Nhà văn Nguyễn Đặng Mừng
VỀ LÀNG
Truyện ngắn
Nguyễn Đặng Mừng
Đàn bà thắt đáy lưng ong
Vừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi
con
(Ca dao)
Hàng năm cứ vào tháng chín âm lịch,
bà con ở xa thường về làng chạp mả. Nhiều khi ở cả tháng trời cũng chưa chạp
xong mộ bên nội bên ngoại. Làng có tám họ tộc, mấy chục đời gả qua lấy lại gần
như bà con cả. Nhớ cho ra bà con thế nào, nội ngoại ra sao, ai anh ai chị, ai
chú ai bác, ai o ai dì là một chuyện không dễ. Có những trường hợp tôi vừa là
ông vừa là cháu của một người nào đó, nếu theo giai bậc của cách gọi bên này và
ngược lại bên kia. Phải nhớ để khỏi bị trách là điều thiệt khó đối với những
người ở xa về. Từ ngày xa quê tôi thường ghi chép để khỏi bị các chú bác cô dì
trách: “Ơn say chưa” *
Nghĩa địa hình thành tự bao giờ
trên các triền rú. Rú, ở quê tôi, là những đồi cát thấp có nhiều cây dại. Hồi
còn nhỏ, rú là nơi bí ẩn linh thiêng đối với chúng tôi. Năm lên mười, lần đầu
được vác cuốc đi chạp mả ngoại, được các cậu chỉ bày đâu là mộ ngài nhất thế tổ,
đường kính cả hàng chục mét, đâu là ngài khai khẩn, khai canh. Khi cuốc phải một
cái om đất nào các cậu bảo đó là của người Hời để lại. Người Hời đối với chúng
tôi như là người âm phủ. Chuyện về ma Hời một lần nghe ai kể là đêm ngủ đứa nào
cũng tranh nhau nằm giữa. Lòng vòng một chặp chẳng nhớ ngôi nào là thế nào, chỉ
trông mau nghe tiếng phèn la giục để kéo về nhà thờ họ ăn xôi thịt. Trời cuối
thu, mưa lay phay lành lạnh mà ăn xôi thịt là nhất. Một mâm gồm xôi một bên, thịt
một bên, gọi là tả xôi hữu thịt. Có ít chuối chát, khế và nhất là nước mắm mụ
Cung nữa thì phải biết.
Lần này nhân khánh thành đình làng
mới xây hàng tỷ đồng, phần lớn của những đại gia xa xứ đóng góp, bà con trong
Nam và Việt kiều về nhiều, tôi cũng thế. Lâu rồi mới được một lần sum họp bà
con vui thế này. Đúng mùa chạp mả nên trên rú đông như ngày hội. Mồ mả không
còn phải chạp như xưa. Không ai cần mang cuốc, chỉ thắp nhang. Nghĩa địa được
xây như một “ thành phố âm phủ ”. Họ ni phái tê ganh đua xây dựng. Những lăng mộ
“ hoành tráng ” thi nhau mọc lên. Đứa ở Mỹ phải hơn đứa ở Pháp. Con nông dân mới
phất phải hơn con địa chủ ngày xưa. Thế là… ông bà được một phen… hãnh diện, “
nở mặt nở mày ”. Thằng Thỉ hướng dẫn tôi đi thắp nhang mộ chú Gàn, chú Rìu và
các ngôi mộ của nhũng người ngày xưa cùng đội sản xuất.
Nổi bật lên trong đám phụ nữ là một
bà quý phái, tay che dù, có vài “ tiểu đồng ” đi theo. Tôi hỏi thằng Thỉ “ Ai
đó ”, hắn cười “ Con mụ Nị chớ ai, nghe nói nó ở trong Sài gòn, giàu lắm ”, “
Nhớ rồi, con Nhan phải không ”, “ Chớ ai nữa. Hôm ni khánh thành lăng mụ Nị”.
***
Tên tuổi có khi cũng vận vào đời người, không số phận thì cũng hình dạng
bên ngoài. Ví dụ làng tôi có chú tên Rìu thì cả đời làm thợ cội. Chú đẽo cột
tròn nổi tiếng cả một vùng. Những cột mít cong qua tay chú cũng trở thành… thẳng.
Hay chú Gàn thì… gàn không chịu nổi. Nghe nói trào Ngô Đình Diệm, thôn trưởng,
xã trưởng nghiêm lắm. Thế mà có lần chú dám cãi với cả cấp quận. Số là làng tôi
có con hói mới đào để chống úng, nước lụt lên cá nhiều lắm. Lúc nước rút chú
Gàn đem giã ra đơm làm cản dòng nước chảy. Quan huyện đòi phạt, chú trả lời tỉnh
bơ: “ Nước chảy thì con đơm, con không đơm nước cũng chảy ”. Mạ tôi kể có ông
Chậm một đời chưa đi mòn đôi guốc Mứt, nơi xa nhất ông đã từng đi là chợ Kẻ
Diên cách làng bảy cây số. Đi đâu ông cũng chân đất, kể cả đi ăn kỵ *, ông treo
đôi guốc trước móc dù, đến trước cổng nhà người ta rồi mới mang vào. Nghe nói
khi chết đôi guốc của ông vẫn còn mới.
Nhan cũng thế, “ Hồng nhan đa truân
”.
Ngày đầu về làng “tham gia sản xuất”,
tôi đứng gần bên Nhan để thi cuốc đất thải giữa các thanh niên của các đội sản
xuất trong làng. “ Đấu trường ” là ruộng
Quá Giang , một dãy ruộng có bờ thửa rộng và dài. Đích đến là lá cờ, sau
lưng là loa phát thanh hát bài “ Tiến về Sài Gòn ”. Chúng tôi dàn hàng ngang. “
Một hai ba …cuốc ”. Anh chi hội trưởng phất cờ, thế là cúi đầu cuốc. Tôi cuốc
đúng kỹ thuật nên cùng bề ngang năm lát cuốc, càng lúc tôi lại càng bị lùi về
phía sau. Nhan kêu lên “ Chú cứ cuốc một lát, thả một lát, nhanh lên ”, tôi làm
theo trong hăng say phải thắng. Cuối cùng đội chúng tôi về nhất. Báo hại mùa
trái đó, đám ruộng chúng tôi lập “ thành tích ” khỏi gặt, vì chẳng có chẹn lúa
nào. Cờ thi đua của thanh niên đội tôi vẫn “ khí thế ” treo lên trên “ văn
phòng ” thanh niên phân chi hội.
Văn phòng phân chi hội là nhà của
mẹ con Nhan, cô làm phân chi hội trưởng. Chồng chị Nị (Ba của Nhan) là hạ sĩ
quan tiếp liệu (chế độ cũ), những năm sau bảy lăm còn ít vải vóc, áo quần. Nhan
lúc nào cũng sạch sẽ gọn gàng, áo lụa hoa, quần Mỹ Á, Sa Teng. Ba Nhan chết lúc
xuống tàu ở cửa Thuận An, do mang nhiều tiền nên bị cướp giết chết. Mạ Nhan
hay bệnh, những chiếc áo hoa, quần đen mịn bóng láng của Nhan cũng phải ra
đi từ từ cho đến chiếc cuối cùng, mỗi cái được tính bằng lúa. Giá cao nhất
là cái quần Sa Teng được ba thùng lúa. Ngày đem đổi cái quần gánh lúa về, Nhan vừa chạy vừa khóc..
Nhan hòa đồng với những cô gái quê
mười tám đôi mươi thiếu ăn rách rưới. Mới mấy năm mà trông xác xơ đi, nhưng vẫn
đẹp. Suốt ngày ngoài ruộng đồng. Mỗi lần xắn quần bước xuống ruộng làm cỏ, đôi
chân thon hồng làm chạnh lòng bao chàng trai, cũng làm khó chịu những bà sồn sồn
trong đội.
Một chiều trời mưa lớn, Nhan đứng
ngoài ngõ nói với vào: “ Chú Bình ơi, khoai sau rú ngập hết rồi, mai sớm chú
cháu mình đi lặn, được củ mô hay củ nấy chớ nhà cháu hết gạo rồi ”. Tôi hơn
Nhan bốn tuổi, không biết bà con thế nào mà gọi tôi bằng chú. Thấy tôi thân thiện
với Nhan ba tôi nghiêm giọng, “ Coi chừng! Ba không làm thông gia với con Nị mô
nghe ”.
Cơn lụt cuối tháng ba gọi là tiểu
mãn, khoai đất cát mới hai tháng bị ngập trong nước. Cả làng già trẻ lớn bé lặn
nước moi khoai. Nước ngang ngực, ngang cổ. Mỗi lần lặn xuống kéo lên một vài
dây khoai có dính vài ba củ bé tẹo như trứng gà so. Mấy ngày mưa hôm nay lại có
nắng. Tôi và Nhan lội cả cây số mới tới nơi những vồng khoai hai chú cháu trồng
hôm đầu tháng hai.
***
Tháng hai, mùa giáp hạt.
Nhan qua nhà tôi thật sớm, để gánh
phân chuồng có cột cái cuốc răng * trước sân. Cả nhà đang ăn cơm độn khoai, mạ
tôi xới cho Nhan một chén, rưới lên một chút nước ruốc. Nhan ăn ngon lành, tự
nhiên, xong gom hết chén bát đi rửa. Nhan nói “Hôm qua đội chia rồi, chú cháu
mình được chia lô trồng khoai sau đôộng Mai Đường. Chú chưa lấy phân phải
không, để cháu lấy cho”, đoạn ra chuồng lấy đầy hai thúng phân, một ngàn ngọn
để lên trên. Mạ tôi đưa Nhan gói khoai khô nấu, bảo để chú cháu ăn bữa lợ.
*.
Nhan gánh phân chạy trước, đòn gánh
nhịp nhàng, chơi vơi dáng người thon thả. Nhan chạy chân trần (cả làng ai cũng
thế), gót chân nứt nẻ, áo bộ đội ngắn ngang thắt lưng, lộ mông tròn lắc qua lắc
lại, hơi tóp so với mấy năm trước, lần làm cỏ lúa mùa hè thu tháng bảy năm bảy
lăm.
Hồi đó, khi làm cỏ lúa mấy đứa
con trai cố tình làm chậm lại để lén nhìn mông Nhan chổng lên, tròn lẳn như hai
trái bưởi ghép lại, đen óng, căng láng trong chiếc quần Mỹ Á. Thằng Thỉ hôm đó
mang quần xà lỏn vải mỏng làm cỏ lúa sau lưng Nhan, khi hết lối đụng bờ không đứng
lên được, nó giả đò đau bụng ngồi bệt xuống bùn. Chú Gàn biết tỏng nó đang thế
nào, kêu lên: “ Bà con ơi, tới bắt cá tràu…”*. Thằng Thỉ đứng dậy bụm “cá tràu”
chạy về, không làm cỏ được nữa. Cả đội cười bò lăn trên bờ ruộng, các cô gái
chưa chồng đỏ mặt thẹn thò… Chú Gàn lại hò: “ Bởi em thương ruộng thương đồng,
mặt úp xuống lúa chổng mông lên trời ”. Ngày đầu tôi thấy hình ảnh này, vừa tội
nghiệp vừa thương xót các cô. Tham gia một ngày làm cỏ, tối về chân tay muốn rớt.
***
Buổi sáng bà con vừa gánh phân vừa
khoe với nhau là trồng được mấy ngàn ngọn rồi. Đất cát vùng trũng còn nhiều,
chưa vô hợp tác nên mạnh ai nấy trồng. Khoai là lương thực chính, lại còn “sản
xuất cá thể” nên bà con dồn hết tâm sức vào chuyện chăm bón. Muốn trồng nhiều
khoai phải nuôi heo để có phân, có nhà dùng cả phân người. Đất cát trắng tinh
(sau này tôi đi nhiều nơi nhưng chưa thấy cát ở đâu trắng như thế. Bạn tôi ở Bắc
Mỹ có lần viết thư bảo tuyết ở đấy trắng như cát quê mình.), dùng cuốc răng
cào lên một mái, rải phân chuồng dọc theo luống, cào mái còn lại để lấp phân, rồi
trồng ngọn lên. Ngọn khoai gục xuống mấy ngày, nhờ ăn gió ăn sương đến ngày thứ
ba thì ngóc đầu dậy…sống. Một tháng sau khoai bỏ vòi gọi là “xây bàng thang”,
thường rất ít cỏ, chỉ cào lại một lần cho tơi đất rồi chờ ngày thu hoạch. Khoai
đất cát củ nhỏ, lớn nhất chỉ bằng cái trứng ngỗng, vỏ mỏng, ăn rất bùi, không
khi nào bị sâu.
Khu vực tôi và Nhan cào khoai là một
miếng đất trũng, bốn phía cao lên những nổng cát. Đứng cào khoai chỉ thấy trời
xanh và cát trắng. Trời càng trưa càng nóng. Nhan cởi cái áo bộ đội khoác
ngoài, bên trong là chíếc áo cánh bằng lụa màu hồng cài nút bóp. Chiếc quần vải
chéo màu đen bạc phếch, có vá một miếng sau mông. Hồi trước ngực Nhan lớn, giờ
thấy nhỏ lại, có lẽ tại không mặc áo ngực. Đồ lót phụ nữ khan hiếm, trong cửa
hàng hợp tác không có, ngoài thị trường thì quá đắt đỏ. Mỗi cô thường để dành một
bộ quần đen áo trắng, may ra thì có áo ngực và quần lót để đi đám cưới, hoặc dự
những ngày lễ hội.
Mỗi lần có hàng phân phối về là vui
lắm, hy vọng ngời lên trong mắt bà con, nhất là các cô các chị. Áo quần vải vóc
được chia thành từng phần, rồi bốc thăm như xổ số. Tức cười nhất là lần chia sọt
chỉ. Sọt chỉ không để bao nhiêu mét nên chị Mịn hội trưởng phụ nữ thôn có sáng
kiến là phải đo lại chiều dài. Thằng Thỉ một đầu , tôi một đầu, đứa xả đứa cuốn,
vừa đo vừa đếm.Tôi dự định đo xong sẽ chia theo tỷ lệ công điểm. Do không tập
trung tôi quên mất mình đếm đến bao nhiêu mét, thế là mỗi người một tiếng, lại
cải nhau. Cuối cùng sọt chị bị rối thành một cục bùng nhùng, vậy là chị Mịn “tịch
thu” rồi bảo, ai cần chỉ vá áo quần đến nhà chị mà lấy.
Trước khi bốc thăm thường có cán bộ ban ngành
nào đó phổ biến “ chủ trương đường lối ”. Hôm đó chị Mịn nói về kế hoạch hóa
gia đình, sau khi “ kính thưa ”, chị bắt đầu “ đi vào vấn đề”. (Chị có thói
quen nói dai, bà con thì nóng ruột trông mau hết để bắt thăm). Chị thường “ triển
khai ” bằng câu “ Một là…”, rồi hai là., ba là… rồi trở lại “ Một là… hai là…”.
Lần này bà con tưởng xong chờ đợi, chị lại tiếp “ Bốn là…”. Bà con ồ lên, chú
Gàn đưa tay có ý kiến, chị Mịn trịnh trọng: “ Mời chú Gàn”. Chú đứng dậy nói cộc
lốc: “ Bốn là bá L…”. Cả đội cười nghiêng ngã. Chị Mịn khóc tấm tức. Chú Gàn
không cười, tỉnh bơ. Chị Mịn không chồng, bà con hay “cặp đôi” với chú
Gàn.
Oái oăm là các cô ít khi được trúng
quần vải chéo đen, có khi lại bắt trúng quần xà lỏn. Có lần con Bê con mụ Nậy
không trúng được quần đen khóc tức tưởi. Thằng Thỉ lại trúng luôn hai cái. Tối
hai đứa về cùng đường, thằng Thỉ đề nghị: “ Cho tau rờ một cái tau đổi quần đen
cho ”. Con Bê “ xí ” một cái, sau đó nghĩ lại, tiếc, bước lên chận thằng Thỉ lại,
nói “ Đó, mần chi đó thì mần ”(làm chi thì làm), thằng Thỉ không làm chi cả. Rứa
là con Bê giật cái quần chéo đen trên tay thằng Thỉ. Thằng nhỏ mất tiêu cái quần
trị giá hai thùng lúa.
***
Mồ hôi làm áo dính vào lưng của
Nhan, thấy rõ cả đường ao. Mạ tôi hay bảo những đứa “ thắt đáy lưng ong ” như
con Nhan hiếm lắm, thế nào cũng làm mệnh phụ. Tôi ngừng cào ngắm xem cái lưng
ong nó làm sao. Nhan không để ý, hỏi:
- Chú có ý định hỏi vợ mô chưa?
- Ai ưng mà hỏi.
- Cháu có người sắp đi hỏi rồi đó.
- Ai rứa.?
- Ông Thệ.
- Ông Thệ lùn bên làng Q. phải
không?
- Dạ. Cháu không ưng mà mạ cháu cứ
ép hoài, cháu khổ lắm. Mạ cháu nói ông Thệ hiền, lại làm phó chủ nhiệm hợp tác,
khỏi lo đói.
Tôi biết lão Thệ. Hắn mập, lùn tịt,
da trắng bệch, đội chiếc mũ cối, mang cái đài mở oang oang, hay đạp xe qua làng
tôi. Hình như hắn có bà con nội ngoại với ai đó ở xóm Tả. Mặt hắn gầm gầm mỗi lần
chạm mặt tôi. Vợ hắn chết, có hai đứa con gái đã học cấp hai.
Đến lúc này mới hiểu lòng mình, tôi
dừng cào loạng quạng ngồi xuống trên vồng khoai. Nhan chống cuốc, khom người
nhìn tôi, mồ hôi lấm tấm trên má trên cằm, đôi mắt mở to dưới vành nón lá, ái
ngại : “ Chú mệt à, nghỉ một chút nói chuyện rồi cào tiếp, chắc trưa cũng được
vài ngàn ngọn ”. Tôi chậm rãi:
- Cháu biết chú thương ai không?
- Chắc mấy cô giáo trong trường chớ
chi, cô mô nói cho cháu biết với.
- ….
- Hay là chị Kiều y sĩ trên huyện
hay về thăm chú?
-
…
Nhan thân thiện ngồi xuống bên, tôi nhìn
sâu vào mắt Nhan, ngập ngừng:
- Tôi thương Nhan.
- Chú thương hại cháu.
- Chú thề …
Lưỡng lự một chút, Nhan ôm chầm lấy tôi
khóc hu hu. Nhan khóc cho thỏa, rồi thút thít: “ Ông (ba tôi) không cho mô, ông
chê nhà cháu không xứng.”
… Nhan nằm lên đùi tôi, hàng nút
bóp trật ra lồ lộ ngực trần trắng ngần, loang loáng cát. Tôi hôn lên đó. Tôi
hôn lên những nổng cát hoang hoãi quê nhà.
***
Nước ngập ngang ngực, trong đến độ
thấy những lá khoai xanh tái rung rinh. Hai chú cháu bắt đầu thấy lạnh. Môi
Nhan tái đi. Nhan bưng cái rá còn tôi lặn. Lặn một hơi kéo lên được vài ba dây
có dính những củ khoai màu trắng ngà, nhỏ như trứng chim trứng gà. Nhan lảy cho
vào cái rá, đầy rá thì bưng lên nổng cát đổ vào thúng. Đến gần trưa được non
hai thúng.. Tôi lặn một hơi dài, khi trồi lên thấy Nhan té ngồi xuống, nước ngập
đầu, tóc lòa xòa lao chao trong sóng nước. Tôi hốt hoảng bế Nhan lên khô. Nhan ọc
ra một búng nước, mặt tái mét, môi run run : “ Cháu đói, sáng ni chưa ăn chi hết,
nhà cháu hết khoai rồi...”. Tôi chao mấy củ khoai bảo “ Cháu nhai đi cho đỡ đói
”. Nhan nhai khoai ngon lành. Tôi bảo cháu cởi áo ra đi, mặc áo khoác khô vào
cho đỡ lạnh. Nhan ngoan ngoãn quay lưng cởi cái áo cánh. Dưới nắng trưa, tấm
lưng gầy màu trắng xanh như dài ra tội nghiệp. Đường ao cạn đi trơ những đốt
xương sống. Lưng ong, mệnh phụ gì ở cái xứ này!
Để hai thúng khoai lại, cõng Nhan về,
tôi cũng đói rồi, chân run từng bước. Tôi cõng Nhan đi liêu xiêu men theo bờ nước,
có lúc mắt hoa lên. Ngoài xa những cái đầu người moi khoai nhập nhòe trong ánh
nước loang loáng. Nhan nói thủ thỉ “ Chú thương cháu ri mai mốt lấy chi mà đền
cho chú ”.
Lụt ngập trắng đồng không biết làm
chi, ngồi nhà thì xót bụng.
Một buổi văn nghệ gọi là “tự biên
tự diễn” được tổ chức trên sân phơi của đội. Chú Gàn bảo phải thêm câu ‘tiếng
hát át cơn đói”. Bà con vây quanh lại, “ sân khấu ” nằm giữa như kiểu sinh hoạt
lửa trại. Ánh sáng mập mờ phát ra từ một gốc dương liễu đang cháy, bập bùng.
Thanh niên hát nhiều bài cách mạng: Tiếng chày trên sóc Bom Bo, Tiếng đàn Ta
Lư… Vui lắm. Nhan trong bộ cánh người dân tộc Pa Cô, cái mông lép kẹp có dịp lắc qua lắc lại : “ Ơi… người con gái Pa Cô,
con cháu… ”. Bà con vỗ tay quá chừng ... chừng.
Chú Gàn và chú Rìu cũng có một tiết
mục, do chú Kha bí thư chi bộ yêu cầu. Tôi làm xướng ngôn viên, trân trọng giới
thiệu: “ Kính thưa bà con, trở về thời kháng chiến xa xưa, mời quý đồng chí
(sau này tôi bị nhắc nhở), bà con nghe lại, thấy lại những hình ảnh nên thơ của
thời hào hùng chống Pháp. Hãy sống lại hình ảnh cha chú của chúng ta, họ đã từng
yêu thương, lạc quan như thế nào trong lúc đối mặt với kẻ thù. Mời bà con xem lại
điệu nhảy “ Đây gió đây trong rừng ”, điệu nhảy một thời các Vệ quốc quân giao
lưu với các O thôn nữ quê mình. Kính thưa bà con đó là vũ điệu : “ Đây gió -
đây… trong… rừng ” do Anh Gàn và O Rìu diểu diễn…” Tôi hét to lên, âm vang như
tiếng xuất quân thời ấy. Chú Gàn mặc áo trấn thủ, chú Rìu mặc áo bà ba giả làm
thôn nữ. Hai người nhảy như những vũ công thứ thiệt. Điệu nhảy mang dáng dấp
khiêu vũ hiện đại, cộng theo một vài động tác múa dân dã, có nét như nhảy “cha
cha cha”, lại có chút gì như “bebop”. Cũng nam tiến nữ lùi, cũng nam chân trái
đối với nữ chân phải, nhịp nhàng. Lòng bàn tay nam và nữ có lúc vỗ vào nhau.
Lòng bàn chân cũng thế, đá lòng bàn chân vào nhau, lúc trước lúc sau. Khi quay
phải khi quay trái, lúc đối mặt lúc đối lưng thật đẹp mắt. Đặc biệt là những
đôi mắt cũng lúng liếng đưa tình nhưng ngây thơ và trong sáng, không tình tứ
như hát quan họ.
Bà con, nhất là những Chú những O
đã trải qua thời kỳ chống Pháp vỗ tay nhiệt tình. Họ hát theo nhịp nhàng say
sưa. Nhiều cặp nhảy với nhau như một dạ hội khiêu vũ. Có mệ nằm lăn giữa sân
hát theo, xúc động sùi bọt mép…
Những năm cuối 1950, lúc mới lớn
tôi cũng đã từng thấy các cô chú hát và nhảy bài này. Nghe kể lại trước năm
1954 các anh Vệ Quốc Đoàn đã từng hát và nhảy với các cô thôn nữ trong làng. Những
người đã từng tham gia hai trung đoàn 101 và 95 đều hát và nhảy được bài này. Đến
giờ tôi cũng chưa biết bài hát xuất xứ từ đâu, lời truyền khẩu có đúng không.
Xin chép ra một đoạn như sau:
Đây gió, đây trong rừng, đây cánh đồng
bao phóng khoáng, nầy cô em muôn vàn thân yêu có sầu nhớ chi trong lòng.
Tay ngắt bông hoa hồng, hoa với
cành cùng đua sức thắm, kìa chim non muôn vàn hoa tươi trên cành líu lo muôn đời
Chiều dâng lên tiếng ca tiếng đàn,
chiều bâng khuâng nhắc lòng em buồn. Gió mát nhắc rằng cô em muôn vàn thân yêu
có sầu nhớ chi trong lòng...”
Được viết theo điệu cha – cha - cha, cung Ré
trưởng.
Mạ tôi kể rằng làng tôi thuộc vùng
kháng chiến. Ban ngày lính Tây đi lùng. Mạ gánh chị em tôi hai đứa hai đầu
thúng, chạy băng qua cánh đồng về bên ngoại gần đồn Thi Ông tránh bom đạn. Các
chị lớn chạy lúc thúc theo sau. Rất nhiều lần nhà cửa trong làng bị đốt cháy.
Gian nan vất vả là thế nhưng đêm về
các cô thôn nữ vẫn quay lại làng cùng… hát và nhảy “ Đây gió ” với bộ đội. Các
sân phơi lúa biến thành sàn nhảy. Các “ vũ công ” say sưa từng đôi một. Biết
bao mối tình lãng mạn và đau thương đã xảy ra trong thời kỳ đó. Nghe nói có hôm
liên hoan và nhảy “ Đây gió ” trước khi công đồn, rồi bao người không về nữa.
Những lễ truy điệu trong đêm thật buồn đau nhưng sau đó cũng lạc quan, yêu đời,
lại nhảy “ Đây gió ”. Có hôm đang gặt lúa ngoài đồng, nghe tin bộ đội về, các
cô thôn nữ liếc mắt ra hiệu cho nhau về sớm để nhảy “ Đây gió ”. Bài hát và điệu
nhảy đó là món ăn tinh thần không thể thiếu của dân quân Trị Thiên vào những
năm chiến tranh khốc liệt. Năm 1954 phần lớn các anh Vệ Quốc Đoàn tập kết ra Bắc.
Có những o thôn nữ buồn nhớ các anh, đêm về trốn ra vườn nhảy “ Đây gió ” với…
bụi chuối. Sáng ra bụi chuối xác xơ như qua một trận bão.
Về sau này không biết lý do gì mà
không nghe ai nhắc đến bài hát và điệu nhảy đó nữa.
Xong buổi văn nghệ, ai về nhà nấy.
Nhan đi bên tôi, đường xóm tối thui, không nói với nhau một lời. Tôi vào nhà
moi nắm khoai khô ra chia cho Nhan một nửa, cùng nhai, cùng uống một gáo nước để
quên cái đói cồn cào.
***
Mùa màng năm đó thất bát, cánh đồng
đến mùa gặt bạc phếch, “ chuột chạy không bén lông ”, lo lắng lộ rõ trên khuôn
mặt những người lớn tuổi. Người ta bàn tán, kể lại chuyện đói năm Thân Dậu. Mạ
tôi xay lúa, hò ư ử: “ Ạ… ơ… ờ, được mùa chớ phụ môn khoai, hà ơ..i …đến năm rồi…
Thân Dậu, …À ơi… biết lấy ai … bạn cùng”.. Tiếng hò nghẹn lại trong tiếng lào
xào của cối xay. Trong làng chẳng ai còn môn còn khoai để làm bạn. Năm này năm
Thân, sang năm là năm Dậu.
Chú Gàn đôi mắt lim dim ngâm nga “
Thân Dậu niên lai kiến thái bình. Thái bình chết đói thấy mà kinh, chẳng thà
chinh chiến mà sung túc, chết đói nhục hơn chết đạn mìn ”. Chú Rìu thất nghiệp
dọn quán hớt tóc, từ sáng đến chiều không có khách nào, chú nhắp kéo nghĩ lại
cái thời cầm rìu ngang dọc, được ăn ba bữa còn chè cháo hai bữa lỡ, rứa mà …chừ
đói thắt ruột gan.
Tháng mười. Qua bốn trận lụt làng
xóm xơ rơ, không còn tiếng chó sủa, heo kêu, gà gáy. Những cây đu đủ, cây chuối
gục xuống vàng khè. Trong làng chỉ còn cây tre là sống nổi. Bùn đóng váng lên
cây cỏ màu phù sa tái nhách.
Ngày đưa đám chú Gàn cả làng ai
cũng khóc. Chị Mịn đại diện hội phụ nữ môi giật giật nói trong tiếng hức… hức…
“ Chú ơi bỏ qua cho cháu mọi chuyện nghe chú. Cháu biết nhiều khi chú bực bội
vì cháu nói nhiều, nhưng vì công việc “ trên giao ” chớ cháu có muốn rứa mô,
chú ơi…”. Chú Kha bí thư chi bộ đọc lời chia buồn, xong kéo cái khăn màu cháo
lòng vắt vai lên lau nước mắt. Ông kể lại cái đói năm Ất Dậu 1945, những ngày
cùng chú Gàn, chú Rìu ở trần xoa mỡ vào người ôm Tây vật dưới nương mụ Giành
năm Quý Tỵ 1953. Ông đi tập kết mấy chục năm về những tưởng bà con no ấm, ai ngờ…
Người ta quên hết những lời gàn bướng “ nổi tiếng ” của chú: “ Gà ai tới nương
Gàn thì Gàn mần thịt, còn gà Gàn tới nhà ai thì ai cứ mần thịt ”, mà chú Gàn có
nuôi nổi con gà nào đâu. Một mình không con không vợ, khi chết gia tài lớn nhất
là bộ phản được ghép làm hòm. Trong nhà không còn một lát khoai khô. Âm công chạy
trong tiếng sanh cóc… cóc… như gõ vào lòng mọi người những tiếng kêu cảnh báo
khô khốc. Chú Rìu làm chấp lệnh thường nghiêm lắm mà hôm nay nước mắt chảy
ròng, mặt chú đỏ lên như bao nhiêu huyết khí còn lại trong người dồn vào đó.
Nghe kể vợ chú bị Tây hiếp nhiều lần đến chết. Chú ở vậy nuôi con. Ngày tập kết
ra Bắc, các con còn dại chú không nỡ bỏ đi, gạt nước mắt chia tay đồng đội.
Khi hạ huyệt trời mưa xối xả. Quan
tài phủ giấy đỏ có dòng chữ Hán màu vàng, hai người cầm hai đầu tấm triệu lật
qua lật lại trên nắp. Những nắm cát bà con quăng xuống, màu đỏ chìm trong cát,
trắng đến rợn người. Nhan ngồi bên đôi thùng nước chè không ai buồn uống. Nhan
đổ hai thùng nước rồi nhìn tôi, mắt đỏ hoe.
***
Buổi trưa đang lơ mơ ngủ nghe Nhan
gọi: “ Chú Bình ơi, đi chia thịt trâu ” “ Trâu mô rứa? ”, “ Con Ve lọi cẳng * rồi.
Những con trâu trơ xương tội nghiệp, kéo cày bụng
đói thắt hông, uể oải dưới ngọn roi vun vút. Con vật vẫn chậm rãi bình thản với
số phận. Con người đói rét trở nên hung ác hơn, chai lỳ cảm xúc. Mấy tháng gần
đây lại nghe bà con bàn tán là có người thèm thịt quá, cố tình làm cho trâu gãy
chân để được chia thịt. Ghe chung làm cầu, trâu chung làm thịt, chú Gàn bảo thế.
Con Ve cày hay nhất đội bốn chân chổng
lên trời, bà con vây xung quanh, mặt ai cũng ngời lên sung sướng. Máu Ve hoen đỏ
cả mảng cát, như tấm bản đồ châu Á: Bên trắng, bên đỏ. Màu đỏ nơi ranh giới oan
nghiệt đó đậm hơn - sẫm màu tủi nhục. Ve nhìn bà con hiền hòa như lúc cày bừa bụng
đói, đêm về Ve nhai lại lòng mình. Ve cũng như bà con nhai lại chính mình,
thông cảm với bà con bằng những tiếng ọ… ọ ọ. Vĩnh biệt! Ọ… Ọ.
Nhan thút thít, đến bên cái đầu Ve
vừa bị cắt ra vuốt mắt. Nhan cũng nhắm mắt, lơ mơ như Ve. Có lẽ Nhan đang nhớ lại
mùa lụt năm ngoái, Ve bơi qua sông còn Nhan đứng khóc, Ve nhìn lui như hiểu được
lòng Nhan, bơi trở lại. Ngày Ve còn sung sức đánh nhau với con Nậm bên đội ba,
chiều về mình đầy thương tích, Nhan vừa cho ăn vừa bảo “ Đã nói rồi mà, không
được đánh nhau mà. Hư lắm! ”. Ve lim dim mắt như nhận lỗi.
Một cơn gió mạnh thổi qua, hàng tre
cong mình xuống. mọi người nhìn nhau, mơ hồ sợ sệt. Im lặng. Tôi nghĩ đến linh
hồn chú Gàn. Những đêm mùa đông chú thường lặng lẽ un khói cho trâu, chú nói “
nó làm cho mình ăn, không được vô tình ”.
Bà con xách về từng xâu, có đủ thịt
xương lòng, bàn tán thịt sẽ ăn với chi. Người bảo nấu cháo, người bảo làm bún
xáo…, họ khéo tưởng tượng, chẳng có nhà nào còn gạo. Chú Gàn chết rồi, không lại
có một… câu vè.
Chia thịt trâu về xong Nhan lại
kêu: “ Chú Bình ơi đi chia bo bo ”. Bà con nháo nhác bên chiếc xe vận tải chở đầy
bo bo. Chú Kha bí thư chi bộ trịnh trọng “ Kính thưa bà con, Đảng ta luôn quan
tâm tới bà con, anh em các nước XHCN không quên chúng ta, Liên Xô vừa viện trợ
cho chúng ta hằng triệu tấn bo bo, đây là loại lương thực rất bổ dưỡng…”. Bà
con vỗ tay quá chừng. Xong chú Kha đi vòng vòng nhìn bà con chia bo bo, khuôn mặt
gầy đanh lại khắc khổ. Chú là cán bộ liêm khiết nên rất nghèo. Nghe nói gia
đình chú cũng đói cả tháng nay, ăn tới củ chuối sứ rồi.
Cả đội được một ngày vui vẻ, hạnh
phúc, ấm no. Đêm đó có rất nhiều sáng chế từ món thịt trâu già dai nhách nấu với
bo bo. Sáng mai có hàng chục người được gánh ra trạm xá vì bội thực.
***
Tháng chạp trời rét cắt da, mặt ai
cũng vàng đi vì đói. Riêng mạ con Nhan thì không, Nhan phổng phao lên thấy rõ.
Chị Nị đã đi lại được, bắt đầu đỏ da thắm thịt. Lão Thệ buổi tối thường ghé nhà
Nhan, chở sau xe đạp khi thì túm gạo, khi thì cân thịt. Có lần tôi qua nhà Nhan
mượn mấy lon gạo về cho mạ nấu cơm tối, Nhan đang phơi áo, tấm lưng ong nuột nà
trong chiếc áo lụa mỏng, phơn phởn đường cong. Khi cúi đong gạo, tôi liếc thấy
hai bầu vú Nhan trắng hồng, căng lớn hơn hồi tháng hai nhiều. Nhan nhìn tôi,
đôi mắt tình tứ cơ hồ thương xót. Đôi mắt
đó nói chi, tội nghiệp cho tôi hay cho Nhan mà chớp chớp, hai giọt nước mắt lăn
chậm trên gò má trắng hồng, ướt hai vệt
mòn lông măng. Ngập ngừng, Nhan đong thêm một lon gạo, gói riêng trong tờ báo
cũ, nói nhỏ nhẻ: “ Khuya chú nấu riêng một lon gạo không độn khoai sắn mà ăn,
lâu rồi chú chưa được ăn một bữa cơm nạc, gạo ni ngọt lắm ”. Về, tôi nói với mạ
ý con Nhan, mạ nhìn tôi ứa nước mắt.
Có lần đi họp chi hội sớm tôi hỏi
Nhan: “ Cháu tính răng ”, Nhan thản nhiên: “ Ăn no rồi tính, chú có tính chi được
cho cháu mô ”. Nghe Nhan nói tôi the thắt trong lòng, đúng rồi, tôi có tính gì
được đâu. Tôi không trách Nhan, cũng không trách tôi. Khi đói con người ta chỉ
còn nghĩ đến chén cơm!
Đám cưới Nhan và Lão Thệ sẽ được
chi hội thanh niên tổ chức vào ngày chủ nhật hạ tuần tháng chạp. Chiều thứ bảy
phân chi hội lo làm rạp, cắt khẩu hiệu, cờ xí. Hôn trường loè loẹt nhiều màu.
Chiều xong việc đám thanh niên ai về nhà nấy. Đến gần tôi, Nhan nói nhỏ, “ Tối
ni khoảng mười một giờ chú ra ngoài ngõ cháu có chuyện ni nói với chú, nhớ
nghe, nửa đêm ”. Tôi hỏi “ Chuyện chi rứa ?”, Nhan nghiêm mặt: “ Bí mật ”.
Nhà tôi còn vài thùng lúa, mạ tôi mỗi
bữa nấu một lon sữa bò, còn bao nhiêu là độn sắn lát. Những hạt cơm dính trên
những lát sắn thưa như lúa giống lúc vãi mạ. Mỗi người chỉ được hơn chén. Thức
khuya cơn đói cồn cào. Mười giờ đêm cả xóm chìm đi trong bóng tối mùa đông. Tôi
đi tha thẩn trước sân, trùm cái mền dạ mà cứ run cầm cập. Lạnh từ trong ra
ngoài, từ trên xuống dưới. Chưa bao giờ tôi đói rét như thế này. Cơn đói hồi
chiều còn hy vọng vào bữa ăn tối, cái đói trong đêm không còn hy vọng được ăn,
quay quắt làm sao. Nhà Nhan leo lét tí ánh sáng, tôi cứ nhắm hướng đó mà bước.
Nhìn qua khe cửa sổ thấy Nhan đang xếp quần áo, mắt liếc chừng về phòng chị Nị.
Tôi gọi khẽ “ Nhan ”, cô giật mình nhẹ rồi cúi sát vào cửa sổ thì thào “ Đã dặn
mười một giờ mà ”, “ Nhưng chú đói quá, có chi ăn không ”. Nhan đưa cho tôi bịch
bánh quy (có lẽ để ngày mai dọn đám cưới), thì thào: “ Chú đi ra đầu cầu, cháu
ra liền ”. Tôi cầm bịch bánh quy đi nhanh ra phía cầu, vừa đi vừa ngoạm một miếng
cả chục cái, chờ Nhan. Trăng hạ tuần lên muộn trong mây, lờ mờ chút ánh sáng.
Nhan trùm áo mưa từ đầu đến chân, hình như có ôm theo cái bao cát * đựng áo quần
trong đó, nghiêng sát vào người tôi nói nhỏ:
- Chú về lấy xe đạp đưa cháu ra ga,
một giờ tàu chạy.
- Nhan đi mô?
-
Đi trốn.
-
Rứa còn đám cưới ngày mai.?
-
Mặc kệ, một là đi hai là chết.
-
Nhan suy nghĩ lại đi.
-
Không suy nghĩ chi hết. Hôm qua ông Thệ hun cháu, cái miệng hôi đến độ
nghĩ đến là muốn mửa. Cháu thà chết chớ không lấy ông Thệ mô. Chú có chở cháu
đi không thì nói, cháu đi bộ.
Nhan khóc nấc lên, quày quả bỏ đi.
Tôi hẫng đi một chút rồi chạy về nhà lấy xe đạp đuổi theo. Đèo Nhan đoạn đường
tám cây số không một bóng người. Nhan ôm vào eo tôi thủ thỉ: “ Cháu vô trong nớ
kiếm được việc làm, biên thư ra chú có vô không ”. Tôi không trả lời, mải miết
đạp.
Tàu còn hơn tiếng nữa mới đến ga.
Khách đợi chỉ non chục người. Chúng tôi lủi nhanh vào góc tối để tránh người
quen, hai đứa ngồi lên chiếc ghế đá cuối hành lang. Nhan cởi áo mưa xếp lại cho
vào bao, xong nói rành rọt:
- Số cháu hắn rứa, tình chú cháu
mình cũng ngang ni. Cháu chỉ nhờ chú săn sóc dùm mạ cháu lúc ốm đau. Hằng
tháng cháu sẽ gửi tiền về cho mệ (mạ tôi) để đưa dần cho mạ cháu. Tính bà nớ rộng
rãi, không mấy cho đủ. Đây là hai ngàn
ông Thệ cho, chú giữ giùm cho mạ cháu, nhớ là đừng đưa một lần. Tốt nhất là nhờ
mệ cho mạ cháu ăn cơm và làm chi đó bên nhà chú cũng được. Ý chú răng.
- Đáng ra chú cũng trốn đi theo
cháu nhưng chú chưa có quyền công dân, chưa có chứng minh nhân dân. Thôi số phận
chú cháu mình như rứa thì cùng chịu. Chúc cháu đi chân cứng đá mềm. Biết đâu
ông trời thương lại gặp nhau trong nớ. Tôi ngậm ngùi nói.
Tàu chuẩn bị vào ga, hai đứa đứng
lên. Nhan ôm chặt tôi hôn lên má, tôi cúi đầu nhận nụ hôn chia biệt, nhìn theo
chiếc lưng-ong-mệnh-phụ đi khuất, nước ứa mắt ra.
Giêng hai lại đến. Tôi lại cùng dân
làng gánh phân đi trồng khoai sau rú. Chị Nị vừa trồng khoai vừa hò, giọng hò
như những mũi kim đâm vào lòng tôi: “ Mẹ già cuốc đất trồng khoai, con đi mua
ngọn nghe ai chưa về ”.
***
Hai đứa hướng về mộ chị Nị, vừa đi
vừa nhắc chuyện xưa. Tôi hỏi thằng Thỉ mấy con rồi, hắn nói tám đứa. “ Đẻ chi
nhiều rứa ” “ Ở đây những năm chú đi xong buồn lắm, đi cày về đói bụng trằn trọc
không ngủ được, rứa là soạn bài, lại có bầu rồi đẻ ”. Tôi đùa với thằng Thỉ: “
mi nhớ chuyện cá tràu không ”, hắn đấm vai tôi, cả hai cười nắc nẻ.
Nhan đứng khấn trước mộ mẹ, tay cầm
bó nhang run run. Tấm lưng ong thiếu phụ có đẫy đà hơn xưa, vẫn khiêu gợi trong
chiếc áo dài đen quý phái. Khấn vái xong quay lại, Nhan và tôi nhìn nhau lặng
đi một chặp. Nhan đưa hai tay ra trước như muốn ôm chầm tôi, kêu lên:
- Chú Bình phải không, ơn say
chưa... Bữa ni ở mô răng không nghe ai nói chi về chú hết?
- Làm công nhân cao su tuốt miền
Đông Nam bộ, rừng rú mần chi có địa chỉ.
- Vợ con chi chưa, răng khi mô đời
chú cũng...
-...Cũng đói... run tay run chân.
Nhan cười nhẹ, đôi mắt u hoài rơm rớm nước,
nhìn xa xôi về phía độộng Mai Đường,
rồi quay dần về phía trái, chầm chậm như ống kính quay phim theo đường mòn kỷ
niệm hướng về làng. Trên cao nhìn xuống,
làng xóm ruộng đồng như nhỏ lại. Bà con đi về theo nhóm, di động chậm rãi, nhiều
sắc màu nhấp nha trên nền cát trắng, cây xanh. Những thế hệ tiếp theo vẫn lên
rú về làng, rồi về làng lên rú. Chết và sống, âm và dương, đêm và ngày. Tôi và
Nhan ở xa, có dịp lại về làng, lên rú. Bốn mắt nhìn nhau, làng- làng- rú- rú. Mắt
Nhan lại chớp chớp như xưa, nước mắt lăn hai vệt mòn song song ướt hai gò má phấn, một giọt cho tôi, một giọt
cho Nhan?!
Nhan mời tôi và thằng Thỉ về nhà ăn
kỵ.
Nhà Nhan được xây dựng khang trang mà
không ai ở, chỉ để thờ cúng. Bà con nội ngoại phần nhiều cùng đội sản xuất
ngày xưa. Ai cũng tay bắt mặt mừng: “Chú nhớ tui không?”, “ Cháu nhớ dì, nhớ
cô, nhớ cậu không ?”. Rồi “ ơn say chưa, không khéo ra ngoài đàng đập chắc * ”.
Thiệt tình tôi làm sao nhớ hết, Nhan thì không thế, tại năm nào cũng về. Tiệc
tan, Nhan đến gần tôi nói nhỏ: “ Chiều ni đi thăm đôộng Mai Đường chú hè ”, tôi
đùa: “ Có mang theo bánh quy không? ”, Nhan cười ý nhị.
Hoàng hôn. Những ruộng lúa sau mùa
gặt lơ thơ những cây lúa rài, lắp xắp nước. Cò đậu trắng đồng, điều mà những
ngày chú cháu còn làm ruộng hợp tác không thấy. Chúng tôi đi theo đường xóm
Đình. Nhan mặc chiếc áo dài màu sáng, quần đen. Mùi nước hoa thanh nhã thoảng
ra từ mái tóc dài, thả lửng lơ. Đường xóm được tráng xi măng sạch sẽ nhưng có vẻ
vô duyên hơn ngày xưa. Người ta chặt hết tre để kéo dây điện. Tôi nói “ Làng
quê mà không có tre như con gái đi đám cưới mặc áo cụt, quần đen ”, “ mà có đứa
không có cả quần lót ”, Nhan nói xong cười rũ rượi: “ Chú nhớ chuyện nổi gân
khu không ”. Nhớ lần đám cưới con Bê, thằng Thỉ phát hiện rồi la lớn: “ Hôm ni
đám cưới vui quá, con mô con nấy nổi gân khu ” *.
Ngang qua đình làng, ngôi đình được
xây hoành tráng trên nền cũ. Đình làng tôi linh lắm, qua hai cuộc chiến tranh
chưa bao giờ dân làng chém giết nhau, dù người theo bên này, kẻ theo bên kia. Ở
làng thì ấm no, đi xa thần hoàng cũng phò hộ làm ăn phát đạt. Nhan bảo: “ Cháu
đóng góp năm mươi triệu để cúng làng, ai cũng nói đóng chi nhiều rứa, cháu nghĩ
mình không con không cái, đình làng như nơi thờ tự tổ tiên, là nơi mai sau khi
mình chết có chỗ mà về ”. Hai đứa lặng đi. Ánh chiều yếu ớt buồn tênh, lặn sâu
vào mắt Nhan, thao thiết lòng tôi.
Chúng tôi nắm tay nhau đi qua những
bãi cát, nhớ từng tên gọi. Đây là canh Hạ, lên một chút là canh Thượng. Bóng
hai đứa đổ lên cát, trắng đến se lòng. Tôi hỏi “ Nhan sợ ma không ?”, “ Sợ người
chớ không sợ ma ”. Tôi lại hỏi: “ Rứa chú là ma hay là người ?”, “ Chú là chú
Bình, ân nhân, người yêu, người chồng hụt, người…”. Tôi hôn lên làn môi mằn mặn
nước mắt, đắm đuối thỏa thuê. Môi Nhan run, giật giật theo tiếng nấc.
Trăng thượng tuần vằng vặc lấp lóa
ánh phản chiếu trên những ruộng khoai ngập nước.
Vẫn hướng về đôộng Mai Đường. Giọng
hiền như thời con gái, lúc sôi động, lúc nghẹn ngào, Nhan kể:
- Lên tàu vào thẳng Sài Gòn, may mắn
cháu xin được phụ bán cà phê cho một chị gốc quê mình, chị Lan. Chị Lan bảo là
nghe ba mẹ kể lại thế chứ chưa thấy quê lần nào. Chị Lan học cao lắm, có bằng cử
nhân văn chương Sài Gòn trước ngày thông nhất. Gia đình chị ngày xưa giàu có,
năm bảy chín bị cải tạo công thương nghiệp, chỉ còn quán cà phê sống qua ngày.
Quán gần một cơ quan cấp bộ, là nhà cũ của gia đình chị. Chị Lan nhận cháu làm
em tinh thần.
Cán bộ cao cấp ông nào cũng trịnh
trọng bên ngoài, nhưng ông nào cũng mê gái. Mỗi lần uống cà phê cháu tính tiền
là họ “ bo ” nhiều lắm. Cháu sắm áo quần, son phấn rồi “ lên đời ”. Chị Lan nói
“phải biết đánh bóng mình”, quán nhờ cháu mà khách đông lên. Chị Lan ngày càng
tin tưởng, giao hẳn cho cháu quản lý.
Có ông thứ trưởng tên Lê chết vợ,
tuổi cỡ ông Thệ, mê cháu, rảnh là ra quán ngồi suốt ngày. Một hôm chị Lan nói
có thích làm vợ ông ấy không. Cháu suy nghĩ mấy bữa rồi đồng ý. Mình nghĩ, ở lại
làng lấy ông Thệ còn được huống chi… Chị Lan bảo cháu ra điều kiện phải có nhà
mặt tiền để cháu mở quán cà phê. Ông ấy chịu. Nhà hồi đó còn dễ, với chức vụ của
ông Lê chỉ trong tháng là xin được ngay. Ngày cháu và chị Lan đi coi, đứng trước
căn nhà sang trọng cháu cứ run lên. Chị Lan bảo “nhà của thiên hạ chớ nhà chi của
tay Lê mà em sợ”. Rồi chị làm cố vấn cho cháu ra điều kiện trước ngày cưới phải
sang tên và có hộ khẩu thường trú. Người lớn họ có kinh nghiệm. Rứa là cháu được
làm chủ một căn nhà mặt tiền ở quận 3. Đám cưới chỉ có chị Lan là người thân và
một số bạn bè chị ấy.
Ở với ông Lê được năm năm. Những
năm đầu còn hạnh phúc. (Cháu không có ý định lường đảo ai, kể cả ông Thệ). Cháu
cố gắng làm tròn phận sự với chồng như những người phụ nữ quê mình, dù cháu chẳng
yêu thương gì ông ấy. Càng về sau ông ấy càng tồi tệ. Đêm nào về nhà cũng nồng
nặc mùi bia rượu. Ông còn đem về những bộ phim con heo và bắt cháu phải học làm
như mấy diễn viên trong phim. Rồi ông hì hục như heo suốt đêm. Cháu tủi nhục, ê
chề lắm, đem chuyện đó kể lại cho chị Lan. Chị bảo yên tâm, thế nào chị cũng sập
lão Lê này mới được, “ Dĩ oán báo oán, đời mà em ”. Đôi mắt chị rực lửa, chưa
bao giờ thấy chị dữ dằn như rứa.
Một sáng chị Lan điện thoại bảo chuẩn
bị đi đánh ghen, lão Lê đang có vợ bé bên quận 8. Chị thuê một chiếc xe mười
hai chỗ ngồi, qua quận 4 kêu thêm mấy bà đầu gấu nữa. Chị bảo em cầm cái máy chụp
hình, lên phim sẵn sàng để bấm, chị bố trí hết rồi. Theo sắp xếp của chị Lan,
cháu chụp được hầu hết những cảnh tượng gian phụ dâm phụ đang thông dâm.. Rồi
chị thuê luật sư, ra tòa và cháu thắng kiện. Sau đó ông Lê bị đi tù vì một vụ
án tham ô khác. Rứa là cháu có căn nhà trị giá cả mấy trăm cây vàng, chị Lan bảo
“ của thiên trả địa ”. Nói rứa chớ tháng mô cháu cũng bới xách cho ông Lê trong
tù, một ngày cũng đạo ngãi vợ chồng.
Chị Lan lại bảo bán căn nhà đi để
làm ăn. Những năm mở cửa, chị em mua đất mô trúng nấy. Hiện giờ hai chị em có
công ty địa ốc, chị bảo “ Chà đi xát lại chị vẫn là tư sản ”. Cháu không nghĩ rứa,
cháu là nông dân. Có nhiều tiền cũng vui, nhưng nghĩ đến những ngày đói rét cơ
cực cháu khóc hoài. Có điều kiện là cháu gửi tiền về làng giúp đỡ bà con. Nghĩ
đến ông Thệ cũng tội, những ngày ông đau ốm cháu gửi tiền lo hết. Năm ngoái ông
chết cháu có về lo đám đình, xây lăng cho ông. Giờ thì cháu không thèm lấy chồng
nữa, chỉ cần có một đứa con. Cháu năm ni ba tám tuổi, còn sinh được.
Nhan nói tiếng Sài Gòn, thỉnh thoảng
cố tình pha giọng quê.
Nổng cát bao quanh chỗ chúng tôi trồng
khoai ngày xưa lưa thưa vài cây dương liễu lên cao, vi vu nhè nhẹ. Trăng sáng lắm.
Những ngày mưa vừa qua làm nước dâng lên . Mặt nước khuất gió, không xao động,
lăn tăn gợn, ánh trăng nhấp nháy trăm nghìn đom đóm nhập nhòe.
Chúng tôi ngồi xuống bên mé nước, ôn lại chuyện
xưa, khi cười khi khóc. Đến đoạn bị xỉu vì đói, Nhan khóc hu hu như con nít, rồi
đột nhiên cười ha hả, nói như hét lên theo tiếng cười, “ Chú Bình ơi, tắm đi ”
“ Có đồ tắm mô ?”, “ Có chi tắm nấy ”. Không chờ tôi phản ứng, Nhan nắm tay tôi
kéo ùm xuống nước. Nhan lặn một hơi sâu rồi trồi lên cười khanh khách “ Cứu với,
đói quá sắp xỉu rồi nì ”. Lại lặn nữa, áo dài và tóc của Nhan chập chờn trong
nước. Lại trồi lên cầm tay tôi nói như ra lệnh, “ Cởi áo cho cháu ”, tôi như
cái máy, lại “ Cởi quần cho cháu, nhanh lên ” tôi hụp xuống nước, tuột luôn quần
Nhan. Áo quần của Nhan cái sẩm cái sáng nỗi bập bềnh như hồi xưa người ta thả
vàng mã cho người chết trôi. Nhan cười ha hả, “ Coi cháu bơi nì ” Nhan bơi vòng
quanh hồ nước, kêu lên “ Chú Bình ơi, đói sắp xỉu rồi nì, cứu cháu, cởi áo quần
ra mới cứu được, nhanh lên không thôi cháu chết thiệt đây ”. Nhan lặn một hơi
dài. Tôi luống cuống cởi áo quần bơi đến gần. Nhan ôm chặt lấy tôi thở hổn hển:
“ Khi mô chú cũng ngơ ngơ như vịt đực, còn thua cả lão Thệ ”…
… Nước ngang bụng, xao động lúc
nhanh lúc chậm, rồi lao xao cuộn sóng, rồi lặp lại nhanh, chậm, rồi ầm ào….
Nhan rên lên, tiếng thở phì phào ngắt quãng: “ Chú ơi... no... rồi, hết... xỉu...
rồi ”, cười mãn nguyện. Nhan ôm riết cổ tôi thủ thỉ: “ Lạy trời cho cháu có con
với chú, sẽ đền cho chú một đứa con được ăn no mặc ấm, học hành thành đạt. ”.
Hai đứa nằm lăn, cát dính đầy người.
Hiu hiu buồn ngủ. Nhan nằm nghiêng, tay chống cằm, mắt lim rim như chú Gàn đang
đọc thơ, làn môi hơi hé như hai búp bông khoai * ơ hờ sương gió, nói thì thào “
Cứ nằm ri cho đến chết ”. Lại thì thào “ Mai mốt chết chú cháu mình về làng chú
hỉ, được chôn trong đất cát trắng sẽ hóa kiếp thiên thần ”. Nhan nằm sấp lại
nhìn xuống kỷ niệm, chấp chới ánh nước loáng trăng lao xao dưới đó. Tấm lưng
ong cong một đường, lồ lộ dưới ánh trăng quê nhà vằng vặc. Đường ao hằn tròn
hình rảnh khoai cát trắng mịn màng sau mùa lụt, tơi bời những gợn tóc như dề cỏ
chỉ * vắt ngang.
Da cát trắng não nùng. Cỏ chỉ xanh
da diết. Tóc đen thiệt tình. Hoa khoai tím hoang sơ. Tôi rùng mình, nghe da thịt
nổi gai rờn rợn.
Sài Gòn Đêm 14.11.2007
NGUYỄN ĐẶNG MỪNG
Những chú thích dấu *
Ơn say: Một lối trách yêu, có cách phát âm cố
ý chả chớt, như nói nựng với trẻ nhỏ. Ví dụ: Gặp một người thân nào đó mà mình
không nhớ, may thay nhờ “ơn trên”, mới tránh được sơ suất đáng tiếc, người đó sẽ
vừa trách vừa mừng là “ơn say chưa!”. Phát âm chính xác là “ơn thay” (tương tự
về dạng cấu tạo từ ngữ: "may thay", “xinh thay”, “khổ thay” ...).
Ăn kỵ: Ăn giỗ.
Cuốc răng: Một loại cuốc có từ 3 đến
5 răng, răng dẹp khoảng 3 phân, chuyên dùng để cào khoai đất cát.
Cá tràu: Cá lóc.
Lọi cẳng: Gãy chân.
Bao cát: một loại bao bằng vải rất bền, của
quân đội Mỹ. Đổ cát đầy bao, chất lên để làm công sự.
Đập chắc: đánh nhau.
Gân khu: Mặc quần lót hằn rõ đường lằn ở mông.
Bông khoai: Hoa khoai lang màu tím, một dạng
loa kèn nhỏ bằng ngón tay cái.
Cỏ chỉ: một loại cỏ thân mảnh như
cây thì là, sống rất dai trên đất cát. Có nơi gọi là cỏ khâu.
NĐM