Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Monday, July 19, 2021

QUẢNG TRỊ ƠI, ĐẤT SAO ĐẤT LẠ ĐẤT LÙNG - Lê Quang Thái

 

Hình từ: http://galaxylands.com.vn/


QUẢNG TRỊ ƠI, ĐẤT SAO ĐẤT LẠ ĐẤT LÙNG

Lê Quang Thái


Chính sử ghi chép rạch ròi nói rằng: Ô Châu được đổi thành Thuận Châu và Châu Rí là Hóa Châu. Tuy vậy địa danh Ô Châu cũng như Hóa Châu vẫn được dùng để chỉ một vùng đất mới như lời vịnh về bức dư đồ của vua Lê Thánh Tông.


Đồ bản “mười ba xứ” mở coi

Hóa Châu xưa thuộc nước phương ngoài


Viết về lịch sử núi sông, thành trì, phong tục, sản vật, nhân vật của khúc ruột miền Trung, từ đèo Ngang trở vào cho đến tận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Tác giả Vô Danh Thị đã khập khửng trong việc đặt tên cho đứa con tinh thần của mình. Năm Ất Mão 1555, niên hiệu Cảnh Lịch đời Mạc Phúc Nguyên, Tiến sĩ Dương Văn An đã sửa chữa, hiệu đính và tập thành để đặt cho sách cái tên Ô Châu Cận Lục.


Phong thổ tạo nên tính khí con người. Tiêm bút lông để nghĩ ngợi trầm tư viết lời đề tựa cho sách mới, Dương Văn An đã hạ bút cẩn trọng phê rằng: “Từ khi Đặng Tất nổi tiếng là có tài làm tướng, Dục Tài do chân Khoa bảng xuất hiện thì nhân tài ở phương thổ xứ ta tiến bộ một cách rất mau, có thể ngang hàng với Thượng quốc (là nước Tàu)” (Bùi Lương dịch)


Quảng Trị là đất Ô Châu, câu nói đã trở thành quen thuộc như bài ca:


Quê hương một thưở huy hoàng

Phồn hoa phố Sãi rộn ràng ngựa xe

Bến sông san sát thuyền bè

Bốn phương khách bạn đổ về Ô Châu

Tiếng đàn, tiếng sáo đêm thâu

Điện nam khách nổi trống chầu vang vang


Một thời cảnh của Ô Châu là thế đó, chớ không phải là nơi đồng chua nước mặn, là đất cày lên sỏi đá. Phố Sãi không phải là chợ Sãi mà là tiền thân của chợ Thạch Hãn, mà người dân quen gọi là chợ tỉnh.


Sau nhiểu lần cải cách hành chánh, phân  ranh giới phủ huyện, làng xã đổi tên địa danh vì kỵ húy, nhưng Quảng Trị vẫn còn những phương danh được nhắc nhở như Địa Linh (tức Do Linh), Anh Kiệt (tức Anh Tuấn), Linh Sơn, Tiên Sơn, Vĩnh Định, Bồ Bản, Diên Sanh, Vĩnh Tú, Trường Sanh, Di luân, Cam Lộ, Đạo Đầu, Thi Ông, Diên Khánh, Quảng Điền, Quảng Lượng…


Bên cạnh đó vẫn còn những địa danh rất chi là dân dã, chẳng hạn như La Vang, Khe Mây, Khe Nước Chè, Cồn Tiên, Ba Dốc, cầu Bầu Vịt, Bến Đá Đầu Đông, Đò Xưởng, Đá Nổi, phường sắn, động Ba Màu, Cồn Cờ, Cảnh vật tuy tiêu sơ nhưng gợi nhiều cảm xúc vời vợi về một thời:


Nước Cồn Cờ hòa trong gió mát

Bãi Cồn Cờ nhỏ cát càng xinh


Cồn Cờ ở trước Dinh Cát cạnh con rồng xanh Thạch Hãn. Chính đích thi nơi đây ngày xưa các quan làm lễ hội thề đầu xuân mới với quyết tâm lo cho dân sống no đủ, sống hạnh phúc, tai qua nạn khỏi, giữ trọn đạo thống.


Gặp năm hạn hán mất mùa thì quan chức địa phương, dân làng lo cầu đảo cầu mưa với thần sông núi. Cầu ở đâu? Sách Đại Nam nhất thống chí, tỉnh Quảng Trị cho biết cầu ở trên Trảo Trảo phu nhân ở làng Ái Tử, đền Quê Nương ở động Tam Thanh ở phủ Cam Lộ, đền Cam Lộ ở phường Tân An, đền Thúy Tộc Phu Nhân ở làng Hà Lỗ huyện Hải Lăng.


Riêng có chuyện này mới lạ, chưa tìm ra cách giải thích thỏa đáng được. Đó là ở cùng sách đã dẫn cho biết rằng gặp năm đại hạn, dân làng Trường Sanh, huyện Hải Lăng đến cầu mưa ở cầu Ồ Ồ. Nơi đây có một cái vực sâu, hễ “Dìm con mèo xuống vực thì trời mưa”.


Nếu bảo rằng đó là chuyện huyền hoặc thì sao chính sử đời vua Duy Tân còn ghi rõ là “tục ấy đến nay vẫn còn làm như thế”.


Cả làng Trung Đơn thuộc xã Hải Thành, huyện Hải Lăng có chuyện lạ chính tôi đã nhiều lần chứng kiến. Hễ một khi bất kì ai đó nấu xôi, nấu bánh chưng, bánh tét mà không kiểm soát kỹ để cho một người trong họ Hồ ngó vào thì dẫu cho có nấu hết củi, hết cả đống rơm mà lễ vật vẫn không chín đều. Nếu kịp thời phát hiện thì chỉ có cách là đi tìm một người họ Hồ khác đến dùng đũa “guậy” vào nồi xôi hoặc thùng bánh thì mới chín.


Về mặt ngôn ngữ thì ở Quảng Trị có nhiều từ nghe lạ lạ, làng Thượng Xá gọi đi bừa là “đi nôm”, làng Trung Đơn gọi cơm là “phạn” vì do kỵ húy, làng Phú Hải ở huyện Hải Lăng là cái gốc đào tạo thầy pháp, cho đến nỗi người Quảng Trị gọi thầy phù thủy là thầy Phú Hải. Đặc biệt, dân làng này có tiếng nói chịu ảnh hưởng rơi động của ngôn ngữ Chàm.


Ở chốn làng quê xuất hiện, có thể nói thẳng là “tưởng chừng như quê mùa” nhưng có ngờ đâu lại sản sinh ra những nhân tài. Có học trò nhà nghèo đến nổi chỉ quen ăn khoai, ăn độn mà sao dạ cứ sáng và thông. Lúc còn bạch diện thư sinh, cảnh nhà nghèo đến độ tua xơ mướp như người học trò ấy vẫn nuôi chí học, vì phải lo phụ việc đồng áng, cho nên có  một hôm trò đi học trễ. Thầy quở rồi buộc anh ta phải đối cho được câu thầy xướng mới được vào lớp:


Sáng khoai, trưa khoai, tối cũng khoai


Trò liền nhanh trí bẩm xin thầy cho đối ngay tươi rằng:


Hương đậu, Hội đậu, Đình cũng đậu


Người học trò này chính đích thị sau này là Hoàng Giáp Nguyễn Văn Chương, sau đổi tên là Nguyễn Lập, người làng Vĩnh Huề, huyện Đăng Xương (nay là Triệu Phong), tỉnh Quảng Trị. Ông Đỗ Đình Nguyên khoa giáp thìn, năm Thiệu Thị thứ tư 1844, về sau, ông làm quan đền chức Án Sát tỉnh Hải Dương.


Tôi còn nhớ anh Trần Cảnh Hảo, người phủ Vĩnh Linh, lúc còn niên thiếu sống cảnh khổ cực phải đi bán hương ở chợ rẩy lấy lời cho bố mẹ, lo việc ăn học cho con. Vua Duy Tân có ra câu khá hóc hiểm về chữ nghĩa rằng:


Không vô trong nội nhớ hoài


Ông đối lại:


Ở đình bán hương thơm mãi


Sau này ông theo con đường tân học làm giáo sư trường Sư phạm, được nhà giàu ở tỉnh Quảng Trị gả con gái đẹp cho. Ông có công sưu tập, nghiên cứu, viết sách về luật hỏi ngã trong tiếng Việt.


Là một trí thức uyên bác thế mà ra ứng cử dân biểu năm 1956 bị trượt do “sức ép” phải dồn phiếu cho ông “trưởng giả” đọc văn không trôi và chẳng biết ngắt câu sao cho có nghĩa. Người Quảng Trị những “tiếc” cho ông là đã đem công mà chọi gà. Có thể nói hiếu học là “cái vốn” của dân Quảng Trị. Xưa kia đi học thi đỗ tú tài Hán học thì đã mừng, có thể tổ chức lễ khao vọng bằng cách vật heo để làm lễ tạ ơn trên đãi đằng làng nước. Thế mà oái oăm thay ông Hoàng Hữu Đàn đi thi hương đỗ tú tài thì lại bị các bậc khoa mục tôn trưởng của họ Hoàng làng Bích Khê, tổng Bích La, phủ Triệu Phong hạch tội bằng cách căng nọc đánh cảnh cáo trước sân nhà thờ. Tội gì vậy? Chỉ vì những “học trò thi” thuộc dòng tộc này liên tiếp những ba bốn đời thi hương đều đỗ cử nhân.


Cuối đời ông đi tu và trở thành Thượng tọa, được cử giữ chức Trú Trì chùa Hải Đức – Huế. Cố chờ đợi thầy về nhận chức mà những vắng biệt tăm hơi đến nỗi người Hoa ở Chợ Lớn phải kính phục “xin bái” về tài phóng bút long của thầy. Thầy đã viết nét chữ lớn về một bảng hiệu tên trường học của người Hoa ở chợ Lớn (nay thuộc Sài Gòn) một cách xuất thần.


Đất Ô Châu có ngạch phát sinh các bậc danh tặng: “Quảng Trị - Trung kiên; Thừa Thiên – Dạ Lê”. Chỉ tính riêng họ Nguyễn làng Trung Kiên xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong đã có 5 vị hòa thượng. Riêng Hòa Thượng Thích Nhất Định có tên đời là Nguyễn Nhất Định đã được ghi tiểu sử vắn tắt vào sách Đại Nam nhất thống chí, tỉnh Quảng Trị, vì ngài là bậc cao tăng và rất có hiếu với mẹ già.


Hòa Thượng Nhất Định đã thân hành đi chợ mua cá về phụng dưỡng mẹ già, Đức Hiếu của ngài đến tận cung vua cũng phải nể vì. Làng Ái Tử có ít nhất hai vị Hòa Thượng. Cả hai vị đã giữ chức Tăng Thống, kế tục sau Táng Thống thích Tịnh Khiết mất năm 1973.


Ngoài ra các làng Đạo Đầu, Bích khê, Phương lang, Cu hoan, Ba Khê, Diên kinh… có rất nhiều vị xuất gia đầu phật, có nhiều người đã đỗ đạt cao trong nước và nước ngoài.


Còn về Công giáo thì chẳng mấy thua kém gì. Đất Quảng Trị có đến 3 giám mục: Lê Hữu Từ, Nguyễn Văn Hiền, Tổng giám mục Nguyễn Như Thể. Ngoài ra ngạch đất Ô Châu cũng đã sản sinh ra những linh mục làm sáng đạo đẹp đời. Các vị đều xuất thân từ những làng quê như Thạch Hãn, Trí Bưu, Bố Liễu, Đại Lộc, Như Lý, Văn Quỷ, Đồng Giám, Dương Lệ, Dương Lộc, Di Luân - (Di Loan)…


Sống trên đời ai cũng có lí tưởng cao đẹp, sống theo đạo làm người. Người có đạo chú trọng đến phần hồn. Trên đất thị xã Quảng Trị có chuyện chết rồi mà sống lại, đội mồ mà tìm được đường về nhà giữa đêm khuya lạnh ngắt và thê lương mới lạ đời. Con người ấy chính là ông thợ Lợ, làm nghề thợ guốc bán ở chợ tỉnh tức chợ Thạch Hãn, nhà ông ở tại xóm Tiêu, làng Cổ Thành nay là ngoại vi cách Thành Cổ chừng hơn một trăm cây số theo đường đi.


Năm 1872 tại ba tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình xảy ra bệnh dịch tả hoành hành ác liệt, khiến cho toàn quyền Đông Dương ra lệnh nghiêm ngặt, cấm hoặc hoãn những buổi hội họp, đình đám. Đại hội La Vang trúng vào năm ấy cũng bị hoãn. Ai chết là phải tức tốc chôn liền, chôn ngay.


Ông thợ Lợ chẳng may bị bệnh nặng rồi chết về đêm, người nhà lo tẩm liệm sơ sài rồi nhờ bà con đốt đuốc đi chôn ở bãi Nhan Biều. Thưở ấy, có một chặng sông Thạch Hãn bị cát bồi cạn ở phía bãi cát trước bờ chùa phía nam. Người ta có thể lội qua, về từ bờ này sang bờ kia. Táng ông Lợ xong, người nhà ra về. Ai ngờ gần 4 giờ sáng ông Lợ sống lại vì lý do hồi hương sinh mạch, bung chiếu, đội mồ đi tìm được đường đi về nhà gọi cửa, khiến cả nhà ai nấy đều thất kinh hồn vía. Thưở ấy, vì người chết quá nhiều, không kịp sắm hòm và cũng không có tiền để mua hòm nữa là đằng khác.


Sinh tử là chuyện tại mệnh số con người. Thọ là điều phước mà ai cũng cầu. Càng giàu, càng ở địa vị cao ai cũng lo sao cho được thọ được sống lâu, giàu bền. Cầu thọ cho mình thì phải chúc thọ cho người. Danh mà được thọ mới là người tuyệt quý. Tháng tư năm Ất Mùi, Minh Mạng thứ 16 (1835) nhà vua ngự ở từ kinh đô ra hành cung trong thành Quảng Trị bằng đường thủy. Từ Huế theo Sông Hương, sông Gia Hội ra Phá Tam Giang rồi theo sông Vĩnh Định đến thủy hành cung ở sông Thạch Hãn.


Vua bảo với các quan hầu rằng:


-“Ngày trước ta đi thuyền đến địa phận xã Ngô Xá, trông thấy một người đàn bà già, sai hỏi tuổi thì người ấy nói rằng 117 tuổi chưa biết có xác thực hay không, nhưng đại phàm người chỗ mạch đất núi sông thanh tú thì phần nhiều thọ, hoặc già cũng có lý đấy.”


Núi sông thanh tú tức là nam thanh nữ tú chẳng khác đất Thừa Thiên trai hiền, gai lịch vậy.


Nhân dịp này nhà vua bèn sai đẩy xe đi xem tường thành mới xây đắp, thấy các kỳ lão thuộc hạt Quảng Trị đang đứng đón để chiêm bái. Các cụ già có người đi chậm không theo kịp, khiến các bậc quan phủ huyện phải cõng các bậc trưởng lão đi.


Vua Minh Mạng có óc hài hước lại có tính hay giỡn như vua cha vậy. Nhà vua liền cười duyên và nói rằng: “Lũ ấy ngày thường làm cha mẹ dân, nay cõng người già đến chiêm bái thì hầu như con của dân rồi!”


Trong bối cảnh lịch sử kỳ thú này, thì có sự trùng phùng của “Dân chi phụ mẫu” với “Phụ mẫu chi dân” mà bình thường hay nhầm lẫn.


Có một nét độc đáo là trong hàng bô lão ấy có 5 người trên trăm tuổi, người thọ nhất là 107 tuổi, được ưu tiên đặc cách thương một đồng kim tiền Phi Long hạng lớn. Người xưa tin rằng, hễ đất có nhiều người thọ là điềm báo trước của sự thịnh vượng sẽ có thánh nhân ra đời.


Việc chọn đất để đóng tỉnh thành là việc mà các chúa Nguyễn và vua Nguyễn rất quan tâm. Phải suy tính, thẩm định theo phong thủy học (mà ngày xưa gọi là khoa địa lý) mới tìm ra và chọn được những cuộc đất như Ái Tử, Thạch Hãn, Tân Sở. Ngày này không những các thế hệ con cháu phải thừa nhận là tiền nhân ta có tầm nhìn chiến lược và lại khớp đúng với tinh thần khoa học. Sau này người Pháp và người Mỹ cũng thừa nhận là đất Ái Tử là cuộc đất xứng đáng để xây đồn lũy, lập phi trường. Tỉnh Quảng Trị có nhiều bãi đáp hoặc phi trường như Ái Tử, Nhan Biều, La Vang, Đông Hà, Tà Cơn…Rốt cuộc vào vào thời hiện đại hóa chẳng còn phi trường nào, âu đó là điều lạ, cần phải suy ngẫm là bởi tại ai?


Theo sách “Minh Mạng Chính yếu” thì năm 1833 nhà vua đã từng có lời bình về cuộc đất được chọn để nâng thành Quảng Trị là thích hợp và thuận tiện như lời tâu của thư Tuấn Vũ Nguyễn Tú. Trước đó, nhà vua đã ra lệnh cho các địa phương cố ra sức đi tìm cuộc đất khác để đóng tỉnh thành nhưng rồi không có cuộc đất nào thay thế được Thạch Hãn cả.


Nhà vua bèn bảo ban rằng: “Địa dĩ nhân nhi thắng” nghĩa là mảnh đất này sản sinh ra người tài giỏi. Chính vì vậy mà tổ tiên ta lập miếu Thành Hoàng, Đàn Xã Tắc, Văn Miếu ở mảnh đất này. Nay có biết các dấu vết đó còn dấu tích gì và nằm ở đâu thì chỉ việc soi đuốc mà đi tìm. Riêng văn Miếu thì mãi đến năm 1980 dời về làng An Đôn nay thuộc xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong.


Vua nhà Trần xây thành Thuận Châu ở làng Võ Thuận nay thuộc xã Triệu Thuận, huyện Triệu Phong. Nơi đây có Chợ Thuận và xưa kia là đất thuộc huyện Hải Lăng. Sau nhiều lần cải cách hành chính phân định ranh giới giữa các huyện, tổng, làng, khiến cho người đời sau tìm hiểu nhọc công, mất sức đến đứt đuôi rắn. Tội nghiệp cho các ngươi làm việc xác minh lý lịch lắm lúc phải than rằng: “Chẳng biết sờ voi hướng nào”.


Thiết nghĩ tại nơi  đền nghĩ Thuận Châu, thành Vĩnh Ninh ở Cam Lộ, Tân Sở, Dinh Cát, Ái Tử… nên có dựng bia để làm dấu tích lịch sử không thì đó vẫn là chuyện lạ của một vùng đất lạ. Các tỉnh bạn được sưu tra, điều tra cơ bản rất chi là công phu để có tri thức mà nói với người ta, nói với thiên hạ.


Quảng Trị là quê ngoại của các vua Nguyễn. Vua Gia Long có Quê ngoại ở làng An Do và Cổ Trai, vua Thiệu Trị, Tương An quận vương có quê ngoại ở phường Gia Bình tổng Bái Ân, huyện Do Linh, gạo de Bái Ân thơm ngon chẳng khác gì gạo de An Cựu. Vua Đồng Khánh có quê ngoại ở làng Đông Dương huyện Hải Lăng. Năm Thiệu Trị thứ hai 1842, Tương An quận vương lần thứ tư ra thăm quê ngoại đã cảm xúc với cảnh sương trắng miền quê ngoại. Ngủ đò ở bến Quảng Trị, nhà thơ đã cảm xúc trước cảnh non nước hữu tình:


Dân toại sinh nhai triêm đức chính

Điền đa cam trạch cận Trường An


Dịch là:


Chính đức thấm nhuần, dân thỏa thích

Đề kinh tế cận, nước trong lành

(Nguyễn Khuê dịch) 

        

Đất sao người vậy, họ Trần Đình làng Hà Trung với 13 đời làm quan lớn từ hàng Thượng thư đến Tể tướng. Khâm sứ pháp ở huế, công sứ Quảng Trị nghe đọc “đít cua” (discurs: điếu văn, diến văn) lúc hạ huyệt thượng thư Trần Đình Phác ở làng sở trị đã phải cầm chắc lưỡi sửng sốt về sự kỳ lạ của một dòng tộc.


Nước Tam Sơn chảy xuống Ba Hà

Bao giờ hết chảy nhà này hết quan. 

                       

Thế gian nói câu trào lộng và thâm thúy “Nhất quận công, nhì tắm sông ”Tắm sông chứ không phải tắm hơi, còn dị bản nào nữa thì tùy theo độc giả nghĩ ngợi về cái sướng trên đời. Đất Quảng Trị vào thời cận đại có hai nhân vật lịch sử được phong tước Quận công. Đó là Quận công Nguyễn Văn Tường, Quận công Nguyễn Hữu Bài. Ông Tường quê ở làng An Cư, ông Bài gốc người Quảng Bình nhưng chọn Cao Xá Vĩnh Linh và Phước Môn – Hải Lăng làm quê hương.


Theo lời nhà báo Henrile Grauclaude viết ở sách NHỮNG THỜI KỲ CỦA NƯỚC VIỆT NAM TRONG LÚC HỒI XUÂN do hai vị quan triều đình dịch ra quốc ngữ thì PHONG THỔ QUẢNG TRỊ HIỀN HẬU. Tháng 11/1932, nhà báo ấy đã tháp tùng phái đoàn do vua Bảo Đại ra thăm tỉnh lỵ Quảng Trị, Đông Hà và Cam Lộ, Sứ thần triều Nguyễn viết rằng phong tục tỉnh kế cận kinh đô, vừa là cựu dinh, chất phác thuần lương, chuộng kiệm ước, ít xa hoa. Duy chỉ có chuyện chưa tốt là có bọn cường hào hay võ đoán việc trong làng xóm nên sinh nhiều sự kiện cáo. Nhưng có điều là người dân Quảng Trị yêu chuộng tinh thần CHÍNH ĐẠI QUANG MINH sống chết vì lẽ phải:


Lên huyện không cử thì về tỉnh

Tỉnh không cử vô dinh

Vào kêu tài chính thẩm minh sự này

(Về chợ phiên Cam Lộ)


Chợ phiên Cam Lộ được đặt nguyên ở vị trí cũ, chớ không bị đời một cách tùy tiện:


Giang sơn thổ võ cũng linh

Bộ tư ra tỉnh chợ, đình xưa.


Càng đọc lại sử sách thời cận đại thì lại càng biết thêm về Quảng Trị có nhiều danh thần, hương trưởng, khoa mục, võ biền đều đủ mặt. Tiến sĩ văn, tiến sĩ võ đều có cả. Thanh liêm như Nguyễn Quận, trung liệt như Phan Văn Thúy, Lê Mậu Của…


Uyên bác đạt đến mức thạc học như Nguyễn Hữu Thận, tài hoa và khéo tay như Nguyễn Tú đã sữa chữa đồng hồ cho phủ Chúa và còn làm được đồng hồ nữa.


Nếu các cơ quan Văn hóa tỉnh Quảng Trị chịu bỏ tiền của, công sức ra để đầu tư một cách chính đáng trong việc sưu tầm lại sử sách về Quảng Trị một cách có hệ thống, có kế hoạch, thì chắc rằng  sẽ thu được những nguồn thu tư liệu mới còn nằm tản mạn đo đây ở khắp cùng đất nước và nước ngoài, nếu không thì sẽ biết gì MỚI HƠN, SÂU HƠN, LẠ HƠN về truyền thống lịch sử, di sản văn hóa mà nói với thiên hạ?


L.Q.T


Nguồn:  Tạp chí Cửa Việt số 10, tháng 07/1995.


No comments: