Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Friday, September 14, 2018

SƠ KHẢO NGÔN NGỮ MIỀN TRUNG - PHẦN HAI: VỀ TRONG LÒNG ĐẤT MẸ PO NAGAR - Chế Cẩm Đình

Tác giả Chế Cẩm Đình


SƠ KHẢO NGÔN NGỮ MIỀN TRUNG
Chế Cẩm Đình

PHẦN HAI: VỀ TRONG LÒNG ĐẤT MẸ PO NAGAR

Phần hai, lẽ ra là phần tôi đi sâu vào ngôn ngữ Miền Trung như lời kết phần một. Dù đã khởi thảo nhưng đành phải gác lại để đến tận kỳ sau, bởi tôi vừa có một chuyến đi hết sức kỳ thú VỀ TRONG LÒNG ĐẤT MẸ PO NAGAR ngồn ngộn xúc cảm buồn vui, mà nếu để lâu thì, xúc cảm ấy sẽ bay đi ít nhiều làm cho bài viết e không còn được hay ho.
Tôi đã đến Nha Trang từ lâu, đã sinh sống nơi mảnh đất này ngót mấy năm trời. Trước khi qua vùng đất mới, thì con gái yêu thương của tôi đã kịp chào đời trên xứ trầm hương, để thấy là tôi gắn bó với nơi này như thế nào. Vậy mà, tôi lại chưa một lần lai vãng đến Tháp Bà cho đến tận chuyến đi vừa rồi, khi tôi trót dấn thân vào “địa hạt” này:
“Chăm pa mộng ấy vẫn ngời
Tôi về tìm lại non Hời đau thương”
Từng thăm thú nhiều tháp Chàm ngoài Quảng Nam, Bình Định và Phú Yên nên tôi không còn ngỡ ngàng về mức độ đồ sộ của cụm tháp, cũng như lối kiến trúc đầy thẩm mỹ và tinh tế đến từng chi tiết trên từng ngẫu tượng, thớ gạch, góc chân hay thiếp mái. Mà bất ngờ lớn nhất với tôi là, khoảng sân phía sau tháp chính có một đoàn ca vũ nhạc chính gốc người Chăm từ trong Ninh Thuận ra biểu diễn ở đây. Họ bao gồm những đàn ông cuối tuổi trung niên chơi các nhạc cụ truyền thống, cùng các Chiêm nữ thanh xuân dưới đôi mươi. Vì chưng tôi còn phải đi làm kiếm sống, nên không đủ nhiều thời gian cho đam mê sâu thẳm của mình, thời, còn có cơ hội nào hay hơn dịp này khi được tiếp xúc với máu mủ xa xưa của mình ngay tại đây. Giữa những lần biểu diễn là khoảng nghỉ ngơi, thì tôi tranh thủ sà vào bắt chuyện ngay với từng người. Dù không được cặn kẽ vì thời gian ngắn ngủi, nhưng với tôi ngần ấy đã là một sự trở về tận trong lòng Chiêm quốc thân thương của tôi.
Pô Inư Nưgar (Po Nagar) là Mẹ xứ sở, như là người có quyền năng với muôn loài nơi đây. Mẹ xứ sở là người đã khai sáng ra giang sơn gấm vóc của dân tộc Chăm pa, dạy cho thần sĩ phép trị nước an dân, dạy cho dân biết phương cách sản xuất lúa chiêm, lúa nước, biết cách dẫn thủy nhập điền để tưới ruộng và cách trồng bông dệt vải, mang đến cho dân tộc Chăm pa một cuộc sống ấm no sung mãn. Po Nagar khác hoàn toàn với mẹ  u Cơ của người Kinh, là người khai sáng chứ không phải là mẹ sinh ra cả dân tộc. Bởi vậy, tiếng ru con của người Kinh cất lời luôn bắt đầu bằng hai chữ “ầu ơ” ( u Cơ) như là một sự tưởng nhớ trong tâm thức về người mẹ đẻ, thì tiếng ru con của người Chàm thường là “ới … ời … ơi” trước lời hát ru chứ không gắn liền với Mẹ Pô Inư Nưgar, mà họ dành hẳn sự kính trọng cho vị Nữ thần này bằng những điệu “Tra” réo rắt bởi tiếng kèn Sanarai trong nhịp trống Ginăng trầm hùng vào những hội tế.
Biểu hiện rõ nhất của việc kính trọng thần nữ Pô Inư Nưgar là người Chăm theo chế độ mẫu hệ, bên mẹ là họ nội, bố là họ ngoại và con gái phải đi hỏi và cưới chồng, còn con trai lấy vợ thì ở rể. Tục này hoàn toàn giống với người đồng bào Ê đê ở mạn trên Tây Nguyên. Khi đối chiếu số đếm của hai giống dân nay, chỉ đôi chút khác về phát âm ở số một với số hai và số năm, còn lại giống nhau tất, thì biết họ cùng một gốc mà ra. Vả lại, bên dòng Eahleo đoạn qua huyện Easup vẫn còn một cụm tháp Chăm là Yang Prong trên ấy, thì đã rõ hẳn việc này.
Chợt đến giờ biểu diễn, các nghệ nhân nam vào vị trí các nhạc cụ để sẵn, từng Chiêm nương trong tà áo dài tha thướt kiểu Chàm đội lên đầu những vại gốm bước vào tấm thảm trải trên nền gạch của sân tháp. Nhạc trỗi lên từ máy hát phát ra loa, giai điệu bài hát thật vui tươi kể về tình yêu đôi lứa và ngày mùa thì điệu múa bắt đầu. Chao ôi, có phải đây là con cháu Mị Ê hồng nhan trinh liệt xưa mà sao ai ai cũng múa từng điệu thật điêu luyện, nhịp điệu của cơ thể theo nhạc nền uyển chuyển mềm mại không khác gì hình tượng các vũ thần Apsara trên các bệ thờ Chăm Pa. Bài múa hãy vừa xong, nụ cười tươi tắn trên mỗi khuôn mặt vũ nữ lấm tấm mồ hôi còn chưa tắt, đã nghe một điệu nhạc khác réo lên bi hùng. Lần này là tiếng nhạc sống được chơi bởi các nghệ nhân nam. Người vỗ trống Ginăng, người thổi sáo Clảr, và buồn thương ai oán tận sâu thẳm trong lòng người về một xứ sở phồn hoa, một giống nòi hùng cường tự ngàn năm trước trào qua tiếng kèn Sanarai sầu cảm. Ai từng nghe thổi kèn đám hiếu với làn khốc, làn thảm, làn ai, già nam của kèn giải ở miền Trung thì khi nghe tiếng kèn này sẽ thấy không khác là bao, mà còn cảm nhận ngay được nỗi bi ai của dân tộc này qua từng làn hơi, làn ngắn thì trầm hùng như ôn lại quá khứ oanh liệt của tổ tiên, nhưng cảm giác giật khục như nấc như nghẹn từng lời của nỗi buồn mất nước, còn chưa kịp bật hơi lên một cách mạnh mẽ thì chuyển làn dài thấu oán đau thương như chính số phận nước non Hời. Nước mắt đã thấm ứa ra ngoài khóe của một người con từ phương xa trở về lòng đất mẹ Po Nagar.
Rồi câu chuyện lại tiếp tục sau giờ biểu diễn với các nghệ nhân. Hỏi trống Ginăng sao vỗ hai đầu tiếng khác nhau mới biết là một đầu bịt bằng da trâu, đầu kia da mang bắt trong rừng mà tiếng Chăm gọi là con đỏr. Hỏi người Chiêm Thành xây tháp dùng vữa gì mà sao chỉ vữa rất mảnh, thì được giải thích là lấy mủ cây Pú trẻh trộn với phân bò và pôông (rơm, trấu) tạo ra một thứ keo làm vữa rất bền chắc. Mà cây ấy, từ khi Chiêm quốc bại vong thì không còn mọc nữa. Rồi hỏi về kỹ thuật làm gốm, được cho hay men gốm là bí quyết của người Chăm không được truyền ra ngoài. Gốm nung sơ hoặc ủ khô, lấy nước vỏ cây quét lên từng lớp cho thấm vào và đem nung lên lần nữa để tạo màu men. Thì bí quyết nằm ở chổ vỏ cây gì cho ra màu gì, quét mấy lượt, nung bằng than củi hay pôông để cho ra độ bóng và mức độ đậm nhạt khác nhau trên thân gốm.
Đôi hồi một lúc, là giữa các thành viên đến mấy bận cãi nhau, vì cách giải thích cho tôi khác nhau về mỗi sự việc. Ấy là, rất nhiệt tình với một người yêu dân tộc Chăm như tôi, lại vì có thể đó là tính cách của giống Hời mà khiến họ thiếu đi cái đoàn kết trong những cuộc chiến quan trọng với Đại Việt dẫn đến tận vong. Nữa là trong sự cãi vã bằng ngôn ngữ đa âm và ít thanh điệu, dù không hiểu gì nhưng tôi đã tìm thấy dấu vết tiếng Việt trong đó, mà tôi sẽ trình bày kỹ ở phần sau. Ai từng qua Lý Hòa (Bố Trạch, Quảng Bình), ghé lại phiên chợ dưới chân ngọn đèo cùng tên nghe các mệ các o buôn bán nói chuyện với nhau bằng thứ giọng líu lo như chim hót (phỏng cách), thì khi nghe đồng bào Chăm nói chuyện với nhau mới thấy giống vô cùng về mặt âm giai. Mà đất Lý Hòa – Đồng Trạch ấy xưa kia chính là thành Khu Túc sầm uất của đất nước Chăm pa.
Tháp bà Po Nagar nằm trên ngọn đồi bên bờ sông Cái – Ea Tờ rang. Dưới lòng sông ấy chứa đựng vô vàn cổ vật của người Chăm, và nhiều nhất là gốm sứ. Đã có nhiều người xúc cát, làm lưới vớt được những tượng Phật, tượng thần bằng đồng của người Chăm bán được rất nhiều tiền, có pho giá bạc tỷ được thâu mua bởi giới săn lùng cổ vật từ Sài Gòn ra. Như là một thiên duyên, tôi ghé qua nhà người anh thân thiết vào buổi chiều, kể cho anh nghe mới đi trên Tháp Bà về như thế nào thì anh lôi ra trong các thùng đồ bao nhiêu là cổ vật vớt lên từ sông Cái. Anh nói, đồ Chàm đó, mười mấy năm nay tích được ngần này. Vậy mà, anh đã tặng ngay cho tôi toàn bộ khi tôi ngỏ lời hỏi mượn về nghiên cứu viết bài, dù hơi hối tiếc công sức sưu tầm trong từng ấy thời gian. Thì đó, nếu không tỏ lòng yêu giống nòi ấy, chắc gì tôi gặp được thiên duyên này, như là Mẹ xứ sở giúp tôi thỏa lòng mong nguyện khai sáng những ẩn ức về non nước Chiêm Thành.

Chế Cẩm Đình


READ MORE - SƠ KHẢO NGÔN NGỮ MIỀN TRUNG - PHẦN HAI: VỀ TRONG LÒNG ĐẤT MẸ PO NAGAR - Chế Cẩm Đình

SƠ KHẢO NGÔN NGỮ MIỀN TRUNG - PHẦN MỘT: NỖI ÁM ẢNH TỪ QUÁ KHỨ - Chế Cẩm Đình

Tác giả Chế Cẩm Đình


SƠ KHẢO NGÔN NGỮ MIỀN TRUNG
Chế Cẩm Đình

Lời phi lộ
Đây là một khảo cứu mang tính chất cá nhân, dựa trên trải nghiệm sống cũng như những cảm tính có được của tôi, chứ hoàn toàn không mang yếu tố nghiên cứu khoa học. Khảo cứu này chủ yếu để quý thân hữu đọc chơi và hiểu hơn về văn hóa, ngôn ngữ của khu vực này. Bài viết được chia làm nhiều phần để quý thân hữu tiện theo dõi.

PHẦN MỘT: NỖI ÁM ẢNH TỪ QUÁ KHỨ

1.Vùng đất chồng lấn giữa hai nền văn minh lớn của nhân loại
Miền Trung có nhiều con đèo, trong đó có hai con đèo lớn là Hải Vân và Hoành Sơn. Miền Trung cũng có nhiều con sông, tuy không lấy làm cả như các con sông lớn ở hai đầu đất nước nhưng đã đi sâu vào lịch sử dân tộc. Đèo và sông ở miền Trung luôn được lấy ra làm ranh giới chia đất chia nước từ xưa đến nay. Đèo Ngang và sông Gianh là biên giới giữa Đại Việt với Chiêm Thành, sau là ranh giới Trịnh - Nguyễn. Sông Bến Hải chảy theo vĩ tuyến 17 thì ai cũng biết là sông chia đôi hai miền Nam – Bắc trong nội chiến 1954 – 1975. Đèo Hải Vân và sông Hương đóng vai trò ranh giới Việt - Hời kể từ khi Huyền Trân công chúa trẩy Chiêm làm hậu. Sau còn làm ranh Trịnh - Nguyễn và Trịnh – Tây Sơn. Phía Quảng Nam thì có sông Thu Bồn cũng được lấy làm biên của nhiều đợt Việt - Chăm tiến thoái, đến nỗi mà hình thành từng tiểu vùng ngôn ngữ ngay trên đất Quảng vì con sông biên viễn ấy.
Thì suốt quá trình Nam tiến của dân tộc, người Việt vào đến đâu thì người Chăm lùi đến đó. Rồi có khi Chiêm Thành hưng lên, thì đánh ra giành lại đất cũ với người Việt. Giữa các cuộc chiến liên miên gần cả ngàn năm, các dòng người của hai bên hòa lẫn vào nhau mà sinh sống, lúc thuận hòa thì chung ở với nhau, lúc chiến tranh thì giết chóc đối phía.
Người Việt từ Bắc vào mang theo văn minh Trung Hoa. Người Chiêm Thành có văn minh từ phía Ấn. Hai nền văn minh lớn này va chạm vào nhau gây ra xung đột dữ dội, rồi hòa nhập có, biến tấu có, và sau cùng là tận vong văn hóa của người Hời, theo sau sự tận vong của đất nước Chiêm Thành vì thất thế trước Đại Việt.
2. Những người họ Chế
Lịch sử Chiêm quốc có giai đoạn hào hùng nhất gắn liền với Chế Bồng Nga, là một vị vua kiệt xuất của đất nước này. Trong giai đoạn 1367-1389, ông từng 12 lần xua quân Bắc phạt Đại Việt nhằm tái chiếm các vùng đất châu Ô và châu Lý vốn được chuyển giao sang chính quyền Đại Việt trong thời gian cai trị của vua Chế Mân. Năm 1377, khi thành Đồ Bàn bị quân đội nhà Trần tấn công, Chế Bồng Nga đã lãnh đạo quân đội đánh Đại Việt, khiến vua Trần Duệ Tông phải bỏ mạng trong trận này. Thắng lợi này khiến Thượng hoàng Trần Nghệ Tông khiếp đảm, sau này hễ Chế Bồng Nga bắc tiến là cùng Lê Quý Ly (Hồ Quý Ly) bỏ kinh thành chạy dài. Trong cuộc chiến này, ông đã có tổng cộng 3 lần đánh vào tận kinh đô Thăng Long. Năm 1389, ông tử trận sau khi trúng phải đạn tại trận Hải Triều. Cái chết của ông khép lại một trang hùng cường trong lịch sử Chăm Pa. Hết đời vua Chế Bồng Nga thì nước Chiêm Thành không lần nào quật khởi được nữa, dù có vùng vẫy bao lần thì cuối cùng cũng bị kết thúc đau thương.
Chế Lan Viên nguyên họ Phan, tên Hoan người gốc Cam Lộ, Quảng Trị nhưng lớn lên và học tập tại Quy Nhơn. Vì hoài cảm quá lớn về quá khứ của một đất nước hùng mạnh qua các đền đài và tháp Chăm cổ, ông đã viết nên tập thơ trường loạn “Điêu tàn” lúc còn là một thanh niên mới mười bảy tuổi. Ông đã lấy bút danh Chế Lan Viên vì tự xem mình là một bông hoa đẹp trong vườn nhà họ Chế, họ hoàng tộc của đất nước Chăm Pa.
Tôi thời cũng vậy, kể từ khi đặt chân đến những đền tháp cũ, tự dưng bị ám ảnh đến lạ lùng nỗi tiếc thương về một cố quốc đã tận. Ám ảnh đến cùng cực, lại thương cảm càng nhiều. Cứ gặp người vai ngang, tóc dợn, da hơi bánh mật thì liên tưởng ngay đến hậu duệ người Hời. Rồi lén chụp hình người ta hai ba tấm, về mở ra xem kỹ hình tướng, đối chiếu với các cổ thư chép về giống người này để tìm kiếm nét tương đồng, như là tự tìm kiếm cho mình một câu trả lời cho việc hòa huyết giữa hai dân tộc sinh ra hậu duệ, chứ không phải là chiến tranh tuyệt diệt lẫn nhau. Chế Cẩm Đình là một cái tên mang hoài ức như thế, dù là có lối bắt chước họ Phan kia. Và tôi như có sứ mệnh phơi sáng những ẩn ức của dân tộc này, là một sự tri hối trong khả năng nhỏ mọn của mình.
3.Chăm, Chiêm, Chàm, Hồi, Hời
Chăm pa là tên loài hoa sứ (hoa đại), hoa này được trồng nhiều ở đền, chùa, miếu mạo, gắn liền với sự thanh khiết. Người xứ ấy lập quốc năm 192 và tồn tại đến năm 1832 thì kết thúc bởi một sắc lệnh của vua Minh Mạng. Trải qua hơn 16 thế kỷ tồn tại, nước này thay tên nhiều lần nhưng tên Chăm pa, lấy tên loài hoa nói trên là nổi bật hơn cả và được chép lại nhiều trong các sử thư, thường gọi tắt là Chăm.
Champapura hay Campa – pura được hán hóa là Chiêm Bà Thành (占婆 城) về sau rút ngắn lại thành Chiêm Thành (占 城). Mà không rõ là bên Trung Hoa có hoa sứ hay không mà lại ký âm Cham thành Chiêm, bởi chữ Chiêm (占) này không mang nghĩa là hoa đại, mà mang nghĩa là Chiêm (tinh) hoặc Chiếm (cứ), theo Hán tự. Giả như chữ Chiêm chỉ là ký âm, thì Chiêm Thành có nghĩa là Thành Hoa đại.
Chữ Chiêm (占) tiếng Phổ thông (Trung văn) đọc là Zhàn, tiếng Quảng Đông đọc là Chàm. Người Trung Hoa đi buôn bán khắp nơi, cập cảng Bắc hà nói trong ấy có xứ Chàm thì người Việt cũng gọi theo là Chàm.
Tận cuối Trung Hoa mạn Tây Bắc có giống người Turk (gốc Thổ) lập quốc và có thời rất hùng mạnh, cát cứ hẳn một vùng đất rộng lớn đến 3 triệu cây số vuông dọc theo con đường tơ lụa huyền thoại qua đến Tây Á. Nước ấy sử củ gọi là Hồi Cốt hay Hồi Hột, ngày nay chính là xứ Tân Cương của người Duy Ngô Nhĩ. Người xứ ấy mặc đồ thụng, đầu đội mũ hoặc quấn khăn trắng theo đạo Islam thờ thánh Ala. Do tính thất bản của việc lưu truyền sử sách mà đạo Islam được gọi là đạo Hồi (đạo của người Hồi). Người Chiêm Thành thì du nhập đạo Islam vào đường buôn bán với Nam Đảo (Mã Lai, Chà Và) từ thế kỷ 12 và phát triển khá mạnh. Từ thời gian này trở đi thì cuộc xung đột với Đại Việt cũng lớn dần. Người Việt đọc Hán thư nhiều, khi vào đến đất Chàm thấy có giống dân ăn vận và thờ cúng như trong sách sử mô tả thì gọi họ là người Hồi. Biến âm Hồi thành Hời ("ôi" thành "ơi" như "ôi trời" – "trời ơi") nên về sau sử ta chép họ là người Hời.
Sự chồng lấn này đã tạo ra tiếng nói riêng cho vùng đất từ Quảng Bình đổ vào đến Thừa Thiên, sử dụng vốn từ ngữ của cả hai dân tộc Kinh – Hời, khác với vùng Thanh, Nghệ chỉ sử dụng từ ngữ Việt cổ sẽ trình bày ở phần tiếp theo.

READ MORE - SƠ KHẢO NGÔN NGỮ MIỀN TRUNG - PHẦN MỘT: NỖI ÁM ẢNH TỪ QUÁ KHỨ - Chế Cẩm Đình