Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Thursday, September 8, 2016

ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ VỀ THƠ TÚ XƯƠNG - Tham luận của Ts. Nguyễn Đình Nguộc


        
                          Nhà thơ Tú Xương


           ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ VỀ THƠ TÚ XƯƠNG

Bài tham luận tại Hội thảo khoa học "Tú Xương với thơ Đường luật Việt Nam"

Một lần về quê Nam Định, đến thắp hương viếng mộ Nhà thơ Tú Xương trong công viên bên hồ Vị Xuyên, chúng tôi gặp mấy đoàn khách từ miền Nam và miền Trung đang dâng hương trên mộ Cụ. Thật xúc động! Tôi chợt nhận ra những bông hoa tươi và nhiều chân hương mới thắp trên phần mộ Thi nhân chắc hẳn là tấm lòng của những người hâm mộ thơ trào phúng Tú Xương. Từ đó thôi thúc tôi đi tìm hiểu vì sao thơ trào phúng Tú Xương lại có sức sống lâu bền đến vậy?
1.Thơ Đường luật trào phúng tạo nên danh tiếng thi sĩ Tú Xương.
Như chúng ta đều biết Nhà thơ Tú Xương (1870-1907) từ trần khi mới 37 tuổi nhưng những bài thơ Đường luật trào phúng của Cụ đã được hậu thế đánh giá rất cao. Nhà thơ Tản Đà tâm sự với thi sĩ Xuân Diệu: “Trong các thi sĩ tiền bối, phục nhất Tú Xương”. Nhà văn Nguyễn Công Hoan suy tôn Cụ là “Bậc thần thơ, thánh chữ”. Nhà thơ Xuân Diệu tặng Cụ câu thơ được nhiều người yêu thích:”Ông nghè, ông thám vô mây khói/ Đứng lại văn chương một Tú tài”... Thơ của Cụ đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Không ít các thế hệ người Việt Nam yêu thích thơ trào phúng của Cụ, nhiều người đã thuộc, đặc biệt là các bài thơ: “Thương vợ”, “Chúc Tết”, “Đêm buồn”, “Mùa nực mặc áo bông”, “Khoa thi”, “Chừa”... Người dân Nam Định tự hào về Thi sĩ Tú Xương và miền văn hóa Non Côi- Sông Vị! Thơ trào phúng Tú Xương  đã góp phần làm giàu thêm kho tàng văn học Việt Nam với dòng thơ trào phúng độc đáo mà sau này nhiều người nối tiếp, tiêu biểu là nhà thơ Tú Mỡ. Nhà thơ Xuân Diệu xếp Tú Xương thứ 5 sau bốn thi hào dân tộc: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương và Đoàn Thị Điểm (Thơ Tú Xương- Vũ Hạnh Hiên tuyển chọn).
Đường phố tại Sài Gòn, Nam Định và nhiều thành phố khác ở nước ta đã được vinh danh mang tên Nhà thơ.
2.Thơ Đường luật trào phúng đã được Tú Xương sử dụng như một công cụ sắc bén phản ánh hiện thực phê phán xã hội đương thời.
Cuối thế kỷ thứ XIX, đầu thế kỷ thứ XX khi thực dân Pháp chiếm xong các tỉnh phía Bắc nước ta, văn hóa phương Tây tràn vào, nền thi cử Khoa bảng ngàn năm đứng trước sự thoái trào không thể cưỡng nổi. Chữ quốc ngữ ra đời báo hiệu một nền văn hóa mới bắt đầu. Những phong tục, tập quán, đạo đức xã hội phong kiến bao đời tồn tại ở nước ta đã và đang bị thách thức... Là Khóa sinh, từ nhỏ được đào tạo theo con đường Khoa bảng, đã đỗ Tú tài Nho học, lại “văn hay chữ tốt” nên Tú Xương rất thạo thơ Đường luật.
Thơ Tú Xương chủ yếu viết theo thể Đường luật bao gồm thơ “thất ngôn bát cú” và thơ “tứ tuyệt”. Thơ Đường luật là thể thơ bác học, niêm luật chặt chẽ, ý tứ sâu xa các bậc trí thức đương thời thường dùng xướng họa về những lĩnh vực cao sang của giới thượng lưu quyền quí. Nhưng nhà thơ Tú Xương  đã sử dụng thơ Đường thật tài tình khi viết về đời thường với bao trăn trở, lo toan; những “thói đời” ngang trái, hợm hĩnh, bất công... qua những vần thơ trào phúng, trữ tình. “Trâu mừng ruộng nẻ cày không được/ Cá sợ ao khô vượt cả rồi” (Đại hạn); “Van nợ lắm khi tràn nước mắt/ Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi” (Cái khó); “Một tuồng rách rưới, con như bố/ Ba chữ nghêu ngao, vợ chán chồng” (Mùa nực mặc áo bông); “Nhà kia lỗi phép con khinh bố/ Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng” (Đất Vị Hoàng); “Kẻ yêu người ghét, hay gì chữ/ Đứa trọng thằng khinh chỉ vì tiền” (Thói đời)... đọc lên ta cảm thông với nhà thơ và rộng ra là với người dân trong xã hội đương thời phải sống những tháng năm khó khăn, cơ cực dưới hai tầng áp bức của thực dân Pháp và vua quan nhà Nguyễn. Những câu thơ: “Xe kéo rợp trời quan Sứ đến/ Váy lê quyét đất mụ đầm ra” (Khoa thi); “Hà Nam danh giá nhất ông cò/ trông thấy ai ai chẳng dám ho” (Ông cò); “Tri huyện lâu nay giá rẻ mà/ Ví vào tay tớ quyết không tha” (Bỡn ông Phó bảng); “Chữ “thôi” chữ “cứu” không phê đến/ Ông chỉ quen phê một chữ “tiền” (Bỡn Tri phủ Xuân Trường); “Sơ khảo phen này bác cử Nhu/ Thực là vừa dốt lại vừa ngu” (Ông cử Nhu); “Nghe văn mà gớm cho văn nhỉ/ Cờ biển Vua ban cũng lạ đời!” (Tiến sĩ mới)... khi đọc nghe phảng phất tiếng cười mỉa mai, chua chát thân phận của người dân mất nước và phê phán những thói hư, tật xấu, nhiễu nhương... trong xã hội đương thời. Bằng nghệ thuật thơ Đường, những cặp câu thực, câu luận đối nhau chan chát càng tăng chiều sâu và hiệu quả của tứ thơ tạo nên tiếng cười riêng có của mỗi bài.
3.Những sáng tạo từ ngữ độc đáo của Tú Xương góp phần làm giàu ngôn ngữ tiếng Việt.
Nghiên cứu thơ Tú Xương điều đầu tiên chúng ta nhận thấy công lao sáng tạo của Nhà thơ đã đưa nội dung trào phúng vào thơ Đường luật thông qua những từ ngữ gần gũi với đời thường nên dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thuộc, có sức lan tỏa trong nhân dân. Văn thơ của Cụ nổi tiếng khắp vùng nhưng Tú Xương không có duyên với thi cử, “ học tài thi phận”, tám lần đi thi chỉ một lần đỗ Tú tài. Phải chăng đây là duyên nợ để Tú Xương trải lòng, sáng tạo nên những bài Đường luật trào phúng “ để Đời”? Trộm nghĩ, nếu Cụ đỗ Đại khoa, chắc gì có được thi sĩ Tú Xương với những bài thơ trào phúng nổi tiếng để lại cho hậu thế?
Về ngôn ngữ, thơ Tú Xương có những từ ngữ sáng tạo độc đáo riêng có của Nhà thơ không lẫn vào đâu được, tạo nên thương hiệu Thơ Tú Xương. Trong bài thơ Đêm buồn có 2 câu thơ độc đáo, được nhiều người đọc các thế hệ tâm đắc:
“Đêm nảo, đêm nao tớ cũng buồn”
“Nhạt phèo quang cảnh bóng trăng suông”.
Câu mở đề bài thơ Đi thi: “Tấp tểnh người đi tớ cũng đi” hay câu: “Ông lão nhà quê tang tảng dậy” (Bài Mưa tháng bảy)... có những từ láy đầy dụng ý tạo nên điểm nhấn của câu thơ. Một số bài thơ Tú Xương sử dụng nghệ thuật tu từ tạo nên sự khác lạ làm tăng khả năng hấp dẫn của câu thơ: Bài thơ Cảm Tết có câu “Thôi thế thì thôi đành Tết khác”, hoặc câu kết bài Gái buôn “Chẳng biết rằng dơ dáng dạng hình”...
Đọc thơ Tú Xương tôi rất thích hai câu đề của bài Than cùng:
“Lúc túng toan lên bán cả Trời/ Trời cười:- Thằng bé nó hay chơi”.
Đây thực sự là câu thơ trào phúng đặc sắc riêng có của Tú Xương. Đọc câu thơ đầu ta liên tưởng đến các câu ngạn ngữ như: “Đói ăn vụng, túng làm liều”, “Bán Trời không văn tự” khi nói về người nào đó túng bấn, làm liều, nói năng khoa trương, không thể tin được. “Toan lên” tức là định lên, chưa lên. Khi đã túng bấn, thiếu tiền thì luôn tính toán, cái gì cũng bán miễn là có tiền, đi đâu cũng đi, kể cả “lên Trời” để thỏa cơn khát tiền? Câu sau vừa trữ tình, vừa trào phúng: “Trời cười:- Thằng bé nó hay chơi”. Đã là trẻ con thì ai thèm chấp? Chắc trước khi nói “Trời” vừa lắc đầu, vừa cười đầy thông cảm. Và người đọc không thể nhịn cười khi “nghe” câu hài hước của Trời.
Còn nhiều, rất nhiều những câu thơ hay, những từ ngữ lạ đầy sáng tạo, ngẫu hứng và trữ tình trong 170 bài thơ của Tú Xương mà tôi đã đọc. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên bậc Túc Nho danh tiếng như Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu sau khi đọc thơ cụ Tú Vị Xuyên đã thốt lên:“Trong các thi sĩ tiền bối, phục nhất Tú Xương” (Lời Xuân Diệu). Tôi tâm đắc ý kiến Nhà văn Nguyễn Khôi:“Về nghệ thuật thơ ca, Tú Xương đã đưa những ngôn ngữ đời thường (dân gian) vùng quê Nam Định - rộng ra là vùng đồng bằng sông Hồng...vào văn chương bác học (thơ Đường luật) tạo nên một giọng điệu thơ riêng,với  hình tượng thơ rất sống động thành "thương hiệu thơ Tú Xương "bất hủ cùng non sông Tổ Quốc Việt Nam yêu quý của chúng ta”.
Ngày 29 tháng 01 năm 2017 kỷ niệm 110 năm Thi sĩ Tú Xương từ trần. Bài viết như một “nén hương tâm” tưởng niệm Nhà thơ Trần Tế Xương- Niềm tự hào của quê hương Nam Định với Non Côi- Sông Vị mến yêu!

                                                         Hà Nội, cuối Thu 2016
                                                        Ts. Nguyễn Đình Nguộc

READ MORE - ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ VỀ THƠ TÚ XƯƠNG - Tham luận của Ts. Nguyễn Đình Nguộc

CHÙM THƠ HOÀNG YÊN LYNH



              Nhà thơ Hoàng Yên Lynh



TIẾNG QUÊ    

Tôi trở về tắm mát với sông quê
Bến đò xưa của một thời tuổi trẻ
Bạn bè tôi đếm kẻ còn người mất
Đứa oằn vai mòn mỏi bước tha phương .

Tôi trở về quanh co con phố nhỏ
Cô hàng quen giờ trôi dạt phương nào
Tiếng chuông chùa  vang vọng gió lao xao
Chạnh lòng tôi khúc tình ca xa xứ .

Giọng ai hò âm vang thời xa cũ
Tiếng người quê da diết với người quê
Tôi đi lạc nửa đời nơi xứ lạ
Giữ riêng mình tiếng chi rứa mô tê .

Tôi trở về cơn gió Lào quá vội
Như thuở nào trong bão lửa ra đi
Đôi mắt ấy cuối trùng dương vời vợi
Có nao lòng thầm gọi cố nhân ơi .

Đời lỡ muộn vẫn lần về cố quận
Nén hương lòng xin tạ lỗi tình quê
Ơi người đi canh cánh một lối về
Vầng trăng cũ chao nghiêng bờ bến đợi .


ĐÔNG HÀ         

Xa Đông Hà đã mỏi mòn cánh hạc 
Vẫn nao lòng gặp lại tiếng người xưa
Con phố nhỏ thân quen từng ánh mắt
Lối đi về se lạnh những đêm mưa.

Xa Đông Hà giữa ngày bom đạn lửa
Nhớ đời mình còn có một cố quê
Bên cánh võng đong đưa lời mẹ kể
Núi vọng phu Ái Tử ngóng tin chồng.

Đời cứ mãi ngược xuôi cùng năm tháng
Tàn binh đao lưu lạc chốn núi rừng
Đêm trở mình mà ngỡ kiếp lưu vong
Quê hương đó sao đã thành xa lạ.

Đâu tri âm đâu cố nhân biền biệt
Bao bạn bè đồng đội đã về đâu
Vầng trăng cứ quặn lòng ta da diết
Soi tình ta sương phủ trắng mái đầu.

Xa Đông Hà mòn gót chân phiêu bạt
Quê xưa còn một nửa mảnh trăng nghiêng
Ở nơi đó mắt ai cười lúng liếng
Con sông xưa bến nước đợi ai về.

Ai có về có ai chờ ai đợi
Đời bôn ba căn cước vẫn Đông Hà
Tiếng quê mình ngân mãi khúc tình ca
Tình đất nước ơi tình người cố cựu.

                           Hoàng Yên Lynh

READ MORE - CHÙM THƠ HOÀNG YÊN LYNH

BIẾT MÀ TRÁNH KHÔNG KHỎI - Thủy Điền

        
               Tác giả Thủy Điền


   

   BIẾT MÀ TRÁNH KHÔNG KHỎI
                                                   
   Tao đã nói cách đây hơn một năm rồi, là cả Bản nầy không còn yên ổn như ngày xưa nữa. Tất cả phải cẩn trọng và phải nhớ rằng: Cảnh sát bao giờ cũng đến sau vụ việc. Thế mà không ai nghe tao hết, cứ chóng, cãi lại, bảo bà con Bản mình và láng giềng rất chân chất và tốt bụng lắm và bây giờ cả nhà bị giết hết. Ai đúng, ai sai ai tốt, ai xấu.

    Nói chung bà con trong Bản nầy xưa nay phải nói là rất tốt, bà con sống rất nhiệt tình và hiền hậu, tuy mỗi nhà ở cách nhau rất xa, nhưng khi có việc gì chỉ cần bắn lên không một phát súng là họ biết có hữu sự và tìm đến ngay.
 
    Sau ngày giải phóng chừng chục năm, tình hình Bản vẫn còn khá nề nếp, sau đó có những đoàn người từ miền xuôi lên khám phá cuộc sống của những người trên miền cao- rồi đến du lịch miền núi- và dần dần đông người hơn. Hồi đầu toàn là những người thật, tốt đến Bản với mục đích rõ ràng. Nhưng sau mười năm ấy đám lưu manh, ma le, giang hồ tứ xứ thừa cơ hội len lỏi vào đoàn người ấy dùng tiền móc nối đám thanh niên Bản làm những điều tán tận lương tâm. Vì nghèo xưa nay, bỗng dưng có người mang tiền đến và cần giúp những công việc rất nhẹ nhàng. Thử hỏi ai mà không thích, còn hơn hàng ngày phải lên rừng, lên nương đốn củi, hái măng mà chẳng có đồng bạc nào. Chúng dụ dỗ ăn chơi, tập tành hút sách làm đủ thứ chuyện, càng ham vui càng ngày càng lún sâu vào vũng lầy tội lỗi. Chúng bắt đám thanh niên vận chuyển hàng quốc cấm vượt biên và bắt gái bán sang nước ngoài. Nếu không làm theo thì không có tiền để phục vụ cho sự trụy lạc ấy.
  
   Cuộc làm ăn đen tối ấy được năm năm thì bị động ổ, Cảnh sát, Công an biết được truy lùng và chúng biến mất, chỉ còn trơ lại đám thanh niên tàn dư nghiện ngập không lối thoát. Nhà nước thấy vậy cho đi cai nghiện rồi trả về địa phương, nhà nước nghĩ rằng đám thanh niên nầy sẽ hoàn lương và trở về cuộc sống bình thường như xưa. Nhưng họ quên rằng cái gì còn bỏ, còn quên được. Riêng kẻ nghiện thì đừng hòng, dẫu có cai năm lần , bảy lượt đi nữa thì ngựa vẫn quây về đường cũ và chờ ngày về chầu Diêm chúa.
  
   Trong số đó có thằng Sáng Lũ Sành, nó là người hiền từ nhất trong Bản, từ ngày lâm vào cảnh ấy và trở về nó như con ma ẩn hiện rất nguy hiểm. Sau mấy tháng từ trại cai nghiện ra, ai ai cũng ngỡ nó lo lên nương làm rẩy phụ bố mẹ nó. Ai ngờ ! Được mấy hôm nó lẫn vào nhà thằng A Lèng không biết định cướp hay hảm hiếp vợ thằng A Lèng. Vô tình thằng A Lèng lên nương về đến bắt gặp định đập cho nó một trận, nhưng nó cao giò chạy mất. Thằng A Lèng thưa công an xã, bắt nó, nó khai nó chẳng làm gì chỉ ghé thăm nhà A Lèng mà thôi. Còn vợ A Lèng khai rằng nó vỡ trò sàm sở. Cuối cùng Công an tha tội nó và nghe loáng thoáng mấy hộ trên, đám bạn của nó cũng vỡ những trò thật oái oăm, nhưng chưa đến nổi. Bởi thế, kể từ đó bố thằng A Lèng hay dặn dò là Bản mình dạo nầy cần cẩn trọng đấy, thế mà chẳng ai thèm nghe và còn cãi lại những lời ông khuyến cáo.
  
   Đêm 28 rạng 29 giữa khuya trời đen như mực, nó lợi dụng lúc thằng A Lèng và bố nó đi tiệc cưới ở Bản xa qua đêm, nó lẻn vào nhà giết chết vợ thằng A Lèng và hai đứa con lớn chỉ chừa một đứa nhỏ hai tuổi, lục lạo hết nhà cướp 15 triệu đồng, sau đó biến mất vào rừng trốn.
  
   Ngày hôm sau cha con A Lèng về đến, tá hỏa, đứa nhỏ hai tuổi ngồi đói, khóc không ra tiếng, ba xác chết nằm máu lên láng. Nó chạy báo Công an, Công an đến ăn kết và mở cuộc điều tra, truy tầm tìm kẻ xác nhân. Gần một tháng trời Công an không tìm ra thủ phạm, chán nản, chuyện động trời, động đến tai Chính phủ và Chính phủ đề nghị Công an tỉnh phải có biện pháp tức khắc. Ngay sau khi có lệnh, sở Công an đã tung ra hai trăm nhân viên trải rộng khắp Bản, gần ba tuần lễ mà vẫn không tìm thấy xác thủ. Một đêm nó hết lương thực mò về nhà, giữa đêm khuya, dọc đường nó bị Công an chận bắt, tình nghi, đem về sở điều tra và cuối cùng nó nhận tội là đã giết cả nhà thằng A Lèng cướp 15 triệu vì nghiện quá không có tiền để hút.
 
   Khi cuộc điều tra hoàn tất, nó được đưa ra tòa và bị kết án tử hình. Toà vừa kêu án xong bố thằng A Lèng khóc, la to, tôi đã nói trong những cuộc họp dân Bản rồi, mà bà con cãi và chóng lại tôi, cho tôi là người xấu miệng, xấu bụng, giờ bà con thật sự sáng mắt chưa…..?

                                                                              Thủy Điền
                                                                             05-09-2016

READ MORE - BIẾT MÀ TRÁNH KHÔNG KHỎI - Thủy Điền

CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ - Truyện ngắn Đặng Xuân Xuyến


             


           CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ
                                  Truyện ngắn Đặng Xuân Xuyến 

Hắn không biết bây giờ đã mấy giờ, càng không nhớ hắn đã nốc bao nhiêu ly rượu. Hắn không nhớ mà cũng chẳng cần nhớ điều đó làm gì. Mọi người nhìn hắn như nhìn một quái vật. Không sao, chẳng nghĩa lý gì với hắn. Đời mà. Phù thịnh chứ ai phù suy. Hắn đã từng vụt sáng chói lóa trong mắt mọi người và bây giờ, hắn tiều tụy, thảm thương còn hơn mèo đi kiết. Hắn không nuối tiếc thời vàng son oai liệt, cũng chẳng ân hận những việc đã làm. Với hắn, cuộc đời như một manh chiếu bạc, người thắng kẻ thua là chuyện thường tình. Thằng nào ngu thì chết. Vậy thôi. Hắn ngu thì phải thua cuộc. Trách ai? Hận ai? Giờ đã là kẻ thất thế, có nói cũng chẳng ai tin, chỉ tổ làm trò cười cho thiên hạ. Hắn không thích phân trần, càng không thích nhận ở thiên hạ lòng trắc ẩn, sự ban ơn, thương hại. Hắn còn nhiều việc phải làm, đâu rảnh rang mà ngồi oán thán thiên hạ...
Chiều nay, hắn mới ngộ ra một điều: Không phải sự thật bao giờ cũng được trân trọng. Không phải lòng tốt bao giờ cũng được đáp đền bằng tình nghĩa. Vì thế, hắn thề sẽ không bao giờ tốt với ai nữa, sẽ không bao giờ tin ai cả. Cái giá hắn phải trả đã quá đủ để cạch đến già tính thương người, lòng trắc ẩn đến dớ dẩn của hắn.
Chiều qua, hắn tìm thằng bạn nối khố để đòi lại số tiền hắn cho vay mấy năm trước. Thằng bạn nhướng đôi lông mày thô đậm, xoăn tít, nhìn hắn từ đầu xuống chân rồi hô hố cười, bảo hắn là thằng khùng, nếu đói quá, không có chỗ xoay sở thì cầm lấy vài chục nghìn mà đắp đổi qua ngày, việc gì phải diễn trò ngớ ngẩn như thế. Hắn nóng mặt mắng thằng bạn là đồ đểu... Thằng bạn trề môi, lu loa: - Bà con vào đây mà xem, một thằng đến đôi dép cũng không có mà đi lại đòi là chủ nợ của tôi cơ đấy?
Khốn nạn thân hắn. Đã cố phân trần, cố giải thích đầu đuôi câu chuyện nhưng chẳng ai thèm tin lời hắn. Thiên hạ đâu có dở hơi? Họ còn thừa quá nhiều minh mẫn để tranh nhau chỉ ra ngữ hắn chỉ là thằng Chí Phèo hiện đại. Trắng đen quá rõ. Một ông chủ giàu có nhất vùng mà lại nợ tiền thằng cha căng chú kiết? Chỉ có thằng điên mới tin điều ấy, mà bọn này đâu có điên?! ..
Được thể, thằng bạn hất hàm về phía tủ bát, bảo hắn đập ra lấy vài mảnh mà rạch mặt.... Hắn tím mặt vì tức. Hắn sấn đến túm ngực, tưởng sẽ đấm nát cái mũi ngắn và thấp tè của kẻ “xôi thịt” cho hả giận, nhưng không, hắn chỉ khạc bãi đờm rồi nhổ tọt vào mõm thằng bạn. Đúng, hắn sẽ chẳng làm được gì thằng bạn. Hắn không có giấy thằng bạn nhận nợ. Hắn không có người làm chứng. Hắn chỉ có niềm tin vào tình người - mà thứ đó thì giá lại quá rẻ rúng, cũng đảo điên bát nháo khó lường. Vì thế, đương nhiên hắn phải thua thằng bạn.
Đến đầu ngõ, vợ thằng bạn đứng đợi sẵn, năn nỉ xin hắn bỏ qua chuyện vừa rồi vì “thời gian qua nhà em gặp nhiều chuyện buồn quá.”. Hắn sẵng giọng: - “Chuyện nó vay tiền của tôi cô cũng biết, sao lúc nó chửi tôi cô lại lảng tránh như vậy? Hay là cô với nó rắp tâm chiếm đoạt?”. Người đàn bà ấy chỉ biết cúi đầu, ngân ngấn nước mắt: - “Ơn của anh lớn như trời biển. Số tiền đó, em hứa sẽ lựa lời để chồng em thu xếp trả. Thực ra, anh ấy đâu phải loại người như thế...”. Hắn cười gằn và định nói toẹt ra chuyện thằng chó chết ấy đã bỏ hàng lậu vào kho hàng của hắn rồi ngầm báo công an để hắn thành kẻ vỡ nợ, tù tội nhưng nhìn thấy khuôn mặt vàng ủng, nhàu nát như quả táo héo của vợ thằng bạn, hắn thấy nao lòng. Người ta cũng chẳng sung sướng gì khi phải làm vợ thằng mất dạy ấy. Cũng tủi nhục lắm chứ. Cũng ê chề lắm chứ..... Nghĩ thế, hắn đành ngậm miệng mà quay lưng rảo bước.

Hắn đi nhưng chẳng biết sẽ đi đâu, về đâu? Liệu hắn còn chỗ nào để tá túc?
Có đấy. Hắn vẫn còn ngôi nhà nho nhỏ ở ngoại ô, trước khi “nhập trại” hắn đã giao cho thằng em kết nghĩa trông coi, giờ hắn có thể đường đường chính chính về ngôi nhà của mình nhưng chiều qua, hắn nghe phong phanh ngôi nhà đã đổi chủ. Mọi người không biết chủ mới là ai nhưng thằng em kết nghĩa thì vẫn sống ở đó.
Nghĩ tới thằng em kết nghĩa, hắn nhoẻn miệng cười. Hình ảnh thằng bé đánh giày nhem nhuốc, ngập ngừng đưa trả ví tiền nhặt được làm lòng hắn ấm lại. Hắn rút ví thưởng cho nó trăm nghìn nhưng thằng bé khăng khăng không nhận. Nhìn khuôn mặt thông minh lanh lợi của nó, nhất là khi hiểu rõ hoàn cảnh gia đình thằng bé, hắn nảy ý định nhận nó làm em kết nghĩa. Ngoài việc chu cấp tiền ăn học, thi thoảng hắn lại dúi cho thằng em ít tiền gửi về đỡ đần bố mẹ. Thằng em cũng ngoan, ham học và chịu khó phụ việc trong nhà nên hắn thương, hắn chiều hết mực. Nhiều lần chứng kiến cảnh thằng bé chăm bẵm, chiều chuộng hai đứa con của hắn như người chú ruột, hắn mỉm cười, hài lòng với quyết định của mình.
 Hắn đã vui trở lại. Dù ngôi nhà vì lý do nào đó đổi chủ thì hắn vẫn tin thằng em kết nghĩa sẽ nhảy cẫng lên khi nhìn thấy hắn. Với niềm tin ấy, hắn phấn chấn rảo bước.
Chạy ra đón hắn không phải là thằng em kết nghĩa mà là con “Tình Nghĩa”. Thấy bóng người lạ, nó lao vút ra và ông ổng sủa. Hắn khẽ quát: - “Hư nào. Quên tao rồi sao Tình Nghĩa?” Con chó khựng lại rồi vẫy đuôi rối rít. Hắn lẩm bẩm: - “Thế chứ, phải nhận ra chủ cũ chứ. Bõ công tao yêu thương chăm sóc mày.”. “Tình Nghĩa” có vẻ mừng lắm, cứ chạy loăng quăng quanh hắn, thi thoảng lại nhoài hai chân về phía trước, cúi xuống ngửi ngửi rồi liếm liếm bàn chân lấm lem của hắn.
Một cảm giác thật dễ chịu.
Hắn cúi xuống, vuốt nhẹ hàng lông đen mượt, vỗ vỗ vào lưng “Tình Nghĩa”, nựng nó như nựng một người bạn: - “Vui lắm hả? Thế chủ của mày đâu? Chắc vẫn còn đang ngủ chứ gì? Thôi, vào đánh thức chủ mày dậy, bảo rằng tao đã về.”. “Tình Nghĩa” nằm im, đuôi ve vẩy ra chừng mừng lắm rồi chạy tót lên trước. Được một đoạn lại vòng lại rúc rúc đầu vào chân hắn, rồi lại vọt lên trước như giục hắn nhanh bước vào nhà.
Nhìn lướt căn phòng. Hắn ngạc nhiên vì sự thay đổi. Bức chân dung của hắn đã bị tháo bỏ, thay vào đấy là bức họa thằng em đang phì phèo điếu thuốc. Hắn khẽ thở dài.
Hắn ngồi quãng nửa tiếng đồng hồ thằng em mới uể oải ngồi dậy. Khuôn mặt của nó vẫn hồng hào béo tốt nhưng dưới mắt, nơi ngọa tàm thì thâm quầng, đen kịt, dấu hiệu của những ngày ăn chơi trác táng. Hắn lại khẽ thở dài.
Vươn vai. Lững thững ra bể nước súc miệng òng ọc rồi nhổ toẹt một cái, thằng em mới thủng thẳng: - “Anh về bao giờ vậy? Mà sao anh lại ăn mặc bô nhếch bô nhác thế. Thiên hạ người ta cười chết.”.
Hắn thật thà: - “Ừ, biết thế nhưng hoàn cảnh của anh giờ bi đát quá nên đành vậy. Mà... Em có khỏe không? Thời gian qua em sống tốt chứ?”
Thằng em vắt chân ngồi xuống ghế, ngáp một cái rõ dài rồi mới nhát gừng từng chữ: - “Cũng tàm tạm. Chắc thời gian qua anh sống sung túc nhỉ!”
Hắn bực. Hắn định bạt tai thằng em kết nghĩa nhưng nghĩ tới hoàn cảnh hiện tại, hắn bấm bụng cố nhịn. Hắn hiểu, thằng em đã thay đổi, cũng rặt phường giá áo túi cơm. Hắn tặc lưỡi: - “Thôi thì cũng là do số phận. Cung nô của hắn chẳng ra gì thì đành chấp nhận. Đã Tham Lang hãm địa lại đồng cung với Thiên Diêu hãm địa thì đời hắn tàn vì chữ tình là phải.”. Hắn yêu và gìn giữ thằng em còn hơn một báu vật. Hắn yêu sự “tinh quái” rất trẻ thơ của nó mà vắt mình ra để chằm bặp, dạy bảo. Đời hắn đã thiếu thốn tình cảm nên hắn dồn cho thằng em kết nghĩa đến cạn kiệt chữ tình. Vậy mà .... Hắn đã lầm, đã sai, giờ có ân hận cũng chẳng làm được gì.
Nghĩ cho cùng thì cũng tại hắn. Ngay ngày đầu “lượm” thằng em về nhà, vợ hắn đã cảnh cáo: - Anh thương người vừa phải thôi, kẻo lụy đến thân đấy. Em nhìn thằng này sẽ không có trước có sau. Đàn ông gì mà ngồi nói chuyện mắt cứ cụp xuống, không dám nhìn thẳng vào người đối diện. Lông mày lại thưa, sống mũi lại nghiêng lệch thì tử tế sao được. Hắn ôm vai vợ, cười ngất và quả quyết thằng bé sẽ ngoan, sẽ nên người, hắn không thể nhầm được... Cũng từ đó, nhà hắn thưa dần rồi mất hẳn nụ cười hạnh phúc của người vợ.
Đã ngán ngẩm về chuyện “ông em chồng” từ trên trời rơi xuống, vài tháng sau, vợ hắn càng thêm bực khi hắn lù lù dẫn vợ chồng thằng bạn về nhà tá túc. Tiền ăn đã không đóng một xu mà bữa nào thằng bạn cũng ỉ ôi cơm canh không vừa miệng. Vợ hắn cằn nhằn thì hắn lại nói câu cửa miệng: - Người ta có khó khăn mới phải ăn nhờ ở đậu. Em để ý làm gì. Vì giữ thể diện cho chồng, vì nấn ná giữ mái ấm gia đình nên vợ hắn nuốt giận. Tưởng vậy là đủ, ai dè hắn lại cao hứng lôi tiền ông nội để lại cho bọn nhỏ đưa thằng bạn vay mua nhà, mở xưởng. Không chịu được cái kiểu thương người một cách lập dị của chồng, vợ hắn nằng nặc nộp đơn ly dị. Hắn cố níu kéo nhưng không được. Vợ hắn đã hết khả năng chịu đựng. Hắn đành gom góp mua ngôi nhà này, để lại căn nhà của tổ tiên cho vợ con ở. Từ đó, hắn trở thành người độc thân bắt buộc. Từ đó, thằng em càng được hắn cưng chiều...
Đợi thằng em uống xong chén nước, hắn vào thẳng vấn đề:
- Chú à. Hoàn cảnh hiện tại của anh ...
Thằng em khoát tay ngắt lời:
- Thôi, khỏi cần. Em biết anh sẽ nói những gì. Vâng, nhà này mua bằng tiền của anh nhưng em đã làm sổ đỏ đứng tên là chủ sở hữu rồi. Anh khỏi bận tâm về ngôi nhà nữa. Còn số tiền em thu nợ giúp anh, em dùng để nuôi Tình Nghĩa ba năm cũng vừa vặn hết. Em cũng muốn trả Tình Nghĩa cho anh nhưng thấy tội nghiệp nó. Nếu theo anh, nó sống bằng gì. Em biết anh đang khốn quẫn nên em gửi anh 300 USD coi như trả nghĩa anh nuôi em ăn học nên người. Ôi! Mệt quá! Em đi ngủ đây. Xin lỗi anh. Em không tiễn anh được.
Kỳ lạ. Lúc trước hắn có vẻ bực bội, vậy mà giờ nghe những lời đểu giả của thằng em, hắn lại thản nhiên gõ gõ ngón tay xuống bàn, rồi nhếch miệng cười - Nụ cười vẫn vẹn nguyên nét kiêu bạc ngày nào.
Cầm vài tờ Mỹ kim thằng em vừa đưa, hắn xoè ra châm lửa đốt. Thằng em nhảy chồm lên giật lại: - Ông bị điên à?
- Ừ! Tao đang điên đây. Tao điên bởi nhân tình thế thái bạc hơn vôi.
Hắn cười khanh khách, cười như bị ma làm và bước thấp bước cao ra cửa. Tình Nghĩa nhìn theo hắn rồi hướng ánh mắt ai oán vào thằng em kết nghĩa. Thuận chân, thằng em đạp Tình Nghĩa văng ra cửa, chửi đổng: - Đồ chó. Biến theo chủ của mày đi cho có bạn. Tình Nghĩa chồm dậy, tru lên đau đớn rồi vọt nhanh ra cửa....

Hắn lại gọi rượu. Không biết ly này là thứ mấy? Hắn không biết say? Hay nỗi đau quá lớn không thể làm say hắn được? Kể cũng lạ, người khác uống rượu thì sắc mặt thay đổi, vậy mà hắn nốc tưng đấy ly rượu mà sắc mặt vẫn không thay đổi, trông có vẻ còn lãng tử hơn lúc chưa uống rượu.
Kéo cổ áo, hắn rúm ró người khi nghe tiếng chép miệng của cậu bé bán rượu: - Khổ thân. Tử tế đến ngu dại...
Hắn dướn mắt nhìn và cầm ly rượu.
Một bàn tay khẽ khàng đặt lên vai hắn.
Một giọng nói nhẹ như gió thoảng:
- Về nhà đi em. Khuya lắm rồi.
Nâng ly rượu, hắn nhếch miệng cười ruồi:
- Về ư? Về đâu? Có nhà đâu mà về?
- Về nhà anh.
- Nhà anh? Ha... ha...ha....Nhà anh.... Ừ, về nhà anh.... Ha...ha...ha...
Hắn cười.
Nghe buốt lạnh.


                                  *
- Vào đi! Mẹ kiếp, còn cái đếch gì để mà cao đạo? VIP đấy. Phục vụ đến nơi đến chốn nghe không!
Bình thản. Hắn lướt nhìn ả trút bỏ quần áo. Cơ thể ả lộ dần. Trắng phau. Không tỳ vết.
Mẹ kiếp. Con đàn bà thối thây. Hắn lầm bầm trong miệng rồi lạnh lùng nhìn ả như nhìn một đồ vật. Ừ. Khuôn mặt đẹp, da lại trắng hồng nhưng nhiều tàn nhang thế kia thì đĩ là phải. Tội nghiệp thằng chồng, đẹp trai và tài giỏi mà cam chịu để vợ cắm sừng. Nhưng cũng tại cả thằng chồng. Đàn ông gì mà mắt cứ lúng la lúng liếng, lại ướt át như mắt con gái, khuôn mặt lại đượm nét buồn thì cái chuyện vợ chồng có vấn đề là phải. Chả trách con vợ đĩ lên đĩ xuống, đĩ ngang đĩ dọc mà thằng chồng cấm dám ho he.
Hắn nhổ nước bọt rồi kéo ả vào lòng. Bàn tay hắn từ từ xục xạo. Đôi môi hắn điệu nghệ lướt trên cơ thể của ả. Từng thớ thịt của ả giật giật. Cơ thể ả nóng hổi. Bầu vú ả căng cứng. Mùi của lá sả, mùi của giống cái hòa quyện làm hắn chơi vơi. Một cảm giác thèm muốn trỗi dậy. Hắn muốn làm nhanh, thật nhanh cho đã cơn bức bối nhưng lời dặn của thằng dẫn mối buộc hắn gồng mình chống đỡ. Hắn phải cố kéo dài thời gian để ả bị kích thích sự thèm muốn. Ả là khách sộp, là kẻ lắm tiền nên ả có những sở thích quái đản. Ả trả tiền mua vui không theo kiểu bóc bánh trả tiền mà theo thời gian hành sự và sự lão luyện của thằng điếm đực bán mình. Thằng đàn ông bán thân nuôi miệng như hắn không được phép làm cho ả mất hứng. Muốn giữ được con mồi, hắn phải tạo được sự lão luyện hơn hẳn những thằng điếm khác.
Lảng tránh ánh mắt đờ đẫn, hoang dại của ả, hắn chợt thấy kinh tởm. Hắn kinh tởm ai? Kinh tởm con đàn bà đĩ thõa đang lên cơn động đực? Hay kinh tởm kiếp trai nhục nhã của kẻ bán mình? .... Mẹ kiếp. Con đàn bà mắc dịch. Con quỷ cái khoác bộ mặt xinh đẹp. Cái loại trốn chúa lộn chồng như mày đáng phải đem bỏ rọ trôi sông. Hắn chửi thầm trong bụng và bàn tay lấn sâu vào vùng nhạy cảm quyết liệt, thô bạo. Ả rú lên đau đớn và nhìn hắn bằng ánh mắt trách giận. Hắn chùng lòng, với bao thuốc và lập bập châm lửa...
Ả đẹp. Hắn cũng thích. Nhưng ả đĩ quá, dơ bẩn quá. Ả giàu tiền nhưng lại nghèo nhân cách. Ả được mẽ người nhưng nhân phẩm lại te tua, nhàu nát. Hắn khinh thường những kẻ như ả. Hắn không thích cuộc chơi này nhưng hắn không còn sự lựa chọn... Hắn cần tiền. Hắn cần tạo dựng lại cơ nghiệp. Hắn cần được tung hô, cần được trọng vọng như ngày trước. Đời hắn không thể thiếu thứ hàng xa xỉ đó. Hắn đã quen thế rồi. Hắn thề khi kiếm đủ tiền làm vốn, hắn sẽ hoàn lương, sẽ từ bỏ nghề nhục nhã, nhơ nhuốc này....
Bàn tay hắn lại nhẹ nhàng mơn trớn. Ánh mắt hắn lại lẳng lơ, vung vẩy. Và môi hắn, lại điệu đà đĩ bợm...
Ả rướn người, vít cổ hắn xuống và ngấu nghiến hôn. Đôi môi ả tham lam, nhích dần xuống vùng bụng săn chắc của hắn. Mồ hôi hắn rịn ra. Cơ thể hắn căng cứng. Bàn tay ả lập cập... Ả trườn người và cúi xuống... Hắn vội đẩy ả ra và hổn hển thở.
Ả cau mày khó chịu.
Một bàn tay nặng trịch ấn hắn ngồi xuống.
Một giọng nói sắc gọn, rờn rợn vang lên:
- Làm bổn phận đi. Muốn chết à?
Hắn cúi mặt.
Cánh cửa sau lưng bập khóa.


                        *
Quán đã vắng người. 
Hắn uể oải ngồi xuống và gọi rượu. 
Hắn muốn mượn rượu để quên đi tất cả.
Đời thật chó! Đã cướp đi tất cả những tốt đẹp của hắn. Canh bạc này, hắn thua đậm quá! Thằng bạn nối khố, thằng em kết nghĩa và cả con bồ của hắn... tất cả đều giả dối. Tất cả đều lợi dụng hắn, rồi đạp hắn lún sâu vào dòng xoáy nhơ bẩn. Hắn hận những kẻ đó! Hắn thề, ngày vinh quang trở lại, sẽ thẳng tay với những kẻ đã đẩy hắn vào thảm cảnh này. Hắn đau lắm! Trước kia, hắn là ông chủ thành đạt, sang trọng, giờ hắn là thằng điếm rẻ tiền, nhớp nháp. Tất cả đều do lũ dạ thú mặt người đó gây ra. 
Hắn tự nguyền rủa mình vì hắn đã thay đổi nhiều quá. Đến cả nụ cười, ánh mắt của hắn cũng bị biến dạng. Hắn thấy nhục nhã và sợ hãi chính sự thay đổi ấy. 
Những mất mát quá lớn đã bóp nghẹt trái tim của hắn. Hắn không tin ai được nữa. Hắn không thể yêu ai được nữa. Hắn cảm thấy trái tim của hắn hình như đã bị tê liệt mọi cảm xúc, mặc dù có đôi lúc, hắn vẫn thấy trỗi dậy sự ham muốn với một ai đó, nhưng chuyện đó rất ít, chỉ thoảng qua như cơn gió lạ trái mùa. 
Đâu phải giờ trái tim hắn chai lì cảm xúc mà bảo đời hắn sẽ bình lặng theo năm tháng? Không biết và cũng không thể nói trước điều gì vì cuộc đời này khác gì một "con điếm". Hắn biết, giờ hắn đang được cung phụng, được chiều chuộng bởi những kẻ rửng mỡ, lắm tiền mà thiếu tình vì mẽ người và nghệ thuật làm điếm của hắn đã điêu luyện thuộc hàng cao thủ. Hắn cũng cảm thấy muối mặt, nhục nhã khi bị mọi người nhìn ngó bằng ánh mắt soi mói, khinh bỉ. Nhưng hắn cần tiền. Hắn cần sống để làm lại cuộc đời. Hắn phải cho lũ chó sáng mắt ra rằng hắn không dễ ngã gục. Tình yêu ư? Nhân cách tốt đẹp ư? Hắn cóc cần. Những thứ đó đã hủy hoại đời hắn, xô đẩy hắn xuống tận đáy vũng bùn nhơ nhớp. Thôi. Vái chào những thứ phù phiếm chỉ trưng bày làm hàng mẫu. Hắn đếch cần những thứ đó. 
Hắn gọi rượu, nhấp môi và vô thức thở dài.
Một ánh mắt đăm đăm nhìn hắn.
Một cảm giác rất lạ nhen nhúm trỗi dậy. 
Hắn thót người lại, sợ có điều gì không ổn sắp sảy ra.
Giả bộ kéo lại chiếc mũ, chỉnh lại dáng ngồi, hắn liếc thật nhanh về phía ánh mắt đang đăm đắm ánh nhìn.
Ai nhỉ? Hắn đâu có biết người này? Nhưng mà khuôn mặt ấy, ánh mắt ấy trông quen lắm? Hình như đã gặp ở đâu mà hắn chưa nhớ ra? ... Hắn nhếch miệng cười ruồi: - Đuỵt mẹ! Giờ hắn đã nghèo, đã hèn, không muốn bị người khác coi thường, rẻ rúng nên rất sợ gặp những người quen cũ...
- Anh trai. Em ngồi cùng được không?
Hắn liếc nhìn. Một gã thư sinh với nụ cười đàng điếm đang ngập ngừng bước tới. Ồ! Một thằng bóng. Trông cũng đẹp trai, ra vẻ con nhà tử tế đấy chứ. Tiếc thật... Dạo này sao lắm đồng cô thế? Mẹ kiếp. Đến thằng bạn nối khố, đầy nam tính, thay người yêu như thay áo cũng bỗng dưng chuyển hệ... 
Không trả lời. Hắn lẳng lặng nâng ly rượu và nhếch miệng cười khẩy. Gã thư sinh khẽ khàng kéo ghế ngồi xuống, gượng gạo bắt chuyện:
- Anh... có chuyện buồn à? Chuyện tình cảm phải không? ... Em cũng đang thất tình đây… Muốn có người tâm sự quá.... 
Hắn nhướng mắt nhìn gã trai như nhìn vật thể lạ, rồi hất hàm, giọng khinh khỉnh:
- Gay à? Lại cái à? Đuỵt mẹ, đéo phải khẩu vị của anh mày! Lượn ngay cho nước trong!
Gã trai tái mặt, thoáng chút bối rối, gượng cười, giọng mềm như bún:
- Anh nhầm rồi. Em cũng đang thất tình như anh nên muốn có bạn rượu để tiêu sầu... Cho em được mời anh bữa rượu này nhé. Nào, uống đi anh! Không say không về...
Ô hố! - Hắn chửi thầm - Mẹ thằng lại cái này còn thích làm trò! Cái kiểu ăn mặc bóng bẩy và ánh mắt nhìn giai ướt át của mày thì chệch đếch đi đâu được? Thất tình? Muốn có bạn rượu để tiêu sầu? Nghe mùi mẫm cứ như phim Hàn Quốc! Kệ mịa mày! Ừ thì uống. Ừ thì không say không về. Xem ngữ mày chịu được mấy “phát” mà đòi nhắng nhít? 
Hắn chỉ chiếc ghế, rồi hất hàm ra hiệu bảo gã trai ngồi xuống.
Cầm chai rượu, rót đầy 2 ly, hắn hất hàm: 
- Thích xỉn à? Gọi thêm vài chai đi. Chén một, chén một được chứ?
Gã trai hớn hở:
- Dạ! Được! Được ạ!
- Nào thì uống! Nào thì không say không về!
Thế là cả hai, cứ chén một, chén một, cứ như uống nước cho đã cơn khát. 
Càng uống hắn càng thấy gã trai này lạ lắm, quen lắm. Hắn cứ nhìn, nhìn chằm chằm làm gã trai đỏ mặt, bối rối. Hắn thấy tiếc cho gã trai trẻ thật nhiều. Hình thức, tri thức và văn hóa ứng xử ăn đứt khối thằng, vậy mà lại gay... Hắn không còn giữ khoảng cách nữa mà kéo ghế xích lại gần rồi choàng tay qua người gã, cử chỉ có phần thân tình, hơi ngả ngớn:
- Này... Anh thấy mày quen lắm. Không lẽ anh đã lên giường với mày... Không thể! Uầy... Nhưng mà sao nhìn mày anh cứ thấy quen quen, không biết đã gặp ở đâu... 
Đẩy gã trai trẻ ra xa, hắn dụi mắt, nhìn rất kỹ rồi lại lẩm bẩm:
- Không thể!... Nhưng... rõ ràng là quen lắm...
Gã trai hơi biến sắc mặt, vội nâng ly rượu, choàng tay qua người hắn, bả lả cười:
- Nào anh... trăm phần trăm để sáng mai đón ngày mới hưng phấn hơn...
Hắn nâng chén rượu, nheo nheo mắt, cụng với gã trai rất tình tứ: 
- Anh thích mày rồi đấy! Nào rót tiếp đi! Uống nữa đi! Không say không về!
Lại uống! Lại cứ chén một, chén một! Lại nói, mà toàn nói những chuyện từ ngày xưa, ngày hắn còn ở trên đỉnh vinh quang đã cưu mang, giúp đỡ bao người... Rồi hắn bật khóc, khóc rống lên như một đứa trẻ. Gã trai ôm hắn thật chặt, giọng cũng ngân ngấn lệ: 
- Em biết... Em biết mà... Anh cứ khóc đi... Khóc cho vơi uất ức...
Hắn đẩy gã trai ra, giọng đứt ruột:
- Anh không ngờ đời anh lại có ngày phải làm một thằng điếm...
Hắn bật cười chua chát. 
Rồi hắn líu lưỡi, lắp bắp mãi mới xong một câu. 
Rồi hắn gục mặt xuống bàn.
Gã trai choàng tay xốc hắn đứng dậy, giọng hụt hơi, lí nhí:
- Anh... về nhà chứ?
Hắn lắc đầu, yếu ớt đẩy gã trai bằng giọng nhừa nhựa của thằng say:
- Không được. Thằng lại cái. Biến đi để tao được yên.
Gã trai dúi vào tay hắn một xấp tiền. 
Hắn khẽ dướn mắt nhìn xấp tiền rồi lảo đảo ra xe cùng gã.
Trời sắp đổ mưa thì phải...
                                           
                                *
Hắn tỉnh giấc. Một cảm giác thật lạ. Không như những lần đi khách khác, tỉnh giấc là thấy đầu nặng chịch, mồm miệng đắng ngắt, người bải hoải, rã rời... lần này, tâm trạng hắn thật thư thái, sảng khoái. Có cái gì đó rất yên tĩnh, rất ấm áp, rất khác thường. Hắn khoái với cảm giác này.
Cố nằm. Hắn cố nhớ đêm qua đã làm những gì với gã trai trẻ nhưng thật lạ, khó khăn lắm, hắn mới mang máng nhớ được là hình như lúc kéo gã trai trẻ vào lòng, định đặt nụ hôn lên môi gã theo thói quen “nghề nghiệp” thì hắn bị gã đẩy ra, đổ oặt xuống giường. Và hình như, gã trai trẻ đã đứng dậy, ân cần đắp chăn cho hắn, vỗ về hắn bằng giọng trìu mến: - “Ngủ đi anh! Ngủ đi ân nhân của em!”, rồi khép cửa, bước ra ngoài.
Hắn cố nhớ nhưng chỉ nhớ được vậy. Rượu đã làm hắn quên? Hay cuộc chơi đêm qua tẻ nhạt hơn mọi bận nên hắn không nhớ?
Hắn kéo chăn lên cao, liếc vội vào bên trong. Hắn ngạc nhiên vì chăn gối rất thơm tho và ấm hơi người... Tuyệt nhiên không thấy dấu vết của cuộc “vật lộn” “mua bán cuộc tình”: Chăn chiếu không nhầu nhĩ, xô lệch và cũng không có mùi ngai ngái, nồng nồng khó chịu như mọi bận. Hắn nhắm mắt lại, hít thật sâu rồi từ từ thở thật nhẹ để tận hưởng giây phút sảng khoái thật hiếm hoi trong kiếp đĩ đực bán mình.
Chuông đồng hồ điểm chín tiếng bính boong, bính boong...
Hắn hất chăn, ngồi dậy. Hắn dụi mắt vì thấy cảnh vật rất quen thuộc. Tiến lại bức chân dung gã trai với nụ cười đàng điếm, kiêu bạc treo phía cầu thang, hắn dụi mắt thêm lần nữa. Hắn loạng choạng, loạng choạng, rồi ngồi bệt xuống cầu thang. Hắn không tin vào mắt mình. Rõ ràng là bức chân dung của hắn. Bức chân dung mà thằng em kết nghĩa đã thẳng tay vứt bỏ. Hắn cố suy đoán nhưng không thể đoán được gã trai trẻ là ai? Sao gã lại đưa hắn trở về ngôi nhà của hắn? Sao gã biết mà trang trí lại ngôi nhà hệt như thời hắn chưa gặp nạn? Còn thằng em kết nghĩa thì sao? Chẳng lẽ ngôi nhà này đã thuộc quyền sở hữu của gã trai trẻ? Đây là mơ hay là thực? Cúi xuống, thấy “Tình Nghĩa” đang liếm liếm bàn chân, ngoe nguẩy đuôi nhìn hắn tỏ vẻ mừng rỡ, hắn ôm lấy “Tình Nghĩa” rồi òa khóc tức tưởi như một đứa trẻ...
Lá thư từ trong túi áo rơi ra. Hắn cúi xuống nhặt, rồi chậm rãi đọc.
Anh!
Ân nhân của em!
Cám ơn Trời Phật đã cho em tìm được anh, đã cho em cơ hội trừng trị những kẻ vong ân bội nghĩa, hãm hại anh, đẩy anh xuống cảnh đời không khác gì địa ngục.
Em là cậu bé ở Hưng Yên của 12 năm trước, trong một lần mải chơi, lạc đường về nhà, may gặp được anh thương tình chở về tận nhà...”
Hắn ngừng đọc và lần lần về ký ức, nhớ lại chuyện của 12 năm trước…
Hôm ấy, sau khi làm việc với mấy đại lý ở Hải Phòng, lẽ ra hắn về thẳng Hà Nội nhưng nghĩ sao hắn lại rẽ vào Hải Dương gặp gỡ đại lý mới. Tàn cuộc nhậu cũng đã hơn 10 giờ đêm, hắn giục lái xe phóng nhanh về Hà Nội. Khi gần đến thị trấn Bần Yên Nhân (Hưng Yên), hắn bảo tài xế dừng xe để hắn tranh thủ “giải quyết nỗi buồn”. Giật mình khi thấy một đứa trẻ đang ngồi thu lu dưới gốc cây, hắn đến bên đứa trẻ, nhẹ nhàng hỏi:
- Sao cháu lại ngồi đây đêm hôm thế này?
Đứa trẻ có vẻ cảnh giác, lấm lét nhìn hắn, không trả lời. Hắn phì cười, vỗ vai đứa trẻ:
- Chú không phải là người xấu, cháu à. Nếu cháu tin chú, cho chú biết địa chỉ, chú sẽ đưa cháu về tận nhà.
Đứa trẻ vẫn cảnh giác nhìn hắn, không nói.
Hắn rảo bước ra xe. Khi mở cửa lên xe, đứa trẻ mới giật giọng:
- Chở cháu về nhà với...
Hắn nhớ, dọc đường, đứa trẻ ấy luôn quay đầu giấu mặt, chỉ cho biết tên làng xã và khi đến đầu làng, nhất quyết đòi xuống, không chịu để ô tô đưa vào làng.
Hắn cúi xuống đọc tiếp:
Và em cũng là cậu bé của 8 năm trước, trong một lần về Hà Nội thăm người bạn đang nằm viện, bị kẻ gian giật trộm đồ....”
Hắn chau mày cố nhớ cậu bé của 8 năm trước bị mất đồ là ai trong vô số những người hắn đã gặp? Hắn chịu! Hắn không nhớ được.
Hắn cúi xuống đọc tiếp:
“Khi những người khác giương mắt đứng nhìn thì không biết anh ở đâu, phóng xe đuổi theo và lao vào tên cướp, lấy lại đồ cho em. Dù bị rách quần áo, trầy xước cả hai tay nhưng anh vẫn tươi cười vỗ vai em, ân cần nhắc nhở: - Ra thành phố, cẩn thận giữ đồ, thanh niên à. Rồi lên xe phóng đi, không chờ câu cám ơn của em.
Sững người khi nhận ra ánh mắt trìu mến, giọng nói ấm áp của vị ân nhân 4 năm trước, em chạy đuổi theo nhưng không kịp. Anh lẫn vào dòng người tấp nập của phố thị nhanh quá. Em cầu Trời Phật cho em được gặp lại vị ân nhân để nói câu cám ơn. Em hy vọng, Trời Phật sẽ chứng cho lòng thành của em, sắp xếp cơ duyên để em gặp lại vị ân nhân đặc biệt của mình.
Cách đây 4 năm, vâng, đúng ra là hơn 4 năm anh ạ.
Một lần vào TÌNH NHÂN QUÁN, em vô tình nghe anh chủ quán rượu kể chuyện về cuộc đời một vị khách đặc biệt, một “điếm đực nổi tiếng” đất Hà thành, bằng thái độ xót thương, quý trọng. Tò mò, em cố ngồi đợi xem vị khách đặc biệt đó là người thế nào? Và đêm đó, em bàng hoàng khi biết anh chính là vị khách đặc biệt của TÌNH NHÂN QUÁN. Em đau xót cho ân nhân của mình và lên kế hoạch âm thầm thay ân nhân trừng trị bọn vong ân bội nghĩa, bọn lừa thầy phản bạn, đòi lại sự công bằng cho ân nhân của mình.
Ngôi nhà này, em đã lấy lại giấy tờ đầy đủ từ tay thằng em kết nghĩa của anh. Nó thua bạc, gán nhà trả nợ theo đúng kịch bản mà em cùng nhóm bạn thân dàn dựng. Giờ nó đã được trả về với cái nghề mà ngày xưa anh đã nhặt nó lên, cưu mang nó, cho nó thành người tử tế. Anh mở ngăn kéo tủ, giấy tờ nhà đất và cả sợi dây chuyền “bảo bối” mà anh rất quý, bị thằng bạn nối khố của anh chiếm đoạt, em để cả trong đó.
Số tiền thằng bạn nối khố lừa đảo, em cũng đã đòi lại và chuyển vào tài khoản cá nhân của anh. Em không đủ lòng nhân ái để nương tay với kẻ đã đẩy ân nhân của mình vào tù, hòng chiếm đoạt tài sản của ân nhân, nên sau khi dùng các chứng cứ phạm pháp “uy hiếp”, bắt tên khốn kiếp phải trả lại anh số tiền đã chiếm đoạt, bọn em đã chuyển cho nhà chức trách những bằng chứng phạm pháp của nó, bắt nó phải trả giá cho những tội ác đã gây ra. Em tin, anh sẽ mỉm cười, gật đầu với những việc bọn em đã làm.
Anh!
Ân nhân của em!
Thực lòng, em rất vui và thấy thú vị khi vào vai diễn cùng anh đêm qua. Có lẽ đấy sẽ là một kỷ niệm đẹp, khó quên vì rất đặc biệt của em với ân nhân của mình. Em tin, chắc chỉ anh em mình mới có kỷ niệm đặc biệt đó. Tiếc là lúc này, khi anh đang đọc lá thư của “gã trai đẹp gay nặng”, em lại không được trực tiếp nói với anh câu:
- Ân nhân! Em cám ơn anh nhiều, nhiều lắm!
Giờ, khi anh đang đọc lá thư này, có lẽ em đã ở sân bay Nội Bài, chuẩn bị sang đoàn tụ cùng vợ con bên Nhật.
Vâng! Nhất định khi trở về Việt Nam em sẽ đưa vợ con đến chào anh. Lúc bấy giờ, em sẽ thoải mái được nói lời cám ơn anh, cám ơn vị ân nhân đặc biệt của mình.
       P/S:
        Anh!
Chị vẫn còn yêu anh nhiều lắm. Hãy đến làm lành với chị để các cháu được sống trong vòng tay yêu thương của cả bố, cả mẹ.
Em!
Người chịu ơn anh cả đời!”
Hắn bước ra sân, ngước mắt nhìn bầu trời xanh ngắt. Tiếng họa mi nhà ai lảnh lót làm hắn lặng người, rồi bất chợt hắn mỉm cười....
Không hiểu sao, hắn cười mà khóe mắt lại cay cay, rưng rưng lệ...

                                                     Hà Nội, mùa hè năm 2006
                                                      ĐẶNG XUÂN XUYẾN

READ MORE - CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ - Truyện ngắn Đặng Xuân Xuyến