn
đó, Mai Lĩnh là đây” là lời của nhạc sĩ Lê Anh hay cũng chính là lời của người
dân địa phương chỉ cho tác giả về Non Mai - Sông Hãn (?!). Có thể có người đã từng
lên đến núi Mai Lĩnh và nhiều người chưa bao giờ biết núi Mai Lĩnh ở đâu, nhưng
từ trong tâm khảm của mình, người dân đôi bờ sông Thạch Hãn đều đinh ninh một
cách chắc chắn rằng núi Mai Lĩnh phải nằm ở thượng nguồn sông này; và vì thế
núi và sông mới trở thành cặp đôi của non nước Quảng Trị.
Vì thế, không hề đòi hỏi tiền lộ
phí, tiền dẫn đường, những người từng lăn lộn với rừng, gắn bó bới rừng và thừa
hưởng những đặc ân từ Động Chè, Động Ché, Đông Trăn, Động Chấn, Mai Lĩnh ở các
làng Na Nẫm, Xuân Lâm luôn sẵn lòng đưa những người muốn tìm về với Mai Lĩnh
lên đến đỉnh Non Mai trong khoảng thời gian chừng 6 - 8 tiếng đồng hồ băng rừng,
lội suối, vượt dốc cả đi lẫn về theo con đường từ Xuân Lâm qua sông Thạch Hãn
theo khe Làng An - đường Bà Cả, qua Động Trăn (hoặc Động Chấn).
Hành trình lên non Mai và về với
Mai Lĩnh của các cán bộ nghiên cứu Bảo tàng Quảng Trị cùng Trung tâm Bảo tồn Di
tích Danh thắng là sự mò mẫm để tìm hướng đi từ trong các văn bản thư tịch cổ,
các tài liệu thành văn và cũng là tìm lối đi từ trong thực tiễn qua sự chỉ
bảo, hướng dẫn và giúp rập của người dân địa phương và bằng nghị lực vượt khó để
leo núi với tất cả tấm lòng yêu mến sông núi quê hương Quảng Trị. Các dữ liệu
có được trong quá trình tìm kiếm chính là những cơ sở xác thực để định vị núi
Mai Lĩnh.
Bản đồ vị trí núi Mai Lĩnh và quần thể Động Chấn, Động Trăn.
Núi Mai Lĩnh nhìn từ Động Trăn ở phía đông nam.
Núi Mai Lĩnh hiện nằm trong Khu Bảo
tồn Thiên nhiên Đakông, ở phía tây nam huyện lỵ Đakrông, trên bờ hữu ngạn của
sông Thạch Hãn, thuộc địa phận xã Mò Ó (nguyên trước thuộc xã Triệu Nguyên),
huyện Đakông. Núi nằm trong quần thể Động Trăn, Động Chấn, phía bắc Động Chè,
phía nam Động Ché, có độ cao hơn 800m so với mực nước biển (theo bản đồ UTM là ở
độ cao 843m). Số liệu “cao 118m so với mặt thuỷ hải chuẩn... diện tích 38 ha”
do Hoàng Hữu Phong đưa ra là thiếu chính xác.
Núi có hình chóp tròn, hơi nhọn,
xuôi dần nhiều hơn theo hướng tây - đông. Trên đỉnh có một khoảng đất bằng, hiện
chỉ có lau lách và cây bụi. Khu vực này chính là một căn cứ quân sự được xây dựng
thời Mỹ và cũng chính là một đồn binh được người Pháp thiết lập sau năm 1885. Đứng
từ đỉnh núi Mai Lĩnh (hoặc động Chấn) có thể nhìn thấy thị trấn Krông klang ở về
phía đông bắc và sông ĐaKrông, đường 14 trên địa phận xã Tà Long (Trại Cá) ở về
hướng tây.
Từ quần thể Động Trăn, Động Chấn,
Mai Lĩnh có Khe Làng An chảy từ tây bắc xuống đông nam đổ vào sông Thạch Hãn ở
địa phận làng Xuân Lâm. Khe Làng An cũng là hợp lưu với Khe Khế chảy theo hướng
tây nam - đông bắc, phát nguyên từ phía Động Chè. Phía bắc quần thể Động Trăn,
Động Chấn, Mai Lĩnh còn có Động Ché; khe Làng An chảy vòng phía đông; còn phía
tây là khe Luồi. Khe Luồi chảy từ Động Ché xuống, đổ vào sông Thạch Hãn ở khu vực
bản Luồi.
Nếu đứng ở làng Na Nẫm và bờ sông
Thạch Hãn thì núi Mai Lĩnh nằm ở phía tây nam, nhưng không thể nhìn thấy vì núi
bị khuất sau Động Trăn. Nếu đứng ở làng Xuân Lâm thì vừa nhìn thấy Động Trăn vừa
nhìn thấy đỉnh của núi Mai Lĩnh.
Cần nói thêm rằng, phường Mai
Hoa/Mai Lĩnh không nằm trong khu vực núi Mai Lĩnh mà là phía bắc núi Mai Lĩnh.
Phường Mai Lĩnh nằm phía hữu ngạn sông Đakrông, đối diện với Làng Cát (gần cầu
Đakrông); phía nam tiếp với Phú Thành. Phường Mai Lĩnh nằm phía nam Động Ngài.
Từ Động Ngài về phía nam là một dãy động nhấp nhô kéo về tận phường Mai Lĩnh;
nhưng đó không phải là núi Mai Lĩnh/Non Mai. Động Ngài được ghi trong bản đồ
“Thừa Thiên toàn đồ” là Mang Sơn/núi Mang, cũng tức là động Mang. Sách “Đại Nam
nhất thống chí chép: “Núi Mang ở phía tây nam huyện Thành hoá, cây cối rậm rạp,
khe động gập ghềnh. Tương truyền hành khách đi đến núi này, tức phải tự mang
gông ở cổ, khi qua đỉnh núi, vọng bái thần núi rồi tháo gông ra mà đi, làm như
thế để cầu yên lành; tục gọi là động mang” 1). Người Vân Kiều gọi núi này
là Kok Yang (núi thiêng, núi Giàng), diễn nôm là Động Ngài. Động Ngài không
phải là núi Mai Lĩnh.
Trên núi Mai Lĩnh thì tuyệt nhiên
không thấy cây mai. Rất có thể là đã bị phá hết. Từ năm 2004 đến nay, dọc theo
con đường đi lên Mai Lĩnh, việc khai thác gỗ trái phép vẫn hàng ngày diễn ra. Rừng
bị tàn phá nghiêm trọng. Rừng còn chẳng có, có đâu mai (!). Tuy thế, ở Động
Trăn, dọc theo đường mòn có rất nhiều cây mai con - loại hồng diệp. Những người
dẫn đường cho rằng trước đây vùng núi này có rất nhiều mai rừng.
Sông Hãn - Non Mai chính thức trở
thành biểu trưng văn hoá kể từ khi lỵ sở, trung tâm hành chính, chính trị của tỉnh
Quảng Trị đặt bên dòng Thạch Hãn. Kể từ đó, cặp đôi sông núi này nhập thân vào
đời sống văn hoá của người dân đôi bờ Thạch Hãn; trở thành niềm ngưỡng vọng, tự
hào của người dân Quảng Trị.
Các ngôi đình, đền miếu, nhà thờ họ
ở các làng nằm dọc 2 bên bờ Thạch Hãn đều hướng ra sông. Người dân các làng xã
vùng Triệu Phong, Hải Lăng không chỉ coi non Mai - sông Hãn là biểu tượng, là
niềm tự hào về giang sơn gấm vóc mà còn là sự gữi gắm niềm tin về sức sống mãnh
liệt, sự bền vững muôn thu về đất nước. Tinh thần này được thể hiện thông qua
những câu đối, những vần thơ cảm tác được khắc tạc ngay trên các công trình văn
hoá truyền thống ở nhiều làng xã. Cặp câu đối trước cổng trụ đình làng Dã độ viết:
枚山遠炤千年柱/ 捍水長流萬古春: Mai Sơn viễn chiếu
thiên niên trụ/ Hãn thuỷ trường lưu vạn cổ xuân.
Cặp câu đối trước đình làng Thạch
Hãn: 石嶺開建井疆遺跡前人存萬古/
捍江潤培耕墾本鄉後世在千秋:
Thạch Lĩnh khai kiến tỉnh cương di tích tiền nhân tồn vạn cổ/ Hãn giang nhuận bồi
canh khẩn bổn hương hậu thế tại thiên thu.
Cặp câu đối trước cổng đình làng Cổ
Thành: 嫩枚日月門城千秋永/
江永水和柱表百世歌:
Non Mai nhật nguyệt môn thành thiên thu vĩnh/ Giang Vĩnh thuỷ hoà trụ biểu bách
thế ca.
Cặp câu đối ở đình làng Đâu Kênh viết:
梅山懍烈對面結同鄉/
捍水威丰中心炤五族:
Mai sơn lẫm liệt đối diện kết đồng hương/ Hãn thuỷ uy phong trung tâm chiếu ngũ
tộc.
Câu đối ở đình làng Mai Xá Thị
viết: 枕後梅仙山鎮堡/
按前捍越水潮迎:
Chẩm hậu Mai Tiên sơn trấn bảo/ Án tiền Hãn Việt thuỷ triều nghinh.
Người dân trên các làng dọc sông Hiếu
nhiều khi lại lấy Non Mai/Mai Lĩnh thay cho Tá Linh và coi Non Mai - Sông Hiếu
là cặp đôi sông núi biểu trưng của tiểu vùng này. Trước đình làng Nghĩa An (phường
Đông Thanh) có 2 cặp câu đối: 孝水長流千秋在/ 西嶺高山萬古留: Hiếu thủy trường lưu thiên thu tại/ Tây Lĩnh cao
sơn vạn cổ lưu. Hoặc: Tô bồi rực rỡ ngời SÔNG HIẾU/ Trang điểm huy hoàng rạng
NÚI MAI.
Bên trong nhà thờ họ Hồ Sĩ làng
Nghĩa An còn có câu: 孝水 克含千古月/ 梅山長對億年聲: Hiếu thủy khắc hàm thiên cổ nguyệt/ Mai sơn trường
đối ức niên thanh.
Bài thơ “Cảm đề tam quan” ngợi ca địa
cuộc ngôi đình làng An Lợi ghi ở nghi môn:
“Uy nghi hướng vọng Mai sơn đỉnh
Trầm mặc trông ra Hãn thuỷ dòng
Nối gót người xưa bồi phúc địa
Dân AN, vật LỢI thoả tấm lòng”.
Nhà thơ Phan Văn Hy cảm nhận về
sông Hãn - non Mai như một bức tranh thuỷ mặc mà tạo hoá đã khéo vẽ nên để mỗi
lần thưởng ngoạn, lữ khách càng thêm phần thanh thản, gạt bỏ mọi ưu tư, phiền
muộn của cuộc đời:
“Ngọn bút thiên công khéo vẽ vời
Bức tranh tuyệt diệu đãi người chơi
Gió Âu, mưa Á tuy dồn dập
Nguồn Hãn, non Mai chẳng đổi dời
Ca hát bên sông dòng nước chảy
Thấp cao trước bãi bóng trăng ngời
Mãi vui chung chén xem phong cảnh
Lững quách hơn thua cái chuyện đời”.
Sông Hãn - Non Mai đã đi vào văn
hóa như thế đó!
_________________________________________________
(8) Quốc sử quán triều Nguyễn. Ðại
Nam nhất thống chí. T1. Sđd, tr. 135.
(9) Bản đồ được lưu giữ tại họ Nguyễn
Đức, phường Đúc Huế.