Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Monday, June 6, 2022

TÌM VỀ - Thơ Nguyên Lạc

 
              Nhà thơ Nguyên Lạc
 

TÌM VỀ
 
"Về đi tắm lại sông đầy!
Mà nghe con nước gọi ngày ra khơi"
 
Tìm về... cổ độ chiều rơi
Bên trời hụt hẫng người rồi chơ vơ
Còn riêng chỉ những vần thơ
Buồn theo năm tháng đợi chờ mong manh
Cố nhân? Mây trắng bay nhanh
Hững hờ hoa tím biếc dòng phù sa
Nghe môi đắng vị phôi pha!
Lạnh cơn gió bấc đầu mùa căm căm!
Mắt đầy sương khói mông lung
Về chi? nghe sóng vỗ lòng tha hương!
Bến xưa cùng nỗi đoạn trường
"Có ai tắm được hai lần dòng xưa?" *
Thôi tôi tình đó cũng vừa
Điêu linh đời đó đủ chưa... bạc đầu!
 
Nguyên Lạc

.................
 
* Heraclitus

READ MORE - TÌM VỀ - Thơ Nguyên Lạc

THƠ, EM VÀ QUÊ HƯƠNG TRONG “THƠ TRẦN VẤN LỆ” _ Đặng Xuân Xuyến

 



THƠ, EM VÀ QUÊ HƯƠNG 

TRONG “THƠ TRẦN VẤN LỆ” 

Nhận được tập thơ THƠ TRẦN VẤN LỆ từ nhà thơ Nguyễn Thiên Nga (nhà thơ Trần Vấn Lệ ủy thác) từ Đà Lạt gửi tặng, tôi rất vui vì có được tập thơ của nhà thơ tôi yêu quý nhưng có chút tiêng tiếc là không được chính nhà thơ Trần Vấn Lệ đề tặng vì cách trở địa lý.

 

Tôi kết bạn facebook với ông từ tháng 6 năm 2019, từ tình cờ đọc những comment trao đổi giữa ông với bạn facebook về thơ ca, thấy cách “nói chuyện” của ông lạ lạ nên tò mò vào đọc trang facebook của ông và tôi bị thơ ông chinh phục. Sau đó ít ngày, tôi được nhà thơ Trần Quốc Phiệt cho biết đôi chút về ông: "Nhà thơ Trần Vấn Lệ, sinh ngày 31-5-1942 tại Phan Thiết tỉnh Bình Thuận. Trưởng thành và dạy học ở Đà Lạt. Hiện định cư tại Los Angeles - Hoa Kỳ". Sau này, khi đã trở thành bạn facebook một thời gian, nhà thơ Trần Vấn Lệ cho tôi thêm chút thông tin về ông: Định cư tại thị trấn Temple, Nam California, Hoa Kỳ từ năm 1989. Trước năm 1975, là Giáo sư Việt Văn trường Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), đã từng tham gia Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, phục vụ trong đơn vị Bộ binh, Quân khu II của Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.

 

Tập thơ "Thơ Trần Vấn Lệ" là tập thơ thứ 22 của ông đã xuất bản thành sách.

 

Thơ ông viết tự nhiên, chân thực, không câu nệ hình thức, viết như trải lòng, như có gì viết nấy nhưng lại rất tài dùng câu chữ trong những văn cảnh cụ thể, cũng rất khéo ngụy trang cách thể hiện thi ảnh thi tứ để bạn đọc luôn cảm nhận được sự chân chất, tự nhiên mà sâu lắng, tinh tế trong không gian thơ ca đa tầng, đa chiều của thế giới thơ ca Trần Vấn Lệ.

 

Bài viết này là chút cảm nhận của tôi khi đọc tập thơ "Thơ Trần Vấn Lệ" qua một số bài thơ viết về THƠ, EM VÀ QUÊ HƯƠNG.

 

1.

 

Ông viết về “Em” và tình yêu ông dành cho "Em" lạ lắm, chả như mọi người  cứ gồng lên em đẹp đến thế này, em đẹp đến thế kia, em đẹp đến “nghiêng nước nghiêng thành”, đến “hoa ghen nguyệt thẹn”... “Em” của ông đơn giản chỉ là những niềm vui bình dị chợt đến từ câu thơ "nói về em", từ nụ cười “mỉm” của "Em"... chỉ vậy thôi cũng đủ khiến cuộc sống quanh ông trở nên tươi ấm:

 

"Có câu thơ, một hôm rất lạ, 

nói về em như nói một ngày vui! 

Em biết không em đã mỉm cười 

và hôm ấy tự nhiên trời nắng ấm!" 

                            (Bài thơ làm từ hồi năm xưa xưa lắm)

 

Những câu thơ được cố ý viết bằng cách sắp xếp câu chữ thật bình dị, cấu tứ thật đơn giản với chủ ý diễn tả tâm trạng thật tự nhiên như tiếng lòng chân chất bật ra, đã khiến những câu thơ có ngữ điệu mộc mạc như thế trở nên ấm áp hơn, thật hơn, đời hơn bằng giọng thơ rất riêng của thơ Trần Vấn Lệ. Người đàn ông Trần Vấn Lệ ấy đã rất si mê, cũng rất biết nhịn nhường và biết hết mình vì "Em" với một tình yêu ăm ắp lãng mạn!

 

Hay những câu thơ:

 

"Sáng thức dậy, đóa hoa hồng trắng nở, 

nụ môi em thì lại rất hồng! 

Đang còn là tháng Chạp mùa Đông 

em chớp mắt mùa Xuân đẹp quá!" 

                                       (Bài thơ làm từ hồi năm xưa xưa lắm)

 

là khối tình si ông giành cho "Em" thật độc đáo đến độc nhất vô nhị. Hỏi thế gian này liệu có người thứ hai yêu "Em" như nhà thơ Trần Vấn Lệ?! Tôi không biết "Em" ở đời thực của ông đẹp thế nào nhưng với những câu thơ: "Đang còn là tháng Chạp mùa Đông / em chớp mắt mùa Xuân đẹp quá!" thì hẳn "Em" trong tâm tưởng của nhà thơ Trần Vấn Lệ không chỉ "bát ngát Xuân", căng tràn nhựa sống mà còn đem đến cho nhà thơ niềm tin yêu phơi phới. Hai chữ “chớp mắt” khiến câu thơ: “em chớp mắt mùa Xuân đẹp quá!" trở thành điểm nhấn lấp lánh làm bừng sáng "Em", bừng sáng sang cả bài thơ. Những câu thơ tinh tế đậm chất riêng như thế tôi gặp khá nhiều trong “Thơ Trần Vấn Lệ”.

 

Ông viết về tình yêu, về nỗi nhớ "Em" cũng lạ lắm, cũng chả cần phải "cồn cào", "da diết", "thôi thúc"... đến ồn ã, khuếch đại như nhiều nhà thơ mà là những cảm xúc rất thật, những tưởng tượng cũng rất thật với những hoàn cảnh thực tại mà ông - nhân vật trữ tình trong thơ - đang cô đơn độc thoại với lòng mình:

 

"Giờ này, Mỹ, tôi thức. Mặt trời lên. Chói chang 

Em vẫn ở Việt Nam. Đêm. Trăng cài song cửa. 

Tôi dang tay. Tôi thở. Tay em trên ngực em? 

Tôi đang nghe tiếng chim. Em lim dim đi nhé..." 

                                 (Một bài thơ nằm ngoài giới hạn)

 

Hay:

 

- “Tôi nhìn nước mênh mông. Tôi nhìn trời bát ngát. Tôi muốn nghe ai hát bài Tình Xa. Tình Xa... 

Em ơi em dễ thương, bài Tình Xa cứ hát... Tôi thèm cơn gió tạt áo dài em mênh mông!” 

                                                    (Tình xa)

 

- "Màu tím của áo dài, gió vương nhòa sắc đá, đôi mắt huyền đẹp lạ... làm nao nao lòng người!" 

                                                 (Dốc nhà làng Đà Lạt để thương để nhớ)

 

- “Ờ nhỉ anh hôn mắt 

của em xinh quá nha! 

Cái miệng em nở hoa 

hình như... chưa hôn nhé!” 

                                           (Đi chơi hoài trong thơ)

 

Những câu thơ đầy ắp cảm xúc với cách bộc lộ trực tiếp bằng những lo lắng cụ thể, những nỗi nhớ cụ thể của tâm thế cô đơn: Lặng lẽ yêu, lặng lẽ nhớ của nhà thơ Trần Vấn Lệ đã tạo sức nặng ám ảnh tới người đọc bởi những da diết yêu thương, những quặn thắt nỗi nhớ và dằng dặc những nỗi buồn bủa vây “khách lãng tử” đa tình cô đơn, cay đắng:

 

"Thương em quá, bàn tay, hai cái bàn tay ngọc! Thương em quá, mái tóc... Mái tóc dài như sông! Thương em quá cái lưng... cái lưng tàn nhang bám... Hay là anh phơi nắng... giấy trắng cho nó vàng?

 

Tôi đã nói với nàng những câu buồn như vậy! 

Nước mắt nàng vẫn chảy. Thơ tôi ràn rụa theo!" 

                                       (Thơ và em)

 

Hay:

 

- "Thương em quá cái mặt. Nhớ em quá cái lưng. 

Nói với nụ hoa hồng... Nụ hoa hồng màu trắng!" 

                                 (Một bài thơ nằm ngoài giới hạn)

 

- “Hoa có hương là hương Xuân nồng 

Mưa phùn không chỉ một bên sông! 

Người đi nửa bước đầu không nón 

Nửa bước làm ai vạn nhớ nhung!” 

                                (Mưa phùn mỗi Tết)

 

Không cố ý cách tân làm mới thơ theo hình thức Thơ Hậu Hiện đại, cũng không cố công gọt dũa câu chữ, sáng tạo ngôn từ nhưng nhà thơ Trần Vấn Lệ luôn chú trọng cách thể hiện tâm trạng nhân vật trữ tình bằng sự nâng niu cảm xúc, bằng cách chọn lựa câu chữ, sắp xếp câu chữ và sắp xếp thi tứ, thi ảnh sao thật chân chất, gần gũi, dễ thương, dễ cảm để thông điệp bài thơ truyền tải đến bạn đọc thật tự nhiên nên thơ Trần Vấn Lệ luôn mộc mạc mà tinh tế, bình dị mà sâu lắng:

 

- "Lúc đó gió động lay bức rèm xuân... 

Lúc đó bâng khuâng mấy nhành liễu chạm! 

Mặt trời bỗng sáng - sáng hơn hôm qua 

Con ngõ vàng hoa - vàng hơn bữa trước ..." 

                                    (Bài thơ yêu quá)

 

- "Trước khi em đi ngủ, em gọi tôi: "Anh à... 

Trăng, đúng là trăng ngà, đêm nay Rằm anh ạ!". 

Mới "anh à, anh ạ". Em không nói gì thêm, 

có lẽ em kéo mền che hai chân ngà ngọc?" 

                                 (Một bài thơ nằm ngoài giới hạn)

 

- "Mưa Đà Lạt trong veo, tôi nhớ thương Đà Lạt, tóc ai trầm hương ngát, chạm nhẹ mà ngát hương!" 

                                (Dốc nhà làng Đà Lạt để thương để nhớ)

 

“Hình như tôi mới bật cười! Con sông Ba nước cuốn trời Phú Yên... cuốn em luôn cái mặt hiền... câu thơ tôi sợi chỉ viền áo xưa!” 

                                      (Dẫn nhau đi tới Đỉnh Ngàn)

 

- "Anh nhớ vườn cau, em với Ngoại

Mưa làm lá rụng ngỡ tàu bay 

Em sau bước Ngoại nâng tà áo 

Chút xíu mưa làm má đỏ hây" 

                                (Mù sương mùa đông)

 

- "Nàng mỉm cười như hoa ban mai 

Tuyết băng óng ánh cặp chân mày 

Mùa Xuân không đợi chờ chi nữa 

Nắng bỗng chói ngời mỗi ngón tay!" 

                                (Noel quê người quê nhà)

 

Đến cách đặt tên bài thơ ông cũng không giống mọi người, rất khác, rất ngộ, rất riêng của Trần Vấn Lệ: Năm nay năm con hổ năm nào năm con người, Buồn tay ghi lại dòng năm tháng, Dốc nhà làng Đà Lạt để thương để nhớ, Bạn có bao giờ nhặt nắng chưa, Bài thơ làm từ hồi năm xưa xưa lắm, Bài thơ có vị thơ, Bài thơ mồ côi, Mãi mãi thơ là thơ, Một bài thơ nằm ngoài giới hạn, Bài thơ yêu quá, Đi chơi hoài trong thơ, Gió chờ hoài không gió, Thế mà cũng xong một bài thơ... 

 

2.

 

Cuộc chiến tranh 2 miền Nam - Bắc Việt Nam kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 và ông (nhà thơ Trần Vấn Lệ) thuộc phía những người "thua cuộc". Dời bỏ Tổ Quốc đến định cư tại xứ sở cờ hoa từ năm 1989 nhưng mãi tới tháng 3 năm 2016 ông mới có cơ duyên trở về thăm lại Cố Hương. Có lẽ vì thế mà thơ ông luôn đau đáu trầm buồn 2 tiếng Quê Hương: 

"Lâu quá, lâu rồi, hai Thế Kỷ, người thì cuối biển kẻ đầu non... Tôi xa Tổ Quốc như chim én nhớ tổ bay tìm hương Cố Hương..." 

                                   (Hương tóc)

 

Hay:

 

- "Đà Lạt đào nở thắm 

mùa Xuân ôi mùa Xuân! 

Tôi đang sống tha hương, 

mơ màng về thiên cổ!" 

                            (Đi chơi hoài trong thơ)

 

- “Tết nay năm mới mùa Xuân mới 

Đào đứng mong hoài gió ấm, không! 

Gió có tới bay vào cửa điện 

Giai nhân chải tóc, điểm môi son...” 

                       (Nhắm mắt buồn thôi nhé Cố Hương)

 

Đọc thơ ông, chỉ thấy những nhớ thương đầy vơi, những xót xa buồn tủi nặng lòng kẻ phải cô đơn tha hương nơi xa xứ. Và lãng đãng trong thơ Trần Vấn Lệ, nhưng cũng hiếm hoi lắm mới chợt gặp tâm trạng ngậm ngùi tiếc nuối về quá khứ của "miền Nam tự hào", của “Sử vàng một giấc chiêm bao”, xen lẫn chút xót xa trước (hiện trạng) "Sử hồng máu lệ đã trào tiếp theo...” (?) bằng tâm thế bi ai của người phía "bên thua cuộc":

 

"Mình yêu biết mấy Đà Rằng, yêu cây cầu thuở miền Nam tự hào... Sử vàng một giấc chiêm bao. Sử hồng máu lệ đã trào tiếp theo...” 

                                   (Dẫn nhau đi tới Đỉnh Ngàn)

 

mà tuyệt không thấy câu thơ oán thán, hô hào "chống cộng" như không ít nhà văn nhà thơ đứng bên kia chiến tuyến với những người "anh em cùng dòng giống Tiên Rồng" phía "bên thắng cuộc". Có lẽ nhà thơ Trần Vấn Lệ đã ngộ ra được nỗi đau sau cuộc chiến sẽ loang tới tận hang cùng ngõ hẻm, luồn lách tới mọi ngóc ngách cuộc sống của người dân nên dù là "bên thắng cuộc" hay "bên thua cuộc" thì những di họa của cuộc chiến cũng đổ hết lên đầu người dân và những di chứng của cuộc chiến do đối lập ý thức hệ giữa 2 chính thể ở 2 miền Nam - Bắc còn mãi âm ỉ đau trong dòng chảy lịch sử của dân tộc:

 

"Tôi biết quê tôi không có tuyết 

Chỉ làn khói quyện mỗi mai, chiều 

Khói nhang hay khói cơm dằn bụng? 

... những tấm bia mồ lính ngả xiêu..."

 

                                      (Noel quê người quê nhà)

 

Hay:

 

“Có những miếu đình trơ đống gạch 

Có những Nhà Thờ dấu đạn ghim 

Những túp lều tranh đều lụp xụp 

Bếp còn củi gộc cháy trong đêm...” 

                                  (Buồn tay ghi lại dòng năm tháng)

 

Tôi nghĩ đó là những cảm xúc rất thật của nhà thơ Trần Vấn Lệ, không phải ông cố diễn để dung hòa với những “người bạn” đang cổ súy tinh thần "chống Cộng" cực đoan nên Thơ và "Em" đã trở thành cứu cánh để nhà thơ Trần Vấn Lệ bám víu, tự xoa dịu những hệ lụy tàn khốc của cuộc chiến "huynh đệ tương tàn" mà trụ lại với đời. Nhưng rồi Thơ và cả "Em" nữa cũng trở thành thứ yếu, không đủ sức để làm dịu mát nỗi đau, nỗi buồn, nỗi nhớ... khi tuổi ông đã dần ngả về chiều, khi trái tim ông ngày đêm thêm quặn thắt hướng về Cố Hương:

 

“Liệu còn về được hay không? Quê Hương, nhật nguyệt hay vòng khói nhang? Khói vòng rồi khói cũng tan, cây nhang cắm đất mà tàn không bay...” 

                                      (Giấc mơ hồi hương)

 

Hay:

 

- “Thế là chúng ta đã thấy 

Bốn tám năm rồi phù vân 

Giao thừa không một âm thanh 

Chỉ tiếng thở dài thậm thượt! 

                                           (Thêm một mùa Xuân tha hương)

 

- "Tôi muốn về Cheo Reo... đứng nhìn mãi ngọn núi. 

Tôi muốn tìm bờ suối, hái, săm soi hoa quỳ... 

Em ơi, anh muốn đi / tới đầu trời cuối biển. Thơ, anh hốt, anh liệng, ném khắp Thái Bình Dương? Ai cũng có Quê Hương... thơ thì vô Tổ Quốc? 

Bây giờ thì tôi khóc! 

Tại sao tôi làm thơ?" 

                         (Thơ và em)

 

Tôi có chút “kỷ niệm” về câu kết một bài thơ với nhà thơ Trần Vấn Lệ khi viết vài dòng cảm nhận về bài thơ "Như Một Bài Tập Làm Văn" của ông. 

Khổ cuối của bài thơ, ông bỏ lửng, chỉ có 2 câu:

 

"Cho tôi được im lặng 

khi nghĩ về Quê Hương!"

 

Đây là dạng câu "kết mở", sẽ có những cảm nhận khác biệt giữa những người đọc và cả người đọc với tác giả.

 

Khi cảm nhận bài thơ này tôi đã viết: "Tôi không thích cái kết của bài thơ như thế! Bởi yêu Quê Hương ai lại chọn giải pháp im lặng? Bất kỳ lý do nào, hoàn cảnh nào thì tôi nghĩ giải pháp: "Cho tôi được im lặng / khi nghĩ về Quê Hương" vẫn thuộc tâm thế của người có tình yêu Quê Hương chưa đủ lớn để vượt qua những trở ngại của phép tính giữ mình.", nhưng khi đọc tập thơ "THƠ TRẦN VẤN LỆ" - (những sáng tác từ mùa Đông năm 2021 đến mùa Xuân năm 2022), với những câu thơ day dứt, nặng lòng về Quê Hương:

 

- "Trăng rơi! Có lẽ trăng rơi thật? 

Ướt mắt tôi là những ánh sương! 

Lấy giấy lau khô mà vẫn ướt 

Lẽ nào đang bão ở Quê Hương?" 

                                    (Hỏi bờ lau sậy gió bay qua)

 

- “Ai yêu Hà Nội, xa Hà Nội, chỉ để buồn cho ai ngó theo... Còn để lại chăng là tiếng gió, tiếng dương cầm những giọt trong veo!” 

(Vĩnh biệt nhạc sỹ Phú Quang)

 

- “Vừa mới Noel rồi sắp Tết 

bao giờ nước Mỹ hết mùa Đông? 

Dĩ nhiên ai cũng nhìn lên lịch 

hoa sắp nở nhiều, Xuân phải không?” 

                                     (Đường xa chi mấy)

 

- “Quê Hương thành cái ảo, từ lâu rồi, quá buồn! Khi không mình tha hương, ba mươi ba năm, nhớ! 

                                                                     (Gửi hương cho gió)

 

- “Những người lầm lũi, nay lầm lũi 

Gánh núi non mình lên núi xa 

Họ hứng mây sương làm áo mặc 

Hứng mưa làm nước mắt, tuôn ra” 

                                      (Nhắm mắt buồn thôi nhé Cố Hương)

 

- "Bao giờ mình về thật 

cúi nhặt tuổi hai mươi? 

Không lẽ cứ đi chơi 

trong thơ hoài, buồn quá!" 

                                 (Đi chơi hoài trong thơ)

 

- "Nụ hồng trắng đắm đuối 

Nở trong bàn tay ai... 

Đó không phải Tương Lai 

... mà Trời ơi! Dĩ Vãng!" 

                            (Nụ hoa hồng trắng và bàn tay em)

 

- "Đời đẹp như bài thơ! Đâu bài thơ nào đẹp? 

Mắt tôi từ từ khép. Lòng cửa kính sương lăn..." 

                                       (Đêm mùa đông)

 

"Chắc chắn Chúa giật mình... giật rớt cây Thánh Giá, cái lư hương được trả... khói thơm suốt bờ sông..." 

                                   (Thế mà cũng xong một bài thơ)

 

Và những câu thơ đã trích dẫn đưa vào bài viết từ tập thơ “Thơ Trần Vấn Lệ” thì tôi hiểu “đòi hỏi” như thế với nhà thơ Trần Vấn Lệ quả là không thỏa đáng. Bởi cũng như ở Việt Nam, bên cạnh những vòng tay luôn giang rộng đón chào “người anh em từng ở bên kia chiến tuyến” gác lại quá khứ trở về Việt Nam cùng hàn gắn vết thương chiến tranh, cùng chung tay xây dựng Đất nước thì vẫn còn những kẻ luôn tìm cách cản trở tiến trình Hòa giải Hòa hợp Dân tộc bằng sự phân biệt đối xử, tạo thêm hận thù, gây chia rẽ tình đoàn kết Dân tộc thì trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại cũng vậy, bên cạnh những trái tim luôn đau đáu hướng về Tổ Quốc với tinh thần Hòa hợp Hòa giải Dân tộc cụ thể, thiết thực thì vẫn còn những kẻ rắp tâm cản trở tiến trình Hòa giải Hòa hợp Dân tộc bằng những hành động "chống Cộng" cực đoan.

 

Từng là người lính, tuổi cũng đã dần ngả về chiều nên có lẽ nhà thơ Trần Vấn Lệ sợ chiến tranh, sợ tái diễn cảnh “huynh đệ tương tàn”, sợ những đau thương mất mát lại tái hiện trên mảnh đất Việt Nam nên ông đã chọn phép dung hòa để “giữ mình”, để hy vọng tình yêu ông dành cho Quê Hương Việt Nam được vẹn nguyên, không sứt mẻ.

 

Tôi chép vào đây bài thơ "Xa Quê" viết tặng nhà thơ Trần Vấn Lệ ngày 23 tháng 6 năm 2021 để kết thúc bài viết này.

 

XA QUÊ... 

- Kính tặng nhà thơ Trần Vấn Lệ -.

 

Xa quê lâu ngày tưởng nhớ 

Ai ngờ cứ dửng dưng quê 

Chiều nay, hay tin núi lở 

Cả làng vùi dưới chân đê... 


Hôm tê, từ quê báo thế 

Lũ dâng, dâng kín mái nhà 

Người người hò nhau cứu tế 

Lửa gần mà nước quá xa...

 

Hôm qua, thêm ba "tàu lạ" 

Bắn chìm dân đảo Phú Lâm 

Biển ta sắp là biển lạ 

Dân ta nuốt lệ lặng thầm....

 

Ừ thôi, cứ bàn chân dậm 

Ừ thì, cứ chặt nắm tay 

Xa quê, thì đau thì thấm 

Nước mắt ngược dòng mới hay...

 

*. 

ĐẶNG XUÂN XUYẾN 

*. 

Hà Nội, ngày 15 tháng 5-2022 

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

.


READ MORE - THƠ, EM VÀ QUÊ HƯƠNG TRONG “THƠ TRẦN VẤN LỆ” _ Đặng Xuân Xuyến

CHÙA HÀ - LINH THIÊNG VỀ CẦU TÌNH DUYÊN - Đặng Xuân Xuyến

 


Chùa Hà có tên chữ là Thánh Đức tự, trước kia thuộc làng Dịch Vọng (tên nôm là làng Vòng), huyện Từ Liêm, nay thuộc phố Chùa Hà, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.

Có hai truyền thuyết về chùa Hà.

Truyền thuyết thứ nhất:

Vào thời Lý, khi vua Lý Thánh Tông trị vì,lúc đã 42 tuổi mà vẫn chưa có con nên đã cầu tự ở một ngôi chùa mà sinh ra Thái tử Càn Đức, do đó ngôi chùa này gọi là chùa Thánh Chúa để kỷ niệm sự kiện này. Trên đường đi vua còn ghé qua một ngôi chùa khác và ban tiền bạc cho chùa để trùng tu lại, vì vậy chùa này (chùa Hà) còn có tên là Thánh Đức tự.

Truyền thuyết thứ hai:

Chùa Hà được xây dựng lên để vua Lê Thánh Tông bày tỏ lòng nhớ ơn các đại thần như Nguyễn Trãi, Nguyễn Xí, Đinh Liệt đã phế bỏ Lê Nghi Dân để phò tá ông lên ngôi vua vào năm 1460.

Trải qua bao phen binh hỏa, chùa Thánh Đức đã bị phá hủy nhiều lần. Đến năm 1680 chùa vẫn còn lợp lá gồi, tường xây bằng gạch vồ nên người dân gọi là chùa Vồi. Đến đời vua Lê Hy Tông (1675-1705) có hai người quê làng Thổ Hà tỉnh Bắc Giang sang ở chùa để bán các đồ gốm sứ ở chợ trong và ngoài thành Thăng Long. Nhờ buôn bán phát đạt, hai gia đình này tình nguyện công đức số tiền lớn cùng nhân dân trong xóm xây dựng lại chùa với quy mô lớn bằng gạch ngói vào năm Chính Hòa (1680). Từ đó hai làng Thổ Hà và Dịch Vọng Trung kết nghĩa, đặt tên xóm có ngôi chùa là Bối Hà và chùa có tên nôm là chùa Hà.

Kiến trúc của chùa được quy hoạch trong một khoảng không gian rộng thoáng. Ngoài cùng là cổng Tam quan xây hai tầng có hệ thống cầu thang lên ở phía trái. Tầng trên xây kiểu chồng diêm, giữa bờ đinh mái thượng đắp nổi hình mặt trời lửa đặt trên hình hổ phù, hai đầu kìm đắp hình rồng đuôi xoắn, miệng ngậm bờ nóc, mái lợp giả ngói ống. Tầng dưới chia làm ba gian, với 12 cột trụ xây nổi trên mặt tường. Tam quan có ba vòm cửa, cửa giữa rộng hơn.

Tầng hai Tam quan treo chuông đồng Thánh Đức tự, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 7 (1799), một di vật thời Tây Sơn còn bảo quản nguyên vẹn. Chuông cao 1m20, chu vi đáy 1m80 được đúc tinh tế, phần trên bốn múi chuông được khắc nội dung văn chuông, phần dưới được khắc tứ linh: long ly quy phượng cách điệu mà rất sống động. Phía trên là hai con bồ lao đầu nhìn về hai phía, bốn chân gắn chặt vào chuông

Chùa Hà nhìn ra hướng tây, kết cấu kiểu chữ Đinh có Tiền đường và Thượng điện, tam bảo năm gian rộng. Tòa phật điện của chùa được bố trí theo nhiều lớp. Lớp cao nhất là ba pho Tam thế. Lớp thứ hai: là ba pho tượng Tam Thánh. Phía dưới tượng A Di Đà: tượng A Nan Đà, Đức Ông.

Phía ngoài chính điện giáp với đại bái là tượng Thích Ca sơ sinh. Lớp tượng ở nhà bái đường nổi bật nhất là tượng Thiên Tướng Hộ Pháp cao lớn mặc áo giáp vàng ngồi trên con sấu. Hai bên đầu hồi còn đặt 8 vị Thần Vương Hộ Pháp.

Phía sau chính điện của chùa là Điện Mẫu. Kiến trúc Điện Mẫu bao gồm phía trước là phương đình, phía sau là Thần điện. Trong phương đình có đặt đỉnh hương và đôi hạc lớn. Phía sau phương đình là nhà bái đường gồm 5 gian làm theo kiến trúc cổ. Gian chính giữa đặt Mẫu Thượng Thiên trang phục màu đỏ, bên trái là tượng Mẫu Thượng Ngàn trang phục màu xanh, bên phải là tượng Mẫu Thủy trang phục màu trắng, ngoài ra còn có tượng các ông hoàng, bà chúa, tượng các cô, các cậu. Đặc biệt là bức phù điêu Bát Tiên treo bên trái hồi rất sống động.

Bàn thờ phía dưới cùng của Điện Mẫu là Ngũ Hổ thần quan, hay gọi nôm là Quan Năm Dinh, biểu tượng bằng 5 mãnh hổ với màu sắc khác nhau.

Nếu như những ngôi chùa khác tập trung nhiều tầng lớp trung niên, các cụ ông cụ bà, đến lễ bái, thì chùa Hà được đông đảo học sinh, sinh viên tìm đến để cầu tình yêu.

Dân gian tín rằng chùa Hà rất linh nghiệm với những cầu nguyện về thi cử, học hành và tình duyên. Rất nhiều nam thanh nữ tú (nhất là những người đang cô đơn, lẻ bóng, những người không may trong chuyện gia đình) đầu xuân đến chùa Hà để cầu xin sớm gặp được người chồng (vợ) như ý, hoặc cầu xin tình yêu sớm đơm hoa kết trái, hạnh phúc gia đình được viên mãn.

Dân gian cũng tín rằng: Đức Ông chùa Hà rất linh thiêng nên dân quanh vùng có câu “Đức Ông chùa Hà, Đức Bà chùa Hương”.

-------------

(Trích từ VÀO CHÙA LỄ PHẬT: NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT của Đặng Xuân Xuyến ; Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin 2006)

READ MORE - CHÙA HÀ - LINH THIÊNG VỀ CẦU TÌNH DUYÊN - Đặng Xuân Xuyến

SUY NGHĨ TUỔI GIÀ - Thơ Đàm Ngọc Năm

 


 SUY NGHĨ TUỔI GIÀ 


Già, việc gì phải ngại
Ai cũng đến tuổi già 
Cứ vô tư mà sống 
Như một thời đã qua.

Cái gì có đã có 
Chuyện no, đói cũng rồi 
Mỗi người một cách nghĩ 
Giàu chắc gì đã vui.

Bao phận đời nghèo đấy 
Vẫn luôn nở nụ cười 
Đơn giản là chính họ
Thấy vừa đủ, vậy thôi!

Già, đừng mong nhiều quá 
Ngoài sức khỏe cho mình 
Và gắng thêm bè bạn 
Cứ vậy, sống yên bình.

Có thể, điều này nữa
Vợ chồng luôn bên nhau 
Các con mặc chúng nó 
Lo cũng chẳng nổi đâu.

Nếu vẫn còn nghĩ suy
Thì cũng cần phải nhớ 
Đừng bận tâm chuyện nhỏ
Gia đình của các con

Đã nuôi chúng nó lớn 
Giờ mọi chuyện nó lo
Ngã, đứng lên mà sống 
Mình già, biết sao giờ.

Có tiền thì cứ tiêu
Thích gì, cứ thế chén(!)
Chuyện gì đến sẽ đến 
Nghĩ vậy, nhẹ nhàng hơn

Nếu còn nữa, đi chơi 
Khi sức còn có thể 
Không cần gì phải nghĩ 
Vô tư vui với đời!

Đàm Ngọc Năm
READ MORE - SUY NGHĨ TUỔI GIÀ - Thơ Đàm Ngọc Năm

BAN MAI TRẮNG – Thơ Tịnh Bình


                      Nhà thơ Tịnh Bình

 
BAN MAI TRẮNG
 
Khi sắc hoa loa kèn trắng đơm lên ngày tinh khôi
Vạt nắng khu vườn trình diễn buổi mai tinh khiết
Chùm sương lóng lánh
Khẽ hát lên bài ca muôn thuở
 
Lặp lại bình yên quen thuộc trong cõi riêng
Ly cà phê sớm bên giá sách
Những bản nhạc giai điệu ưa thích
Tự biến mình thành một làn hương
sắc trắng
Này hỡi hoa loa kèn
Có hay tôi đang trầm mình trong đó?
 
Những bông hoa thức giấc
Và trò chuyện cùng tôi
Trong đôi mắt sương rung rinh
Lời nói vô hình
 
Vạt nắng thôi trình diễn buổi mai tinh khiết
Ánh sáng rực rỡ chạm vào tôi
Vỡ ra mảnh hương từ một bông hoa im lặng...
 
TỊNH BÌNH
(Tây Ninh)
 
READ MORE - BAN MAI TRẮNG – Thơ Tịnh Bình

THƯƠNG TIẾC - Thơ Chu Vương Miện & M.Loan Hoa Sử

Nhà văn Trần Đĩnh qua đời người ngày 12 tháng 5 thọ 93 tuổi.
Nhạc sĩ Cung Tiến (1938- 2022) thọ 84 tuổi.
Nhà thơ & văn Hoài Ziang Duy (1948 – 2022) thọ 74 tuổi.




THƯƠNG TIẾC
 
Đời lạnh lùng trôi theo dòng nước mắt
Với bao tiếng tơ xót thương đời
(“Tiếng Đàn Tôi”  -  Nhạc của Phạm Duy.)

*
Một năm làm thơ không nhiều
Chỉ dăm ba bài
Đa số là cầu chúc và thương tiếc
Cho các nhà văn nhà thơ và nhà soạn nhạc…
Từ giã cõi tạm cõi trần
Để về cõi vĩnh hằng
Vô thủy vô chung
Mấy năm gần đây
Quý vị huynh trưởng “niên trưởng”
Rủ nhau cùng đi quá nhiều
Thương tiếc thì cũng chỉ để nơi lòng
Làm thơ đôi dòng
“tiễn biệt”
Vẫn biết rằng trong cõi đời ô trọc “đầu”
Có sống và có thác
Trong vòng “sinh lão bệnh tử”
Nhân sinh chả có một ai khỏi thoát
Các huynh viết văn làm thơ soạn nhạc
Cống hiến dâng đời
Cũng hoài mong có chút gì còn lại
“bất diệt”
Người già thương tiếc người già
Kẻ tài hoa thương tiếc kẻ tài hoa
Thế gian hạn hẹp
Bụi cát mù sa
Y như lầu Hoàng Hạc
Chim ngừng cánh một chập một thời gian
Rồi cất cánh bay luôn không trở ại
“Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản”
Ôi những “tài nhân & nghệ nhân” của đất trời ?
Đến nơi đây một lúc
Hoặc vài mươi năm
Hay một kiếp làm người
Rồi cũng theo chim Hoàng Hạc bay vút trời xanh
Than ôi
 
Chu Vương Miện & M.Loan Hoa Sử
 
READ MORE - THƯƠNG TIẾC - Thơ Chu Vương Miện & M.Loan Hoa Sử