(Ảnh bìa tập thơ)
GIỚI
THIỆU TẬP THƠ: BẠCH VÂN VÔ SỞ TRÚ
Nguyên Lạc
VÀI
HÀNG TIỂU SỬ
Cảm ơn nữ sĩ Hạt Cát đã gởi tặng thi phẩm Bạch Vân
Vô Sở Trú (Mây Trắng Thong Dong) như món quà quý. Tập thơ in rất trang trọng và rất đẹp.
Xin được ghi ra đây vài hàng về tiểu sử của nữ
sĩ:
Hạt Cát tên thật
Trần Thị Bạch Vân, bút hiệu thường dùng: Hạt Cát, Lăng Già Nguyệt, Sa Sa, Lạp
Sa ... Cựu học sinh trường Trịnh Hoài Đức tỉnh Bình Dương, quê Lái
Thiêu Việt Nam. Hiện đang sống ở Mỹ.
Tập thơ Bạch Vân Vô Sở Trú gồm 125 bài thơ chữ Hán
đủ các thể loại, sau mỗi bài thơ chữ Hán, tác giả còn phiên âm ra Hán Việt và
dịch ra thơ thuần Việt rất mượt mà. Về thơ chữ Hán, tác giả làm theo lối chữ
phồn thể - Lối chữ hiện được dùng
tại Đài Loan, Hồng Kông, Singapore và trong các tác phẩm cổ của văn
học Việt Nam. Thi sĩ Hạt Cát cho biết là chị đã học chữ Hán từ gia đình,
từ bạn bè. Chị học và yêu thích chữ Hán, rồi làm thơ dễ dàng như làm bằng tiếng
mẹ đẻ - tiếng Việt.
NHAN
ĐỀ BẠCH VÂN VÔ SỞ TRÚ
Trước khi giới thiệu vài bài thơ tiêu biểu của
nữ sĩ Hạt Cát, tôi có vài ý về nhan đề của thi tập.
1. Được
biết người cha là nhà Nho, thầy giáo; cụ dặt tên cho các người con
gái đều bẳt đầu bằng chữ Mây (Vân). Gia đình có 4 người con gái:
Bạch Vân, Thanh Vân, Hồng Vân và Huỳnh Vân.
Tên đặt ảnh hưởng đến cuộc đời riêng chăng? Mây
thì phải lơ lửng, lang thang lưng trời:
Phiêu vân bạch mộ không / Quá kiều hốt tâm vong
(Chiều hôm mây trắng lênh đênh/ Qua cầu lơ đãng bỏ quên tim này - Hạt
Cát)
2. Nhan đề Bạch Vân Vô Sở Trú gợi ta
nhớ đến bài thơ nổi tiếng "Hoàng Hạc Lâu" của Thôi Hiệu
(704–754) một nhà thơ thời nhà Đường. Tương truyền Lý Bạch (701 - 762) khi đến
Hoàng Hạc Lâu định làm thơ, thấy bài thơ này của Thôi Hiệu đề trên vách, đọc
xong ông vội vứt bút, ngửa mặt than: Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc/Thôi Hiệu
đề thi tại thượng đầu.(Trước mắt thấy cảnh không tả được / Vì Thôi Hiệu đã đề
thơ trên đầu)
Đây là 4 câu đầu của bài thơ Hoàng Hạc Lâu:
Tích
nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử
địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Hoàng
hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch
vân thiên tải không du du.
(Hoàng Hạc lâu -Thôi Hiệu)
Nguyên Lạc phóng dịch:
Hạc
vàng ai cưỡi bay xa
Đây
lầu Hoàng Hạc cùng ta đối sầu
Hạc
vàng không trở về đâu
Nghìn
năm mây trắng trên đầu vẫn bay
.
"Bạch Vân Vô Sở Trú" của Hạt Cát
chính là "Bạch vân thiên tải không du du" của Thôi Hiệu, nói về
lẽ "vô thường".
VÀI
NHẬN XÉT KHI ĐỌC BẠCH VÂN VÔ SỞ TRÚ
1. Xin được
trích đoạn ra đây Nhận Định Về Tập Thơ của Nguyễn Đức Cung đăng ớ
phần đầu của thi tập:
[...
Trước hết, khi đọc thi tập viết bằng chữ Hán này độc giả tưởng
rằng sẽ gặp ở đây những khuôn mẫu cứng nhắc, những luật lệ gò bó
của những quy luật về thi ca đời Đường Trung Quốc mà người làm thơ
chữ Hán có sẵn trong đầu, đó là các loại thơ Cổ phong và thơ Luật.
Thơ Cổ phong chỉ cần có vần mà không phải theo niêm luật; thơ Luật
mỗi bài 8 câu 5 vần theo đúng niêm, luật, bằng, trắc. Nếu mỗi câu 5
chữ thì là ngũ ngôn, mỗi câu 7 chữ thì là thất ngôn. Dù ngũ ngôn hay
thất ngôn thì cũng không bao giờ được dùng vần trắc; nếu dùng vần
trắc thì là cổ thi rồi. Ngoài ra cũng còn có loại thơ tuyệt cú chỉ
có 4 câu (nên cũng gọi là tứ tuyệt) có thể theo luật bằng trắc (thể
luật) có thể không theo (thể cổ thi) [Nguyễn Hiến Lê, Đại Cương Văn
Học Sử Trung Quốc, cuốn II Đời Đường]
Tính phóng túng và đa điệu của tác giả tập
thơ này chẳng những thể hiện trong các thể thơ từ ngũ ngôn Cổ phong
đến lục ngôn, tứ tuyệt; nhiều nhất là ngũ ngôn cho đến cả thể thơ
Lục bát - vốn là một kỹ thuật sáng tác độc đáo của người Việt Nam
cũng được nhà thơ Hạt Cát vận dụng, đưa vào thi tập của mình qua
các bài Dị Hương Xuân I, Khán Vân Hiên, Hư Hư Thực Thực với những câu
trích dẫn như sau:
Khách
địa xuân vô đào, mai
Thô
thi, đạm tửu nghinh lai vị hà?
Cái
hàn khô thụ tuyết hoa
Vọng
thiên lý ngoại sầu ga hương tình
(Dị Hương Xuân I)
Xứ
người xuân chẳng mai, đào
Thơ
suông, rượu nhạt đón chào chi đây?
Lạnh
lùng tuyết phủ ngọn cây
Trông
ngoài ngàn dặm thêm đầy sầu quê...
[Nguyễn Đức
Cung]
2. Về tính phong phú, đa điệu của thơ Hạt Cát
tôi xin trích ra đoạn này:
"Trong
lãnh vực thi ca, việc đặt ra luật lệ xét cho cùng không phải là việc
vô ý thức, nhưng nói như nhà văn Nguyễn Hiến Lê thì luật lệ, qui tắc
là "để điều khiển cái hứng, giúp cho lối phô diễn được hoàn
hão, đẹp đẽ hơn, du dương hơn; chứ không phải để bóp chẹt cái hứng.
Phải biết vứt bỏ luật lệ để giữ cái hứng, chứ không nên hy sinh cái
hứng cho luật lệ. Thơ là để diễn tả nỗi lòng; diễn tả bằng hình
thức nào cũng được: Cổ phong, thể Luật ... Hễ tả mà cảm động được
lòng người là mục đích đã đạt. Thơ không phải là những tiếng ghép
cho thành văn, cho có đối, cho đủ bằng trắc ..."
[Nguyễn Hiến Lê, sách đã dẫn]
Đoạn văn này áp dụng đúng cho thơ của Hạt Cát.
3. Về tính nhân bản:
Ngoài sự mượt mà, phong phú, đa dạng trong thơ
của Hạt Cát còn đầy ắp tình người. Tôi xin dẫn những đoạn thơ sau
đây để minh chứng.
a.
Dạ Dạ
Dạ
dạ phong sàng thượng
Bán
tịch bán liêu nhai
Tương
luân đài tảo mộng
Thi
cổ thiểu đa sầu
Đêm Đêm
Đêm
đêm tôi trải lên giường
Nửa
chăn chiếu nửa phố phường quạnh hiu
Loanh
quanh mộng mị rong rêu
Mấy
hàng thơ cổ ít nhiều bâng quơ
Khiến ta nhớ đến Hàn Ốc hay Hàn Ác (844-923) tự Trí
Nghiêu, thi nhân thời Vãn Đường
Xuân khuê kỳ 2
Nhân
uân trướng lý hương,
Bạc
bạc thụy thời trang.
Trường
hu giải la đới,
Khiếp
kiến thượng không sàng.
Dịch nghĩa:
Trong
màn hương thoang thoảng dễ chịu,
Ăn
mặc sơ sài để ngủ.
Cởi
dải áo, than dài một tiếng,
Vì
thấy cái giường không mà kinh hãi.
Bản dịch của Trần Tuấn Kiệt:
Thoang
thoảng mùi hương quanh trướng gấm,
Đâu
cần giấc ngủ với y trang?
Tháo
dải lưng quần, ôi lạnh lẽo!
Giường
kia sao rộng, rộng thênh thang!
[Thivien
net]
b.
Xin trích ra thêm 4 câu cuối bài thơ đầy tình
người Thu Mộ Phùng Y (Khâu Áo Chiều Thu)
Tọa
khán tiêu tiêu diệp
Giáng
hạ tâm hoang vu
Cổ
độ văn chiêu tập
Nhất
chẩm sầu thiên thu
Em
ngồi trông chiếc lá
Rơi
xuống lòng hoang vu
Nghe
nghìn xưa góp lại
Một
gối sầu thiên thu
d.
Đặc biệt nhân bản nhẩt theo chủ quan tôi là tứ
tuyệt này, đầy tính humour - hóm hỉnh
Thả Tiếu
Nhân
sinh hàm khổ lụy
Y
thực tích bại thành
Phóng
thủ vạn sự tuyệt
Đắc
tiếu, tiếu nhất thanh!
.
Kiếp
người nhiều khổ nhọc
Cơm
áo lắm được thua
Buông
tay muôn việc hết
Đùa
được thì cứ đùa!
VÀI
BÀI THƠ TIÊU BIỂU
Mời bạn đọc vài bài thơ tiêu biểu của tác giả Hạt
Cát trong thi phẩm Bạch Vân Vô Sở Trú.
(Ảnh
thơ Lăng Già Nguyệt)
1.
Lăng
Già Nguyệt
Lăng
Già nhất phiến nguyệt,
Kim
cổ vọng du du.
Sát
na sinh trụ diệt,
Hà
xứ ngã chân như?
Trăng
Đỉnh Lăng Già
Mảnh
trăng treo đỉnh Lăng Già,
Mang
mang kim cổ ta bà vọng chân.
Sanh
trụ diệt sát na tâm,
Biết
đâu nguồn cội truy tầm cái ta?
(Ảnh thơ Cầm Nguyệt)
2.
暮鳥
孤鳥高飛何處
烟霜歲月浮游
暮風虛無久叫
已心一日天秋
Mộ Điểu
Cô
điểu cao phi hà xứ,
Yên
sương tuế nguyệt phù du
Mộ
phong hư vô cửu khiếu
Dĩ
tâm nhất nhật thiên thu!
Cánh
Chim Chiều
Về
đâu một cánh chim bay,
Khói
sương lãng đãng tháng ngày phù du,
Gió
chiều gọi mãi hư vô,
Nghe
lòng như đã thiên thu một ngày.
3.
江月
江流重浪白
雲水月終深
茫茫愁輪落
杜宇惱鄉心
Giang
Nguyệt
Giang
lưu trùng lãng bạch,
Vân
thủy nguyệt chung thâm.
Mang
mang sầu luân lạc,
Đỗ
Vũ não hương tâm.
Sông
Trăng
Sông
trôi ngàn sóng bạc,
Mây
nước một màu trăng.
Mênh
mông sầu luân lạc,
Hồn
nước quốc kêu thương.
4.
瓊花
素瓣抱貞香
知音會一方
為君開半夜
不讓蝶蜂詳
Quỳnh Hoa
Tố
biện bão trinh hương,
Tri
âm hội nhất phương.
Vị
quân khai bán dạ,
Bất
nhượng điệp phong tường.
Hoa Quỳnh
Tay
ngà ôm ấp hương trinh,
Cùng
tri âm một tấm tình gửi trao.
Vì
người nở giữa đêm thâu,
Không
cho ong bướm lao nhao tỏ tường.
(Ảnh thơ Chân Mộng)
HỌA THƠ
Cảm xúc những vần thơ mượt mà như tơ, tôi xin
được họa theo vài bài của nữ sĩ:
1. Họa bài Giang Nguyệt
Trầm Tư Bên Sông
Tóc
rồi sương điểm theo năm tháng
Sắc
cũng tàn phai theo tuổi đời
Ai
xui trăng rụng trên dòng lắng
Một
kiếp người thôi thế nhân ơi!
(Nguyên Lạc)
2. Họa bài Mộ Điểu
Cánh Vạc Chiều
Rụng
chiều rải nắng vàng mơ
Sóng
dờn dợn sóng khói mờ mờ phai
Lặng
lờ cánh vạc mồ côi
Thời
không tĩnh lặng bóng đôi với chùa
Giật
mình chuông động ngàn xưa
Nhân
sinh bể khổ mây đưa lưng trời
Trầm
luân hiện kiếp người ơi
Sinh
ly tử biệt
Biết
rồi kiếp sau?
(Nguyên Lạc)
3. Họa hai câu thơ bài Vô Đề 1
Trăm Năm
Quê
người nửa kiếp phù sinh
Trăm
năm biết nắm xương mình gởi đâu?
(Hạt Cát) *
Hợp
tan đời đó bể dâu
"Phù
sinh bào ảnh giọt sầu sương tan"
Lời
kinh Không Sắc thế gian
Thôi
thì phần mộ chẳng màng trăm năm!
Bụi
tro theo gió mây ngàn
Trùng
khơi sóng biển quê hương trôi về
Biệt
ly chẳng vẹn câu thề
Quê
ơi. xin nhận bụi mê hồn này!
.........
*
Bán sinh hành lữ đoản/ Hà xứ ngã chung khâu? - Vô Đề 1
***
Và nhiều, nhiều nữa những câu thơ mượt mà, sâu lắng...
Xin trân trọng giới thiệu tập thơ đến các bạn, hãy tìm và thưởng thức.
Nếu muốn đọc toàn tập thơ Bạch Vân Vô Sở Trú (Mây Trắng
Thong Dong) hãy vào trang nhà Online của tác giả ở địa chỉ: Hatcat.net
Nguyên Lạc