Hình từ: http://galaxylands.com.vn/ |
QUẢNG TRỊ ƠI, ĐẤT SAO ĐẤT LẠ ĐẤT LÙNG
Lê Quang Thái
Chính sử ghi chép rạch ròi nói rằng:
Ô Châu được đổi thành Thuận Châu và Châu Rí là Hóa Châu. Tuy vậy địa danh Ô
Châu cũng như Hóa Châu vẫn được dùng để chỉ một vùng đất mới như lời vịnh về bức
dư đồ của vua Lê Thánh Tông.
Đồ bản “mười ba xứ” mở coi
Hóa Châu xưa thuộc nước phương
ngoài
Viết về lịch sử núi sông, thành
trì, phong tục, sản vật, nhân vật của khúc ruột miền Trung, từ đèo Ngang trở
vào cho đến tận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Tác giả Vô Danh Thị đã khập khửng
trong việc đặt tên cho đứa con tinh thần của mình. Năm Ất Mão 1555, niên hiệu Cảnh
Lịch đời Mạc Phúc Nguyên, Tiến sĩ Dương Văn An đã sửa chữa, hiệu đính và tập
thành để đặt cho sách cái tên Ô Châu Cận Lục.
Phong thổ tạo nên tính khí con người.
Tiêm bút lông để nghĩ ngợi trầm tư viết lời đề tựa cho sách mới, Dương Văn An
đã hạ bút cẩn trọng phê rằng: “Từ khi Đặng Tất nổi tiếng là có tài làm tướng, Dục
Tài do chân Khoa bảng xuất hiện thì nhân tài ở phương thổ xứ ta tiến bộ một
cách rất mau, có thể ngang hàng với Thượng quốc (là nước Tàu)” (Bùi Lương dịch)
Quảng Trị là đất Ô Châu, câu nói đã
trở thành quen thuộc như bài ca:
Quê hương một thưở huy hoàng
Phồn hoa phố Sãi rộn ràng ngựa xe
Bến sông san sát thuyền bè
Bốn phương khách bạn đổ về Ô Châu
Tiếng đàn, tiếng sáo đêm thâu
Điện nam khách nổi trống chầu vang
vang
Một thời cảnh của Ô Châu là thế đó,
chớ không phải là nơi đồng chua nước mặn, là đất cày lên sỏi đá. Phố
Sãi không phải là chợ Sãi mà là tiền thân của chợ Thạch Hãn, mà người dân quen
gọi là chợ tỉnh.
Sau nhiểu lần cải cách hành chánh,
phân ranh giới phủ huyện, làng xã đổi tên địa danh vì kỵ húy, nhưng Quảng
Trị vẫn còn những phương danh được nhắc nhở như Địa Linh (tức Do Linh), Anh Kiệt
(tức Anh Tuấn), Linh Sơn, Tiên Sơn, Vĩnh Định, Bồ Bản, Diên Sanh, Vĩnh Tú, Trường
Sanh, Di luân, Cam Lộ, Đạo Đầu, Thi Ông, Diên Khánh, Quảng Điền, Quảng Lượng…
Bên cạnh đó vẫn còn những địa danh rất
chi là dân dã, chẳng hạn như La Vang, Khe Mây, Khe Nước Chè, Cồn Tiên, Ba Dốc,
cầu Bầu Vịt, Bến Đá Đầu Đông, Đò Xưởng, Đá Nổi, phường sắn, động Ba Màu, Cồn Cờ,
Cảnh vật tuy tiêu sơ nhưng gợi nhiều cảm xúc vời vợi về một thời:
Nước Cồn Cờ hòa trong gió mát
Bãi Cồn Cờ nhỏ cát càng xinh
Cồn Cờ ở trước Dinh Cát cạnh con rồng
xanh Thạch Hãn. Chính đích thi nơi đây ngày xưa các quan làm lễ hội thề đầu
xuân mới với quyết tâm lo cho dân sống no đủ, sống hạnh phúc, tai qua nạn khỏi,
giữ trọn đạo thống.
Gặp năm hạn hán mất mùa thì quan chức
địa phương, dân làng lo cầu đảo cầu mưa với thần sông núi. Cầu ở đâu? Sách Đại
Nam nhất thống chí, tỉnh Quảng Trị cho biết cầu ở trên Trảo Trảo phu nhân ở
làng Ái Tử, đền Quê Nương ở động Tam Thanh ở phủ Cam Lộ, đền Cam Lộ ở phường
Tân An, đền Thúy Tộc Phu Nhân ở làng Hà Lỗ huyện Hải Lăng.
Riêng có chuyện này mới lạ, chưa
tìm ra cách giải thích thỏa đáng được. Đó là ở cùng sách đã dẫn cho biết rằng gặp
năm đại hạn, dân làng Trường Sanh, huyện Hải Lăng đến cầu mưa ở cầu Ồ Ồ. Nơi
đây có một cái vực sâu, hễ “Dìm con mèo xuống vực thì trời mưa”.
Nếu bảo rằng đó là chuyện huyền hoặc
thì sao chính sử đời vua Duy Tân còn ghi rõ là “tục ấy đến nay vẫn còn làm
như thế”.
Cả làng Trung Đơn thuộc xã Hải
Thành, huyện Hải Lăng có chuyện lạ chính tôi đã nhiều lần chứng kiến. Hễ một
khi bất kì ai đó nấu xôi, nấu bánh chưng, bánh tét mà không kiểm soát kỹ để
cho một người trong họ Hồ ngó vào thì dẫu cho có nấu hết củi, hết cả đống rơm
mà lễ vật vẫn không chín đều. Nếu kịp thời phát hiện thì chỉ có cách là đi tìm
một người họ Hồ khác đến dùng đũa “guậy” vào nồi xôi hoặc thùng bánh thì mới
chín.
Về mặt ngôn ngữ thì ở Quảng Trị có
nhiều từ nghe lạ lạ, làng Thượng Xá gọi đi bừa là “đi nôm”, làng
Trung Đơn gọi cơm là “phạn” vì do kỵ húy, làng Phú Hải ở huyện Hải
Lăng là cái gốc đào tạo thầy pháp, cho đến nỗi người Quảng Trị gọi thầy phù thủy
là thầy Phú Hải. Đặc biệt, dân làng này có tiếng nói chịu ảnh hưởng rơi động của
ngôn ngữ Chàm.
Ở chốn làng quê xuất hiện, có thể
nói thẳng là “tưởng chừng như quê mùa” nhưng có ngờ đâu lại sản sinh
ra những nhân tài. Có học trò nhà nghèo đến nổi chỉ quen ăn khoai, ăn độn mà
sao dạ cứ sáng và thông. Lúc còn bạch diện thư sinh, cảnh nhà nghèo đến độ tua
xơ mướp như người học trò ấy vẫn nuôi chí học, vì phải lo phụ việc đồng áng,
cho nên có một hôm trò đi học trễ. Thầy quở rồi buộc anh ta phải đối cho
được câu thầy xướng mới được vào lớp:
Sáng khoai, trưa khoai, tối cũng
khoai
Trò liền nhanh trí bẩm xin thầy cho
đối ngay tươi rằng:
Hương đậu, Hội đậu, Đình cũng đậu
Người học trò này chính đích thị
sau này là Hoàng Giáp Nguyễn Văn Chương, sau đổi tên là Nguyễn Lập, người làng
Vĩnh Huề, huyện Đăng Xương (nay là Triệu Phong), tỉnh Quảng Trị. Ông Đỗ Đình
Nguyên khoa giáp thìn, năm Thiệu Thị thứ tư 1844, về sau, ông làm quan đền chức
Án Sát tỉnh Hải Dương.
Tôi còn nhớ anh Trần Cảnh Hảo, người
phủ Vĩnh Linh, lúc còn niên thiếu sống cảnh khổ cực phải đi bán hương ở chợ rẩy
lấy lời cho bố mẹ, lo việc ăn học cho con. Vua Duy Tân có ra câu khá hóc hiểm về
chữ nghĩa rằng:
Không vô trong nội nhớ hoài
Ông đối lại:
Ở đình bán hương thơm mãi
Sau này ông theo con đường tân học
làm giáo sư trường Sư phạm, được nhà giàu ở tỉnh Quảng Trị gả con gái đẹp cho.
Ông có công sưu tập, nghiên cứu, viết sách về luật hỏi ngã trong tiếng Việt.
Là một trí thức uyên bác thế mà ra ứng
cử dân biểu năm 1956 bị trượt do “sức ép” phải dồn phiếu cho ông “trưởng giả” đọc
văn không trôi và chẳng biết ngắt câu sao cho có nghĩa. Người Quảng Trị những
“tiếc” cho ông là đã đem công mà chọi gà. Có thể nói hiếu học là “cái vốn” của
dân Quảng Trị. Xưa kia đi học thi đỗ tú tài Hán học thì đã mừng, có thể tổ chức
lễ khao vọng bằng cách vật heo để làm lễ tạ ơn trên đãi đằng làng nước. Thế mà
oái oăm thay ông Hoàng Hữu Đàn đi thi hương đỗ tú tài thì lại bị các bậc khoa mục
tôn trưởng của họ Hoàng làng Bích Khê, tổng Bích La, phủ Triệu Phong hạch tội bằng
cách căng nọc đánh cảnh cáo trước sân nhà thờ. Tội gì vậy? Chỉ vì những “học
trò thi” thuộc dòng tộc này liên tiếp những ba bốn đời thi hương đều đỗ cử
nhân.
Cuối đời ông đi tu và trở thành Thượng
tọa, được cử giữ chức Trú Trì chùa Hải Đức – Huế. Cố chờ đợi thầy về nhận chức
mà những vắng biệt tăm hơi đến nỗi người Hoa ở Chợ Lớn phải kính phục “xin
bái” về tài phóng bút long của thầy. Thầy đã viết nét chữ lớn về một bảng
hiệu tên trường học của người Hoa ở chợ Lớn (nay thuộc Sài Gòn) một cách xuất
thần.
Đất Ô Châu có ngạch phát sinh các bậc
danh tặng: “Quảng Trị - Trung kiên; Thừa Thiên – Dạ Lê”. Chỉ tính
riêng họ Nguyễn làng Trung Kiên xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong đã có 5 vị
hòa thượng. Riêng Hòa Thượng Thích Nhất Định có tên đời là Nguyễn Nhất Định đã
được ghi tiểu sử vắn tắt vào sách Đại Nam nhất thống chí, tỉnh Quảng Trị, vì
ngài là bậc cao tăng và rất có hiếu với mẹ già.
Hòa Thượng Nhất Định đã thân hành
đi chợ mua cá về phụng dưỡng mẹ già, Đức Hiếu của ngài đến tận cung vua cũng phải
nể vì. Làng Ái Tử có ít nhất hai vị Hòa Thượng. Cả hai vị đã giữ chức Tăng Thống,
kế tục sau Táng Thống thích Tịnh Khiết mất năm 1973.
Ngoài ra các làng Đạo Đầu, Bích
khê, Phương lang, Cu hoan, Ba Khê, Diên kinh… có rất nhiều vị xuất gia đầu phật,
có nhiều người đã đỗ đạt cao trong nước và nước ngoài.
Còn về Công giáo thì chẳng mấy thua
kém gì. Đất Quảng Trị có đến 3 giám mục: Lê Hữu Từ, Nguyễn Văn Hiền, Tổng giám
mục Nguyễn Như Thể. Ngoài ra ngạch đất Ô Châu cũng đã sản sinh ra những linh mục
làm sáng đạo đẹp đời. Các vị đều xuất thân từ những làng quê như Thạch Hãn, Trí
Bưu, Bố Liễu, Đại Lộc, Như Lý, Văn Quỷ, Đồng Giám, Dương Lệ, Dương Lộc, Di
Luân - (Di Loan)…
Sống trên đời ai cũng có lí tưởng
cao đẹp, sống theo đạo làm người. Người có đạo chú trọng đến phần hồn. Trên đất
thị xã Quảng Trị có chuyện chết rồi mà sống lại, đội mồ mà tìm được đường về
nhà giữa đêm khuya lạnh ngắt và thê lương mới lạ đời. Con người ấy chính là ông
thợ Lợ, làm nghề thợ guốc bán ở chợ tỉnh tức chợ Thạch Hãn, nhà ông ở tại xóm
Tiêu, làng Cổ Thành nay là ngoại vi cách Thành Cổ chừng hơn một trăm cây số
theo đường đi.
Năm 1872 tại ba tỉnh Thừa Thiên, Quảng
Trị, Quảng Bình xảy ra bệnh dịch tả hoành hành ác liệt, khiến cho toàn quyền
Đông Dương ra lệnh nghiêm ngặt, cấm hoặc hoãn những buổi hội họp, đình đám. Đại
hội La Vang trúng vào năm ấy cũng bị hoãn. Ai chết là phải tức tốc chôn liền,
chôn ngay.
Ông thợ Lợ chẳng may bị bệnh nặng rồi
chết về đêm, người nhà lo tẩm liệm sơ sài rồi nhờ bà con đốt đuốc đi chôn ở bãi
Nhan Biều. Thưở ấy, có một chặng sông Thạch Hãn bị cát bồi cạn ở phía bãi cát
trước bờ chùa phía nam. Người ta có thể lội qua, về từ bờ này sang bờ kia. Táng
ông Lợ xong, người nhà ra về. Ai ngờ gần 4 giờ sáng ông Lợ sống lại vì lý do hồi
hương sinh mạch, bung chiếu, đội mồ đi tìm được đường đi về nhà gọi cửa, khiến
cả nhà ai nấy đều thất kinh hồn vía. Thưở ấy, vì người chết quá nhiều, không kịp
sắm hòm và cũng không có tiền để mua hòm nữa là đằng khác.
Sinh tử là chuyện tại mệnh số con
người. Thọ là điều phước mà ai cũng cầu. Càng giàu, càng ở địa vị cao
ai cũng lo sao cho được thọ được sống lâu, giàu bền. Cầu thọ cho mình thì phải
chúc thọ cho người. Danh mà được thọ mới là người tuyệt quý. Tháng tư năm Ất
Mùi, Minh Mạng thứ 16 (1835) nhà vua ngự ở từ kinh đô ra hành cung trong thành
Quảng Trị bằng đường thủy. Từ Huế theo Sông Hương, sông Gia Hội ra Phá Tam
Giang rồi theo sông Vĩnh Định đến thủy hành cung ở sông Thạch Hãn.
Vua bảo với các quan hầu rằng:
-“Ngày trước ta đi thuyền đến địa
phận xã Ngô Xá, trông thấy một người đàn bà già, sai hỏi tuổi thì người ấy nói
rằng 117 tuổi chưa biết có xác thực hay không, nhưng đại phàm người chỗ mạch đất
núi sông thanh tú thì phần nhiều thọ, hoặc già cũng có lý đấy.”
Núi sông thanh tú tức là nam thanh
nữ tú chẳng khác đất Thừa Thiên trai hiền, gai lịch vậy.
Nhân dịp này nhà vua bèn sai đẩy xe
đi xem tường thành mới xây đắp, thấy các kỳ lão thuộc hạt Quảng Trị đang đứng
đón để chiêm bái. Các cụ già có người đi chậm không theo kịp, khiến các bậc
quan phủ huyện phải cõng các bậc trưởng lão đi.
Vua Minh Mạng có óc hài hước lại có
tính hay giỡn như vua cha vậy. Nhà vua liền cười duyên và nói rằng: “Lũ ấy ngày
thường làm cha mẹ dân, nay cõng người già đến chiêm bái thì hầu như con của dân
rồi!”
Trong bối cảnh lịch sử kỳ thú này,
thì có sự trùng phùng của “Dân chi phụ mẫu” với “Phụ mẫu chi dân” mà bình thường
hay nhầm lẫn.
Có một nét độc đáo là trong hàng bô
lão ấy có 5 người trên trăm tuổi, người thọ nhất là 107 tuổi, được ưu tiên đặc
cách thương một đồng kim tiền Phi Long hạng lớn. Người xưa tin rằng, hễ đất có
nhiều người thọ là điềm báo trước của sự thịnh vượng sẽ có thánh nhân ra đời.
Việc chọn đất để đóng tỉnh thành là
việc mà các chúa Nguyễn và vua Nguyễn rất quan tâm. Phải suy tính, thẩm định theo
phong thủy học (mà ngày xưa gọi là khoa địa lý) mới tìm ra và chọn được những
cuộc đất như Ái Tử, Thạch Hãn, Tân Sở. Ngày này không những các thế hệ con cháu
phải thừa nhận là tiền nhân ta có tầm nhìn chiến lược và lại khớp đúng với tinh
thần khoa học. Sau này người Pháp và người Mỹ cũng thừa nhận là đất Ái Tử là cuộc
đất xứng đáng để xây đồn lũy, lập phi trường. Tỉnh Quảng Trị có nhiều bãi đáp
hoặc phi trường như Ái Tử, Nhan Biều, La Vang, Đông Hà, Tà Cơn…Rốt cuộc vào vào
thời hiện đại hóa chẳng còn phi trường nào, âu đó là điều lạ, cần phải suy ngẫm
là bởi tại ai?
Theo sách “Minh Mạng Chính yếu” thì
năm 1833 nhà vua đã từng có lời bình về cuộc đất được chọn để nâng thành Quảng
Trị là thích hợp và thuận tiện như lời tâu của thư Tuấn Vũ Nguyễn Tú. Trước đó,
nhà vua đã ra lệnh cho các địa phương cố ra sức đi tìm cuộc đất khác để đóng tỉnh
thành nhưng rồi không có cuộc đất nào thay thế được Thạch Hãn cả.
Nhà vua bèn bảo ban rằng: “Địa dĩ
nhân nhi thắng” nghĩa là mảnh đất này sản sinh ra người tài giỏi. Chính vì vậy
mà tổ tiên ta lập miếu Thành Hoàng, Đàn Xã Tắc, Văn Miếu ở mảnh đất này. Nay có
biết các dấu vết đó còn dấu tích gì và nằm ở đâu thì chỉ việc soi đuốc mà đi
tìm. Riêng văn Miếu thì mãi đến năm 1980 dời về làng An Đôn nay thuộc xã Triệu
Thượng, huyện Triệu Phong.
Vua nhà Trần xây thành Thuận Châu ở
làng Võ Thuận nay thuộc xã Triệu Thuận, huyện Triệu Phong. Nơi đây có Chợ Thuận
và xưa kia là đất thuộc huyện Hải Lăng. Sau nhiều lần cải cách hành chính phân
định ranh giới giữa các huyện, tổng, làng, khiến cho người đời sau tìm hiểu nhọc
công, mất sức đến đứt đuôi rắn. Tội nghiệp cho các ngươi làm việc xác minh lý lịch
lắm lúc phải than rằng: “Chẳng biết sờ voi hướng nào”.
Thiết nghĩ tại nơi đền nghĩ
Thuận Châu, thành Vĩnh Ninh ở Cam Lộ, Tân Sở, Dinh Cát, Ái Tử… nên có dựng bia
để làm dấu tích lịch sử không thì đó vẫn là chuyện lạ của một vùng đất lạ. Các
tỉnh bạn được sưu tra, điều tra cơ bản rất chi là công phu để có tri thức mà
nói với người ta, nói với thiên hạ.
Quảng Trị là quê ngoại
của các vua Nguyễn. Vua Gia Long có Quê ngoại ở làng An Do và Cổ Trai, vua Thiệu
Trị, Tương An quận vương có quê ngoại ở phường Gia Bình tổng Bái Ân, huyện Do
Linh, gạo de Bái Ân thơm ngon chẳng khác gì gạo de An Cựu. Vua Đồng Khánh có
quê ngoại ở làng Đông Dương huyện Hải Lăng. Năm Thiệu Trị thứ hai 1842, Tương
An quận vương lần thứ tư ra thăm quê ngoại đã cảm xúc với cảnh sương trắng miền
quê ngoại. Ngủ đò ở bến Quảng Trị, nhà thơ đã cảm xúc trước cảnh non nước hữu
tình:
Dân toại sinh nhai triêm đức chính
Điền đa cam trạch cận Trường An
Dịch là:
Chính đức thấm nhuần, dân thỏa
thích
Đề kinh tế cận, nước trong lành
(Nguyễn Khuê dịch)
Đất sao người vậy, họ Trần Đình
làng Hà Trung với 13 đời làm quan lớn từ hàng Thượng thư đến Tể tướng. Khâm sứ
pháp ở huế, công sứ Quảng Trị nghe đọc “đít cua” (discurs: điếu văn, diến văn)
lúc hạ huyệt thượng thư Trần Đình Phác ở làng sở trị đã phải cầm chắc lưỡi sửng
sốt về sự kỳ lạ của một dòng tộc.
Nước Tam Sơn chảy xuống Ba Hà
Bao giờ hết chảy nhà này hết quan.
Thế gian nói câu trào lộng và thâm
thúy “Nhất quận công, nhì tắm sông ”Tắm sông chứ không phải tắm hơi, còn dị bản
nào nữa thì tùy theo độc giả nghĩ ngợi về cái sướng trên đời. Đất Quảng Trị vào
thời cận đại có hai nhân vật lịch sử được phong tước Quận công. Đó là Quận công
Nguyễn Văn Tường, Quận công Nguyễn Hữu Bài. Ông Tường quê ở làng An Cư, ông Bài
gốc người Quảng Bình nhưng chọn Cao Xá Vĩnh Linh và Phước Môn – Hải Lăng làm
quê hương.
Theo lời nhà báo Henrile Grauclaude
viết ở sách NHỮNG THỜI KỲ CỦA NƯỚC VIỆT NAM TRONG LÚC HỒI XUÂN do hai vị quan
triều đình dịch ra quốc ngữ thì PHONG THỔ QUẢNG TRỊ HIỀN HẬU. Tháng 11/1932,
nhà báo ấy đã tháp tùng phái đoàn do vua Bảo Đại ra thăm tỉnh lỵ Quảng Trị,
Đông Hà và Cam Lộ, Sứ thần triều Nguyễn viết rằng phong tục tỉnh kế cận kinh
đô, vừa là cựu dinh, chất phác thuần lương, chuộng kiệm ước, ít xa hoa. Duy chỉ
có chuyện chưa tốt là có bọn cường hào hay võ đoán việc trong làng xóm nên sinh
nhiều sự kiện cáo. Nhưng có điều là người dân Quảng Trị yêu chuộng tinh thần
CHÍNH ĐẠI QUANG MINH sống chết vì lẽ phải:
Lên huyện không cử thì về tỉnh
Tỉnh không cử vô dinh
Vào kêu tài chính thẩm minh sự này
(Về chợ phiên Cam Lộ)
Chợ phiên Cam Lộ được đặt nguyên ở
vị trí cũ, chớ không bị đời một cách tùy tiện:
Giang sơn thổ võ cũng linh
Bộ tư ra tỉnh chợ, đình xưa.
Càng đọc lại sử sách thời cận đại
thì lại càng biết thêm về Quảng Trị có nhiều danh thần, hương trưởng, khoa mục,
võ biền đều đủ mặt. Tiến sĩ văn, tiến sĩ võ đều có cả. Thanh liêm như Nguyễn Quận,
trung liệt như Phan Văn Thúy, Lê Mậu Của…
Uyên bác đạt đến mức thạc học như
Nguyễn Hữu Thận, tài hoa và khéo tay như Nguyễn Tú đã sữa chữa đồng hồ cho phủ
Chúa và còn làm được đồng hồ nữa.
Nếu các cơ quan Văn hóa tỉnh Quảng
Trị chịu bỏ tiền của, công sức ra để đầu tư một cách chính đáng trong việc sưu
tầm lại sử sách về Quảng Trị một cách có hệ thống, có kế hoạch, thì chắc rằng
sẽ thu được những nguồn thu tư liệu mới còn nằm tản mạn đo đây ở khắp
cùng đất nước và nước ngoài, nếu không thì sẽ biết gì MỚI HƠN, SÂU HƠN, LẠ HƠN
về truyền thống lịch sử, di sản văn hóa mà nói với thiên hạ?
L.Q.T
Nguồn: Tạp chí Cửa Việt
số 10, tháng 07/1995.