Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Wednesday, April 27, 2022

HÀNH TRÌNH THƠ TRẦN THƯƠNG BÁ 2 “LA POESIE CANDIDE, THƠ NGÂY NGÔ” – Đỗ Tư Nhơn


Nhà giáo - nhà thơ Trần Thương Bá
(1940- 2002)

Có thể nhận định rằng hành trình thơ Trần Thương Bá được thể hiện qua ba tập thơ, đánh dấu mốc thời gian chín muồi cho cảm hứng sáng tạo, từ đó câu chữ bắt đầu.
 
Tập thơ TÌNH HUẾ là chặng đầu của dàn hợp xướng, nhà thơ chọn thủ pháp, giọng điệu của chủ nghĩa lãng mạn. Qua đó nhằm biểu hiện “cái tôi trữ tình” rất đỗi yêu thương cảnh vật,  con người xứ Huế nên thơ, kiều diễm. Đồng thời trong phần cuối, tác giả đã tạc nên một tượng đài bằng ngôn ngữ thơ đầy xót xa thương tiếc ban đầu, sau đó đã hóa giải bằng cái nhìn đầy thăng hoa khiến cho hình tượng người vợ quá cố trở nên lung linh mầu nhiệm như thiên thần giữa thiên nhiên đất trời “Áo em mờ ảo màu hoa, Tóc em bay giữa bao la cõi trời”, và anh tin vào thuyết luân hồi của Phật Giáo “Anh biết rồi em sẽ trở về”.

Bước sang chặng thứ 2, được mở ra với tập thơ LA POE SIE CANDIDE - THƠ NGÂY NGÔ. Bằng những kiến thức văn học và triết học từ giảng đường Đại Học Văn Khoa Huế, thêm vào đó là khả năng tiếng Pháp nhuần nhuyễn, lần nầy anh chọn Pháp ngữ để diễn đạt những cảm xúc và suy tưởng về cuộc đời, hạnh phúc lẫn khổ đau, hư vô, cái chết, người nghệ sỹ chân chính… Anh rất may mắn có nhiều bằng hữu tri âm tri kỷ, nghe được tiếng rung ngân của tâm hồn anh, đọc thơ anh và thay nhau chuyển ngữ cho mọi người thưởng thức. Đó là các nhà thơ Cao Quảng Văn, Tô Kiều Ngân, Nguyên Hạo, Hồ Đắc Thiếu Anh, Song Nguyên, Tôn Nữ Cẩm Bàn, Tôn Nữ Thu Thủy, Trần Mỹ Hạnh, Trần Quang Châu, Phan Văn Lai, Mịch La Phong.
 
Có thể nói trong một chừng mực nào đó, THƠ NGÂY NGÔ là khúc xạ của ánh sang triết học phương Tây một thời đang lan tỏa sang phương Đông và toàn thế giới.
 
Trong lời tựa cho tập thơ anh đã bộc bạch:
“Ta có thể nhận thấy những bài thơ này gợi lên những tư tưởng của SHOPENHAUER. Nhưng thật ra ý định của nó là cống hiến một loại thơ gợi tưởng, ngây ngô, hay nói đúng hơn là một cách ‘sản ý’ theo cách của triết học SOCRATE”.
 
Bước chân vào thế giới THƠ NGÂY NGÔ của Trần Thương Bá, ấn tượng đầu tiên đến với người đọc, là khó nhận ra sự thống nhất của chủ thể trữ tình - nhà thơ. Tâm hồn anh như đã chứa đựng nhiều sắc thái tâm lí khác biệt, có khi tưởng chừng mâu thuẫn, đối lập nhau, theo cách nói của Xuân Diệu về sự chuyển biến nội tâm “Từ tôi phút trước sang tôi phút này”. Trong thơ anh luôn có sự hiện diện của hai sắc thái, hai tính cách. Mặt này là bi quan, chán chường, hư vô chủ nghĩa - mặt kia là niềm vui, lạc quan, yêu thương đồng loại. Cuộc đời vẫn như thế, có nhiều mảng sáng tối, trắng đen, thiên đàng, địa ngục tùy thuộc cảm nhận và suy nghĩ của mỗi người.
 
Nếu trước đây, qua tập TÌNH HUẾ, nhà thơ thiên về cảm xúc cho nên mạch trữ tình tuôn chảy khi hoài niệm về cảnh vật hay con người. Đến với tập THƠ NGÂY NGÔ, các hình ảnh mang tính biểu tượng chiếm ưu thế, đây là một thủ pháp nghệ thuật của trường phái TƯỢNG TRƯNG mà thi ca Pháp một thời ưa chuộng, với những tên tuổi chói sáng  cả vòm trời thi ca thế giới như BAUDELAIRE, RIMBAUD, APPOINAIRE, MALLARME, VERLAINE…
 
Hãy cùng nhau đi vào tác phẩm qua những dòng thơ được bạn bè chuyển ngữ sinh động:
 
- “Dòng sông đã bỏ chiếc cầu
Ta ôm ngày tháng về đâu một mình”
- “Chiếc cầu còn đó chơ vơ,
Ta còn lại chút dại khờ tình ta”
(CẦU VÀ DÒNG SÔNG – Mịch La Phong dịch)
 
Hay trong bài thơ DÒNG CHẢY do Cao Quảng Văn dịch:
 
“Buồn tênh con nước dưới cầu,
Loanh quanh nước chở về đâu nỗi niềm ?
Lặng nhìn ta giữa triền miên
Nước trong chôn kỷ niệm buồn tuổi thơ”
 
Hình ảnh “Chiếc cầu - Dòng sông” xuất hiện nhiều lần trong trong tác phẩm THƠ NGÂY NGÔ đã gợi lên cảm thức về sự trôi chảy, vô thường, sự mất mát tàn phai của vũ trụ nhiên giới lẫn nội giới nhân sinh.
 
Đó là những biểu tượng nghệ thuật chúng ta đã gặp trong CUNG OÁN NGÂM KHÚC của Nguyễn Gia Thiều với “Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ, Quán thu phong đứng rũ tà huy” hay Guillaume Apollinaire với CẦU MIRABEAU “Dưới cầu Mirabeau trôi dòng sông Sein, Trôi cả tình yêu của anh và em”. Trong thơ ca Việt Nam hiện đại chúng ta đã gặp ở thi sĩ Hoài Khanh những dòng thơ đầy ấn tượng khó quên: “Ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng, Nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu” (NGỒI LẠI BÊN CẦU)
 
Những kỷ niệm về tuổi thơ, về tình yêu đã qua đi luôn để lại những điệp khúc buồn thương tiếc nuối trong lòng tác giả. Một ngày nào đó Trần Thương Bá tìm đến dòng sông để soi bóng mình, để tìm lại chút gì dấu  yêu để u hoài tự nhủ “Nước trong chôn kỷ niệm buồn tuổi thơ”  hay “Chiếc cầu còn đó chơ vơ, Ta còn lại chút dại khờ tình ta”. Tâm thức anh không thể thoát khỏi ‘Buồn tênh” khi chỉ còn ảo ảnh xa mờ của tàn phai. Trong phút chốc ấy anh được đánh thức bởi một tư tưởng triết học từ lâu đã nằm trong tâm khảm bổng hiện về chiếu sáng và giải thoát hồn anh, vì thế trong đoạn kết của bài thơ DÒNG CHẢY đã dẫn ở trên đã hiện ra hình ảnh mới lạ:
 
“Trôi đi, đến chốn xa mờ
Rồi mai kia lại trở về nguồn xưa”
 
“Về nguồn xưa”, mượn ý tưởng của triết gia người Đức nổi tiếng trong trào lưu triết học Hiện sinh về  “LUÂN HỒI VĨNH HẰNG”  F. NIIETZSCHE đã viết như sau: “Vạn vật mất đi, vạn vật lại trở về, bánh xe tồn tại mãi mãi tuần hoàn”
 
Sự thật quan niệm LUÂN HỒI có từ rất lâu, trước khi đạo Phật vận dụng đưa vào kinh sách và bài giảng, đã giúp mọi người ý thức để sống thiện lành, đi đến giải thoát. Với Trần Thương Bá, niềm tin vào LUÂN HỒI VĨNH HẰNG đã trấn an tâm hồn mình, thoát khỏi ám ảnh của hư vô, cảm giác tan rã, mất mát khiến con người bị khủng hoảng, tê liệt.
 
Nhiều bài thơ trong THƠ NGÂY NGÔ nói đến CÁI CHẾT như một ám ảnh không dứt, có thể do ảnh hưởng của câu nói “ CON NGƯỜI LÀ HỮU THỂ HƯỚNG ĐẾN CÁI CHẾT” của triết gia M. HEIDEGGER  một trong những nhà tư tưởng nổi tiếng của thế giới trong thế kỷ XX. Chính suy niệm về CÁI CHẾT mang màu sắc triết học hiện sinh, cho nên Trần Thương Bá đã viết:
 
“Cái chết đâu có gì huyền bí,
Không ai chỉ chết một lần”
 
Và: “Rằng được trò chuyện với hư vô / Là điều êm ái”
 
Hơn thế nữa anh còn ngợi ca CÁI CHẾT, trong bài thơ do Tô Kiều Ngân dịch:
 
“Anh muốn ngợi ca,
Ngợi ca cái chết.
Như từng ca ngợi tình yêu
Ngợi ca tình nồng nàn bằng nhiệt huyết
Và cái chết bằng lạnh lẽo giá băng”
 
- “ Để thấy rằng cái chết
Là liều thuốc đắng
- “Để chữa lành cuộc đời”
(NGỢI CA)
 
Hiểu được ý nghĩa của CÁI CHẾT, nhà thơ giúp chúng ta trạng thái an nhiên tĩnh lặng khi từ giã trần gian, để tiếp tục vòng LUÂN HỒI trong kiếp sau.
 
Ở trên lời tựa, tác giả đã nói đến tư tưởng của SHOPENHAUER, cho nên nên khi đọc những câu thơ nói về HẠNH PHÚC của Trần Thương Bá chúng ta không còn ngạc nhiên: tâm trạng bi quan, hoài nghi:
 
Không có gì thực bằng nỗi khổ đau
Và phù du hơn hạnh phúc”
(MẤT MÁT do Trần Mỹ Hạnh dịch)
 
Trong bài thơ CÁI BÓNG HẠNH PHÚC do Tô Kiều Ngân dịch đã nói rõ cái nhìn của nhà thơ:
 
“Đợi chờ dù có thế nào,
Hiếm hoi hạnh phúc thấy đâu bây giờ ?
Thì ra hạnh phúc dối lừa,
Không bao giờ đến, đợi chờ uổng công”
 
Đúng như nhan đề bài thơ, hạnh phúc như chiếc bóng, ảo ảnh, không có thực giữa cuộc đời nầy, đó là sự lừa dối, phỉnh phờ
 
Nhưng khi nghĩ về TÌNH YÊU, nghĩ về EM bao giờ anh Trần Thương Bá cũng chân thành, khẩn thiết như một cái gì quý hiếm không thể thiếu vắng trên hành trình đi tìm hạnh phúc, có bài thơ anh bộc lộ nỗi lòng thầm kín:
 
“Em có bao giờ biết được,
Ta cần em nào có khác chi
Cỏ hoa kia cần đến mặt trời”
(CẦN EM – Tô Kiều Ngân dịch)
 
Và kết thúc bằng sự lo ngại xa cách, tàn phai: “Hẳn nhiên rồi, những điều ta sợ nhất/ Là có ngày em cũng sẽ mất đi. Khi hạnh phúc bắt đầu nẩy nở”
 
Không biết trải nghiệm của nhà thơ bao lâu trong TÌNH YÊU, từ  mật ngọt cho đến mật đắng trên đời như ca từ của Trịnh Công Sơn, cho đến khi anh tìm được lời giải đáp không mong muốn:
 
“Tình rao bán phố đông vui,
Hoa kia giữa chợ cho đời trao tay”
(TÌNH YÊU VÀ HOA - Trần Mỹ Hạnh dịch)
 
Bên cạnh những bài thơ mang sắc thái hoài nghi, bi quan chúng ta cũng gặp những dòng thơ ấm áp, lạc quan thể hiện tấm lòng rộng mở, yêu thương cuộc sống.
 
Bài thơ TIM NÀY DÂNG HIẾN được viết lên như một tuyên ngôn đầy nhân ái vị tha của một người đã trải qua nhiều xót đau trong kiếp nhân sinh:
 
“Khi còn sống trên đời,
Ta có một trái tim
Để sẵn sàng dâng hiến”
 (Tô Kiều Ngân dịch)
 
Hinh ảnh em bé nhặt rác liêu xiêu trong chiều, bông hoa sắp tàn, cánh chim giữa trời đều tạo nên mối xúc cảm nơi trái tim nhà thơ, khiến người đọc đồng cảm:
 
“Ta thấy lòng đau những buổi chiều,
Lặng nhìn em bé bóng xiêu xiêu
Còng lưng bao rác trên vai nhỏ”
(ĐỨA BÉ QUEN THÂN – Trần Mỹ Hạnh dịch )
 
Và: 
“Ta nào muốn bỏ đi,
Mà không nói một điều chi
Với hoa sắp tàn buồn bã”
(CÁNH HOA MUỘN do Tôn Nữ Thu Thủy dịch)
 
- “Cánh chim nào bay đi…
-  Chạm vào ta rất khẽ
-  Ta tỉnh giấc muộn phiền”
(CÁNH CHIM do Cao Quảng Văn dịch)
 
- Vẫn trong từ trường của tư tưởng “THẾ GIỚI LÀ CỦA Ý CHÍ VÀ CỦA BIỂU TƯỢNG “ của Schopenauer, nhà thơ Trần Thương Bá đã xây dựng hình tượng ‘NGƯỜI TÙ KHỔ SAI’ để khái quát thân phận và tâm hồn của NGƯỜI NGHỆ SỸ CHÂN CHÍNH:
 
- “Người là tên tù khổ sai/Suốt một đời cực nhọc / Đôi khin hắn ca hát / Trong nhà tù giam hảm/ Có tên là cuộc đời / Nhưng bên trong lòng hắn / Luôn sống dậy tình yêu, Tình yêu thế giới nầy”
( KẺ KHỔ SAI do Tô Kiều Ngân dịch)
 
- Tình yêu thế giới này, tình yêu đồng loại là điều nhà thơ Trần Thương Bá hằng trăn trở, nâng niu, cho nên trong phần cuối của LỜI TỰA tác giả đã viết với tất cả sự thành khẩn thiết tha như một trang KINH THÁNH:
 
- “Sở hữu chính đáng duy nhất của nhân loại là TÌNH YÊU - ĐỒNG - LOẠI.
- Mong sao chúng ta có thể giữ gìn trân trọng vật sở hữu này như một gia tài ta
- Được hưởng không bao giờ cạn, THƠ NGÂY NGÔ sẽ giúp chúng ta”.
 
-  Đến đây HÀNH TRÌNH THƠ Trần Thương Bá đã đi được hai chặng đường với những chuyển biến trong thủ pháp nghệ thuật và nội dung biểu đạt, từ thi pháp của Chủ nghĩa Lãng Mạn sang Tượng Trưng. Tập THƠ NGÂY NGÔ mang tư tưởng triết học phương Tây và chủ thể trữ tình không còn nguyên mẫu, đã nhập vai con người xã hội nhằm trình bày những suy tưởng về tình yêu, hạnh phúc, cái chết, vô thường...
- Dù có những khác biệt về nội dung và nghệ thuật, chúng ta vẫn cảm nhận được hồn thơ đa cảm, nhân ái bên cạnh những nghĩ suy sâu lắng gợi cho người đọc những vấn đề liên quan đến cuộc sống đa dạng và phức tạp.
-  Hành trình thơ TRẦN THƯƠNG BÁ chặng thứ hai với tập THƠ NGÂY NGÔ tạm thời kết thúc ở đây.
- Chặng thứ ba với TẬP VÔ NGÔN KINH sẽ giới thiệu 54 đoản khúc Lục Bát Tứ Tuyệt với nhiều cách tân trong diễn đạt và hướng về tư tưởng triết học phương Đông.
 
ĐỖ TƯ NHƠN
 
*
 
CHÚ THÍCH:
 
1/ SOCRATE triết gia cổ đại HY LẠP (sinh 470 BC, mất 399 BC)
2 / SCHOPENHAUER triết gia ĐỨC (-1788-1890) Tác phẩm “THẾ GIỚI LÀ CỦA Ý CHÍ VÀ BIỂU TƯỢNG”
3/ F. NIETZSCHE  triết gia ĐỨC (1844 -1900 ) Tác phẩm “ZARATHUSTRA ĐÃ NÓI NHƯ THẾ”
4/ M. HIEDEGGER triết gia ĐỨC (1889 - 1976) Tác phẩm “HỮU THỂ VÀ THỜI GIAN”

READ MORE - HÀNH TRÌNH THƠ TRẦN THƯƠNG BÁ 2 “LA POESIE CANDIDE, THƠ NGÂY NGÔ” – Đỗ Tư Nhơn

“CHẠM VỪA THÁNG TƯ” THƠ VÕ MIÊN TRƯỜNG, CHẠM VÀO TIM THƠ - Châu Thạch

 
 
             Nhà thơ Võ Miên Trường


CHẠM VỪA THÁNG TƯ…
             
Với tay chạm nắng lưng trời
Màu buồn đổ sóng xuống đời an nhiên
Mùa đang son những ngọt mềm
Tháng tư vừa chạm đã nghiêng phía chiều…
                  
                                       Võ Miên Trường

 
Nhà bình thơ Châu Thạch 


“CHẠM VỪA THÁNG TƯ” THƠ VÕ MIÊN TRƯỜNG, CHẠM VÀO TIM THƠ
                                                          Châu Thạch
 
Chữ chạm là một động từ có nhiều nghĩa: Khắc đục lên vật cứng, gặp nhau một cách bất ngờ, gây tổn thương tinh thần hay vật chất cho người khác. Trong bài thơ “Chạm Vừa Tháng Tư” của Võ Miên Trường, có lẽ ta phải hiểu theo nghĩa Chạm chỉ là đụng nhẹ vào mà thôi. Tác giả dùng chữ “Chạm” như để bày tỏ sự trân trọng một tháng tư mà mình quý mến. Nhà thơ đã chạm vào tháng tư nhưng chỉ “chạm vừa” là một cử chỉ mang nhiều trân trọng, e dè, nâng niu, yêu thương và ngại ngùng.
 
    
Bài thơ chỉ có 4 câu, câu thơ đầu tiên đã đưa người đọc bay bổng như một cánh diều lên cao dưới bầu trời quang đãng: “Với tay chạm nắng lưng trời”.
    
Đọc câu thơ nầy, ai có một chút đồng cảm với thi nhân sẽ hình dung, tưởng tượng được nơi Võ Miên Trường đang đứng để viết câu thơ. Chắc chắn nếu nhà thơ không đứng trên núi cao thì cũng đứng ven bờ biển, ven con sông, hoặc giữa một cánh đồng rộng mênh mông. Bởi vì Võ Miên Trường không phải là Tề Thiên Đại Thánh biến hóa được mình cao lên đến mây để có thể “Chạm vừa ánh nắng lưng trời”. Lưng trời là lưng chừng trời, “chạm vừa ánh nắng lưng trời” là chạm vào ánh nắng trên cao.
    
Nhìn ảnh đại diện trên trang facebook, ta thấy Võ Miên Trường là một phụ nữa đẹp. Đọc câu thơ nhập đề ta tưởng tượng ngay hình tượng một mỹ nhân đứng giữa trời đất bao la, với tay hứng ánh nắng trên cao rọi xuống. Tất nhiên bàn tay nàng chỉ chứa ánh nắng từ trên cao chiếu xuống, nhưng tâm hồn nàng hóa thân trong tưởng tượng để chạm được thứ ánh nắng ấm áp, tinh khôi, thứ ánh nấng giữa lưng chừng trời, Đây là một câu thơ không chỉ lảng mạn, mà còn thầm lặng miêu tả bức tranh đẹp tuyệt vời cho những ai có sự liên tưởng để cảm nhận rõ nét bức tranh đó, hay cảm nhận mơ hồ hình ảnh tuyệt đẹp ẩn chứa trong câu thơ.
    
Qua câu thơ thứ hai, Võ Miên Trường tặng người đoc một câu thơ mang hơi gió se lạnh, đem hương vị hạnh phúc cho giây phút bình an giữa đất trời: “Màu buồn đổ sóng xuống đời an nhiên”.
   
Đọc câu thơ, ta tưởng ánh nắng như vạn ngàn tia sáng tràn xuống thế gian. Nhà thơ đứng tắm mình trong những con sóng đó, tâm thiền bình tịnh an nhiên. Trước cảnh bao la cô tịnh, nhà thơ tất nhiên không thể có niềm vui như ở chổ đông người, mà ngược lại, nhà thơ chiêm nghiệm một màu buồn nhẹ do thiên nhiên đem đến.
Màu buồn đó chính là màu dịu dàng của nắng, màu vô biên quyến luyến của phong cảnh nơi thi nhân đang đứng, tất cả là không khí trầm lắng trong bầu trời cao rộng dưới ánh nắng thơm. Màu buồn đó chính là màu niềm vui không thái quá lan tỏa trong không gian, trong vạn vật, thấm đượm trong tâm hồn mà chỉ có thi sĩ bằng sự nhạy cảm đã thấy được sắc màu của nó.
    
Thế rồi câu thơ thứ ba: “Mùa đang son những ngọt mềm”
    
Vì sao tác giả nói mùa đang son? Nên nhớ tựa đề bài thơ là “Chạm Vừa Tháng Tư”. Tháng tư là tháng cuối mùa xuân và đầu mùa hè. Ta nhớ đến khổ đầu bài thơ “Mùa Xuân Chín” của Hàn Mạc Tử như sau:
 
Trong làn nắng ửng: khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang.
  
Hàn Mạc Tử đặt tên cho bài thơ là Mùa Xuân Chín để nói về cảnh sắc thiên nhiên của mùa xuân đang ở thời kỳ tươi đẹp nhất.
Võ Miên Trường đã dùng chữ “Son” để nói thay chữ “Chín” và dũng câu thơ “Mùa đang son những ngọt mềm” để tả trọn vẻ đẹp của Mùa Xuân Chín, diễn tả bằng câu thơ gọn nhẹ nhưng không khác chi những câu thơ của nhà thơ có bút danh chữ đầu là Hàn. Thay vì chữ chín, tác dùng chữ son làm cho tháng tư đầu hè tươi thắm như mùa xuân đầy hoa, chữ “ngọt mềm” làm cho tháng tư vẫn còn đây trái chín thơm ngon. Võ Miên Trường viết một câu thơ, chứa cả mùa bông trái xanh tươi vào đó!
    
Ở câu thơ cuối, khác với Hàn Mạc Tử tả mùa xuân chín ở buổi bình minh mà không biết ở tháng nào, nhà thơ Võ Miên Trường tả mùa xuân chín trong khung cảnh buổi chiều tháng tư tuyệt đẹp: “Tháng tư vừa chạm đã nghiêng phia chiều…”
 
“Vừa chạm” đây có thể để chỉ đầu tháng tư, “Vừa chạm” đây cũng có thể là tác giả vừa cảm nhận tháng tư của vũ trụ, “vừa chạm” đây cũng có thể tác giả nhớ về một tháng tư nào đó của năm xưa. “Nắng chiều” cũng vậy, có thể thiên nhiên chỗ đứng đã về chiều, có thể tác giả cảm nhận thời gian qua mau, cũng có thể tác giả chưa vui hết trước cảnh đẹp thiên nhiên thì lại nhớ một tháng tư đau lòng nào đó của quá khứ xa xưa. “Tháng tư vừa chạm đã nghiêng nắng chiều…” là môt câu thơ than thở, một câu thơ trách móc, một câu thơ se buồn với nhiều ý nghĩa hàm chứa trong thơ cho mỗi tâm hồn con người tùy nghi hiểu về nó.
    
Kết luận:
 
“Chạm Vừa Tháng Tư” là một bài thơ ngắn nhưng mỗi chữ trong thơ đều được chọn lọc tinh vi, mỗi câu thơ cô đọng sâu xa nhiều ý nghĩa. Đọc “Chạm Vừa Tháng Tư” cho ta một hình tượng nghệ thuật người đẹp đứng giữa thiên nhiên, cho ta cảm xúc về một mùa xuân chín trong tháng đầu hè, cho ta se buồn về một sự nghiêng của ngày tươi đẹp như sự nghiêng của cuộc đời hay thế sự.
 
Bởi thế bài thơ “Chạm Vừa Tháng Tư” của Võ Miên Trường đã chạm vào tim thơ của tôi và chắc chắn của nhiều người!
                                      
Châu Thạch
 
READ MORE - “CHẠM VỪA THÁNG TƯ” THƠ VÕ MIÊN TRƯỜNG, CHẠM VÀO TIM THƠ - Châu Thạch

MƯA ĐẦU HẠ, SẮC TÍM BẰNG LĂNG – Thơ Tịnh Bình


 
            Nhà thơ Tịnh Bình


MƯA ĐẦU HẠ
 
Đậu về trên nhánh hạ
Mưa đầu mùa ngây thơ
Ngai ngái hương đất ẩm
Dậy lời ve dại khờ
 
Ban mai tìm gió mới
Đường quê tràn tơ non
Cỏ xanh bừng thức giấc
Giọt sương xoe mắt tròn
 
Mẹ về phiên chợ vãn
Khói bếp quyện cơm sôi
Canh tập tàng nấm mối
Tia nắng reo đầu hồi
 
Ướt tiếng rao ngang ngõ
Bờ giậu hoa giấy phơi
Sắc tím hồng bung nở
Giọt mưa rơi thành lời...
 
 
SẮC TÍM BẰNG LĂNG
 
Tím khoảng trời mùa hạ
Bằng lăng lối em về
Hàng cây và mái phố
Tiếng chim nào mải mê
 
Ngập ngừng mưa ươn ướt
Đọng mắt lá thủy tinh
Chuỗi cười pha lê vỡ
Trong veo một ánh nhìn
 
Từng vòng xe quay chậm
Phút tan trường bâng khuâng
Em về trong sắc nắng
Hoa tím rơi đầy sân
 
Gió chênh chao miền hạ
Đàn bướm trắng vô tư
Nhặt hoa người chẳng nói
Chút man mác hình như...
 
Mưa qua và nắng tới
Hàng cây mái phố rêu
Bằng lăng nhòa sắc tím
Thinh lặng khoảng trời yêu...
 
TỊNH BÌNH
(Tây Ninh)
 
READ MORE - MƯA ĐẦU HẠ, SẮC TÍM BẰNG LĂNG – Thơ Tịnh Bình

TRÍCH TÌNH KHÚC TẶNG BẠN BÈ – Thơ Khaly Chàm

 
 


.cười khinh nỗi buồn
 
quàng xiên ngã bóng nghiêng hình
uống tan nộ khí cười khinh nỗi buồn
cúi người chạm đất tạ ơn
nâng niu cát bụi cội nguồn tiền thân
 
.em hát ru ta
 
mưa mùa tím lạnh bàn chân
ngô nghê lần đếm vết hằn thịt da
ngọt lời em hát ru ta
vun thân sám hối thật thà yêu em
 
.mùi rơm hương đất
 
về đồng tìm dấu chân chim
diều bay căng sợi chỉ mềm lên cao
mùi rơm hương đất ngọt ngào
nhà ai khói bếp dựng vào hư không
 
khaly chàm

READ MORE - TRÍCH TÌNH KHÚC TẶNG BẠN BÈ – Thơ Khaly Chàm

DẠY TRẺ CÓ THÚ VUI ĐỌC SÁCH - Vũ Thị Hương Mai

 




DẠY TRẺ CÓ THÚ VUI ĐỌC SÁCH

 Vũ Thị Hương Mai


 

Khi đã biết đọc, biết viết một cách thành thạo, trẻ sẽ rất ham đọc sách. Vì chúng mong muốn được tìm hiểu thế giới bí ẩn qua trang sách, bởi còn rất nhiều điều thú vị chúng chưa biết mà giờ chúng háo hức muốn biết. Ở tuổi này, trẻ đã có khả năng lý luận và hiểu được những gì chúng đọc. Sở thích đọc này của trẻ cần phải có sự động viên và ủng hộ của cha mẹ. Tuy nhiên, cha mẹ cần phải chọn lựa và khuyên bảo con nên và không nên đọc những loại sách gì. Đối với lứa tuổi 6 - 7 thì chưa nên đọc truyện phức tạp mà chỉ nên đọc truyện tranh, báo Nhi đồng, các loại sách học ở lớp và những sách có liên quan đến việc học tập của các em.

 

Ham mê đọc sách cũng là một trong những biểu hiện của sự ham học hỏi. Nhưng không nên để các em quá lạm dụng vào việc này, mất quá nhiều thời gian sẽ ảnh hưởng đến việc học tập của các em. Nhiều khi cha mẹ không thật chú ý đến điều này, cho nên nhiều em đã ham mê đọc truyện tranh hơn cả học bài. Truyện tranh là thể loại mà hầu hết tuổi thiếu nhi rất ham thích, nhưng chỉ cho các em được phép đọc vào thời gian rảnh rỗi. Còn thời gian học bài thì tuyệt đối không được đọc sách truyện. Hãy coi việc đọc truyện tranh là một phần thưởng giải trí cho các em sau khi đã hoàn thành tốt bài vở ở lớp.

 

Không phải đứa trẻ nào cũng thích đọc sách ngay từ nhỏ, thậm chí có em rất lười đọc. Học ở lớp, nghe bài giảng của thầy cô thôi chưa đủ, mà còn phải đọc lại bài sau khi về nhà. Vậy nên việc đọc sách trước và sau khi đến lớp cũng là một cách tự học rất tốt cho các em. Cha mẹ cần động viên vào tạo dựng cho con trẻ thói quen này ngay từ khi còn nhỏ.

 

Đọc cho vui và đọc để học khác nhau như thế nào? Hãy dạy cho trẻ biết phân biệt giữa việc đọc một quyển sách cho vui, để giải trí với việc đọc sách học. Giải thích cho trẻ hiểu, việc đọc giải trí có thể đọc một lần, còn đọc để học thì phải đọc nhiều lần và đọc rất nhiều. Vì mục đích của việc đọc để học là chuyển những kiến thức trong sách đó vào đầu và ghi nhớ lại. Hãy dạy con trẻ cách học trong sách. Giai đoạn thứ nhất là chuẩn bị: trẻ phải có cái nhìn tổng quát về chương học và bài học. Bạn hãy chỉ cho trẻ cách làm, sau đó dạy trẻ hãy đọc đến tiêu đề, hiểu rõ chương này chia làm mấy phần. Sau đó sẽ đọc chi tiết và cần ghi nhớ những điều quan trọng.

 

Nếu trong sách có bản đồ, sơ đồ thì phải quan sát cẩn thận để hiểu bài hơn. Nếu có những câu hỏi hay tóm tắt cuối chương thì nhắc trẻ phải đọc cho thật kỹ. Đó chính là những nội dung chủ yếu được tóm tắt lại.

 

Sau đó, dạy cho trẻ cách đọc để học, để ghi nhớ chứ không phải chỉ đọc cho vui. Đọc sách chính là cách tự tìm hiểu và lĩnh hội tri thức tốt nhất. Cần phải đọc một cách chủ động, có thể dạy trẻ dùng bút chì gạch dưới những câu quan trọng cần ghi nhớ. Đó cũng là một cách đọc sách giúp ghi nhớ nội dung rất tốt. Mỗi lần đọc một chương hay một cuốn sách, cha mẹ có thể hỏi và trao đổi với trẻ để trẻ có thể ghi nhớ lâu hơn. Tuy nhiên, ở tuổi tiểu học thì chưa nên bắt các em đọc những loại sách quá dày và chi chít chữ. Lựa chọn các em những loại sách tham khảo dành cho lứa tuổi của các em, nó phù hợp với khả năng hiểu biết của tuổi các em.

 

Không phải đứa trẻ nào cũng có thú vui đọc sách, đôi khi còn rất lười. Cha mẹ cần phải giúp con trẻ tạo dựng hứng thú với sách báo ngay từ khi chưa biết đọc. Điều đó sẽ kích thích trí tò mò, ham tìm hiểu của các con. Lựa chọn những sách phù hợp với từng lứa tuổi để các con không nhàm chán. Cũng cần phải nghiêm khắc với trẻ trong việc đọc sách. Vì đôi khi chúng ham đọc truyện tranh hơn đọc sách học.

 

*

 

VŨ THỊ HƯƠNG MAI 

Long Biên - Hà Nội. 

Email: huongmai8081@yahoo.com.vn

 

READ MORE - DẠY TRẺ CÓ THÚ VUI ĐỌC SÁCH - Vũ Thị Hương Mai

TÌNH HUẾ, TRONG HÀNH TRÌNH THƠ TRẦN THƯƠNG BÁ – Đỗ Tư Nhơn


Nhà giáo - nhà thơ Trần Thương Bá
(1940- 2002)
 
I. Lời trao gởi tin yêu.
 
Nhà thơ Trần Thương Bá quê ở Huế, đã có thời gian dạy Việt văn tại trường trung học Nguyễn Hòang Quảng Trị (1964-1969). Anh đã để lại những tình cảm sâu đậm và thân quí trong lòng học trò thuở ấy. Thời gian chập chùng, cuộc đời dâu bể, kiếp người nổi trôi…
 
Sau 1975, tôi được tin anh đang ở Sài Gòn nhưng chưa có cơ duyên gặp gỡ. Bỗng một hôm vào tháng tư 2002 tôi nhận được bưu phẩm cùng dòng thư ngắn gọn nhưng đầy tin yêu của anh: “Bấy lâu nay liên lạc với Đỗ Tư Nghĩa tôi vẫn thường có tin về anh chị. Chưa quen nhưng tôi nghe tiếng anh từ lâu vẫn mong có ngày gặp nhau chuyện trò thỏa thích. Tự nhiên tôi thấy thân với  anh như đã từng thân thiết và thương mến Nghĩa. Nghe anh Bảo nói đi Quảng Trị về . Có tin anh và cả địa chỉ. Tôi xin gởi biếu anh mấy quyển sách anh chị đọc cho vui .Vài dòng vắn tắt thăm anh chị trước đã. Sau có thư dài hơn. Thân ái. Trần Thương Bá”
 
Rất đỗi xúc động trước tấm lòng và tin yêu của anh, tôi đã hồi âm cám ơn anh và ghi những cảm nhận ban đầu về thơ anh. Nhưng hỡi ơi! Lỡ hẹn cuộc tao phùng tri ngộ, anh đã sớm về cõi vĩnh hằng như lời nguyện ước cùng người vợ yêu dấu lúc chị giã từ cõi tạm mười một năm trước, anh đã viết trong bài thơ LỜI NGUYỀN:
 
“Thôi chẳng còn bao lâu, Ta với em làm một . Nâng niu bình tro cốt, Em đã bỏ ta đâu?”
 
Tinh đến nay, 2010 anh Trần Thương Bá đã đi xa đồng nghiệp và học trò đúng tám năm. Thế nhưng những bài thơ của anh, các bài viết về anh vẫn hiện diện trên HƯƠNG QUÊ NHÀ ,Trường NGUYỄN HOÀNG - Chân dung và kỷ niệm ra đều đặn mỗi mùa Xuân, mỗi mùa Thu là hai mùa gợi nhiều cảm hưng sáng tác cho nhà thơ. Thế thôi, người đi xa đã xa, cuộc hẹn không thành, nhưng tôi đón nhận lòng tin yêu chân tình cùng ba tập thơ anh gởi tặng lẽ nào không tỏ bày đôi niềm giao cảm với anh. Xin thắp nén hương tương nhớ trong ngay Xuân này. Cùng đọc lại tập thơ đầu tiên của TTB, tập thơ TÌNH HUỂ, do nhà xuất bản TRẺ ấn hành vào năm 1995.
 
II.Tình Huế trong hành trình thơ Trần Thương Bá
 
Gần nửa thế kỷ làm thơ, TTB đã để lại những tập thơ bằng tiếng Việt và tiếng Pháp:
-Tình Huế 1995. NXB Trẻ.
-La Poesie candide. 1996. NXB Trẻ
-Vô Ngôn Kinh.1996 và một số tập thơ bằng tiếng Pháp chưa xuất bản, thơ phổ nhạc, thơ đăng trên báo Le Courrier du VN, Bulletin de Liaison du CREFAP.
 
Tình Huế  là tập thơ đầu của Trần Thương Bá được sáng tác từ 1959-1993, có 46 bài mang âm hưởng trữ tình Thơ Mới. Về thể loại, anh thích dùng lục bát (20bài), thơ 7 chữ (15bài), thơ 5 chữ (10 bài), thơ 8 chữ (1bài). Cả tập Tình  Huế chia ra 2 phần: Phần một có tựa đề là: Tình Huế (59-69) gồm những bài được làm với cảm hứng về quê nhà, kỷ niệm, tình yêu trong thời gian anh dạy trường Nguyễn Hoàng Quảng Trị.
 
Phần hai là: Xin cho quên lãng (90-93) là tiếng khóc và khúc kinh cầu hồn người vợ yêu dấu.
 
1) Tình Huế trước tiên là tiếng tơ lòng của nhà thơ rung lên từ cảnh vật thiên nhiên, xóm làng quê hương của miền đất Thừa thiên - Huế. Cái hồn quê bàng bạc trong từng câu thơ khi bước chân chàng phiêu lãng đó đây. Vì thế Trần Thương Bá tha thiết gọi tên từ những bến bờ cồn đập cầu cống như để vơi đi nỗi nhớ thương chất ngất:
 
- “Nhiều khi nhớ mà không người để nhắn/ Một lời thôi, qua đó bến Bao Vinh”.
 - Gió bao la, sóng vỗ ngã ba Sình/ Qua cồn Hến, ngược đò lên Đập Đá”.
                                                       (Nhà tôi).
 
Chúng ta đọc được cả dư địa chí vùng đất thần kinh từ Dương Nỗ, chợ Dinh, chợ Nọ… đến đò Thừa Phủ, cầu Bạch Hổ, hồ Tịnh Tâm. . .
 
Không gian thơ Trần Thương Bá được gợi lại qua hồi ức về chốn cũ, một bờ giếng rêu xanh, một mái nhà:
 
- “Bờ giếng rêu xanh ở cuối làng
Người về còn tiếng dậy xôn xang”
                             (Về chốn xưa)
 
- “Nhà tôi đó núp sau vùng cây lá /Đủ rêu phong cho cả một đời người.”
                                                    (Nhà tôi)
 
Một điều đáng ghi nhận nữa là tình Trần Thương Bá vừa trải rộng vừa lắng sâu ôm chặt trong từng bài thơ. Chàng thân thiết ghi lời đề tặng từng người đồng cảm tri âm sau mỗi bài thơ như muốn cùng sẻ chia hương vị cuộc sống, đánh dấu một kỷ niệm buồn vui, hay tâm trạng cô đơn.Có 20 bài trong 27 bài gởi về mỗi đối tượng yêu thương, khi thì tặng các em gái Thu Tâm, Như Mỹ, lúc thì những cô bạn nữ xinh đẹp một thời, kế đến là học trò trường Nguyễn Hoàng – Quảng Trị, các soeurs dòng Kim Đôi...
 
Trong giọng điệu lục bát du dương, anh thổi vào đó chút phiêu bồng, nức nở, nhớ nhung của tuổi xuân thì để tặng  em gái Thu Tâm, Như Mỹ, luôn hiểu cảnh ngộ và nội tâm người anh trai:
 
- “Chợt thương từ buổi chia xa/ Chợt nghe nức nỡ người ra cõi ngoài. Em về xếp áo phôi phai, Chân không giẫm đất cho chai tháng ngày. Xuân nào đậu cánh hoa mai,Tóc em để rối cho dài mùa đông.
                                           (Tóc em để rối)
 
Cảm động nhất là lúc cả nhà chịu tang người mẹ kính yêu, những em gái anh khóc than không dứt thì Trần Thương Bá lặng lẽ ra gốc khế mẹ đã trồng ở vườn sau để nước mắt lặn vào bên trong, anh nói với chiều, với cây, với hoa khế tím rụng trên mặt đất:
 
 - “Chiều ơi chiều vẫn bên sông,Cây ơi, cây vẫn cúi trông bóng mình.Vườn sau hoa khế rung rinh,Tím rơi mặt đất lung linh giọt sầu”
                                  (Cúi trông bóng mình)
 
Trong giấc mơ của anh, mẹ về cùng các con mỗi đêm đông lạnh như để ấp ủ từng đứa con côi cút.
 
- “Kể từ mẹ thoát cõi không, Bước chân êm cứ đêm đông trở về.”
                                  (Cúi trông bóng mình)
 
Bài thơ KHÔNG ĐỀ viết tặng cô Nhụ Hương và anh Lê –Đ-Hải đã ghi lại vẻ đẹp tâm hồn về những giăng mắc vấn vương thời áo trắng giữa hai bờ tương tư Đồng Khánh - Quốc Học:
 
- “Chao ơi, bến đợi sông chờ, Thu đi áo tím hững hờ giòng Hương. Chàng về khép một trời thương, Áo xanh chàng khoác ra đường đón ai”
 
Những tháng ngày thơ mộng đó làm sao quên được, bởi cõi thần tiên rất gần gũi trên từng bước chân thư sinh mang hồn tinh khôi: “Cuộc tình đã mấy hôm mai, Thiên đường mút mắt cho dài bước chân”
 
Qua thơ, chúng ta hiểu được thế giới nội tâm Trần Thương Bá vô cùng phong phú, lòng yêu đời hồn hậu, niềm khát khao pha lẫn xót xa vi biết bao nghịch lý ngăn cách.
 
- “Vẫn khung trời ấy khung trời Huế, Vẫn tấm lòng xưa, lòng khát khao.
- Một mai ta về qua vườn cũ, Cúc đã vàng hoa quanh lối đi.”
                                    (Đong đưa ngày tháng)
- “Môi khô muốn thốt lời vàng đá, Nghe xót xa long nên lại thôi.”
                                            (Xót xa lòng)
 
Trong thời gian anh dạy học ở trường Nguyễn Hoàng Quảng Trị, anh đã làm nhiều bài thơ cho những người học trò thân thiết mến yêu.Thầy Trần Thương Bá đã mượn tác phẩm Chinh phụ ngâm khúcCa dao để gởi gắm nỗi niềm sâu kín của mình .Bài thơ “Chinh phụ và tôi 1”  đựơc sáng tác vào khoảng 1964 -1965 đề ; Tặng các em: Đỗ Tư Nghĩa, Đoàn Đức, Lê Quí Phi  vừa để cảm thông với chinh phụ đồng thời như thổi cả hồn ngươi thầy lãng mạn đa cảm vào thơ...
 
“Xanh kia thăm thẳm từng trên, Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?”
“Tường đông bắc gió heo may, Đã về đem nửa hồn này qua sông.
 
“Lần theo vó ngựa chập chùng, Trong cơn mê tưởng đến vùng Liêu Tây.
“Hoàng anh ra rả đem chầy, Đong thương đếm nhớ cho đầy lầu trai”
 
Đền bai thơ “Chinh phụ và tôi 2” viết tặng cô học trò Lê Thị Vân thì lơi thơ đã thấm thía nỗi buồn chia li của đôi lứa thời binh lửa, nhà thơ đang nói hộ cho ngươi hay tự bộc lộ mình..? Còn bài “ca dao; Trông”, đề tặng Đoàn Đức và Ng. Trinh giọng điệu nhớ thương chất ngất gieo vào tâm hồn trẻ biết bao rung cảm mộng mơ của tuổi mới lớn.
 
“Anh về mau kẻo em mong, Dang tay bức ngọn tơ hồng chia hai.
“Hàng rào em xén hôm mai, Tơ hồng em thả cho dài nhớ thương.
“Con chim sáo hót đầu vườn, Con cu mãi gáy bên tường mãi thôi.”
 
Cuối cùng thầy giáo, nhà thơ Trần Thương Bá đã tự vỗ về mình bằng lời ru dịu dàng thủ thỉ giữa bể dâu của phận người như một liệu pháp tâm lí nhằm cứu chữa căn bệnh tương tư, thất tình:
 
“Chim ơi, mỏi cánh bay về, Ta ơi, hãy ngủ bên lề bể dâu.
“Nhẹ tay hái trái tim sầu, Bước qua cõi mộng, mặc dầu nhớ thương”
                                             (Bên lề bể dâu)
 
2) Xin cho quên lãng (1990-1993)
 
Phần này gồm có 19 bài thơ, một ngôi đền với hương trầm tưởng niệm người yêu, người vợ hiền đã đi về cõi khác.
 
Bài thơ mở đầu phần 2 có nhan đề “BÀI ĐẦU CHO NGỌC”, anh viết bằng tiếng Pháp, đề tặng N. T. Ngọc và cô M. Piat nguyên giáo sư ĐH HUỀ năm 1960 -1961, sau đó anh dịch ra Việt ngữ trong thể thất ngôn tứ tuyệt giàu khả năng khơi gợi:
 
“Ngày cuối thu đi đã nửa chiều,
Mây rừng tìm lại bến đìu hiu.
Hồn hoang ta trở về yên ngủ
Trong mắt em buồn mây hắt hiu.”
 
Giờ đây đọc lại bài thơ trên chúng ta nhận thấy hình như anh đã có linh cảm buồn về cuộc tình ngay tự buổi đầu gặp gỡ. Chính trực giác mang tính bi kịch đã tạo ra giọng điệu lặng lẽ, ngôn từ, hình ảnh đều được lựa chọn trong cùng một trương nghĩa, điệp trùng chồng chất...  “cuối thu,  nửa chiều, đìu hiu, hồn hoang, mắt em buồn, mây hắt hiu”. Dường như anh đã dựng lên một thiên đường giữa cõi thế quạnh quẽ gợi lên sự chia lìa mất mát. Những câu thơ Trần Thương Bá tưởng chừng như bị nén chặt nên ẩn chứa nhiều ý nghĩa. Câu thơ đầu không chỉ là cách tính thời gian bình thường. Mùa thu là qua đi hai phần ba của năm. Cuối thu, ngày cuối thu đi đã nửa chiều. Câu thơ đột nhiên càng tạo nên ám ảnh sự chóng vánh sắp qua sắp mất hút vào hư vô.
 

Theo lời kể của chị Thu Tâm, em gái gần gũi và sẻ chia với anh thật sâu sắc mối tình giữa anh và chị Ngọc. Họ gặp nhau, yêu mến nơi không gian thơm tho mùi chữ nghĩa nhân văn của ĐH HUẾ. Anh chị đã kết dệt một tình yêu bền bỉ thuỷ chung đằm thắm mươi năm trời dù nhiều khi xa nhau hàng ngàn cây số. Mãi đến khi có sự gợi ý của gia đình anh mới dẫn chị về trong cuộc đời chung. Và nụ hoa hạnh phúc đã nở trong căn vườn tình của anh Bá chị Ngọc, cháu Ngọc Hợp chào đời góp tiếng cười trong trẻo làm nên giai điệu hạnh phúc thương yêu mới mẻ và tinh khôi. Ba trái tim là nhịp đập cả nhà.” Rồi một biến cố đau thương ập đến, tức tưởi, xót xa không thể nào kể xiết, chị đột ngột đi về cõi xa xăm, bỏ lại anh và cô con gái yêu. Với anh đây là lần mất Mẹ thứ hai trong đời. Những câu thơ của Trần Thương Bá từ đây như lửa đốt như uất nghẹn.
 
“Em đi, em đi vội, Mà không kịp trối trăn.
“Lạnh lùng và đêm tối, Hận này đành cắn răng” 
                                           (Từng cơn mê)
“Ba trái tim là nhịp đập cả nhà, Em mang hết vào cõi trời vô tận”
''Còn lại đây phần đời lận đận, Hai cha con ngơ ngác dắt nhau”
                                      (Hai trái tim còn lại)

Bài thơ Chiều qua nghĩa trang Bình Hoà anh viết tròn một năm chị mất vẫn chưa chút nguôi ngoai, nghe thê thiết bi ai, hai cõi âm dương như không có ngăn chia, gần lắm, như gặp lại linh hồn đang cùng run rẫy xúc động.
 
“Hồn em lên trên đó,Cứ ngỡ như hôm qua.
“Anh và con đứng ngó, Tay run rẩy cành hoa”
 
“Tim này bao tội lỗi, Thương tích cả cuộc đời.
“Giá băng và đêm tối, Xin giành hết cho tôi”
 
Niềm đau nhức, nỗi oán hận không dứt dày vò trái tim nhà thơ khi nghĩ về sự mất mát lớn lao đó. Anh chỉ còn nguyện cầu mãi mãi đi tìm người vợ yêu giữa cõi mênh mông rộng lớn.
 
“Xin cho trút hết lệ này, Xin cho nuốt hết hận này vào tim”
Xin cho theo dấu chân nàng, Tam thiên thế giới bàng hoàng mông mênh”
                                       (Nuốt hận vào tim)
 
Cũng có lúc anh đối thoại nhỏ nhẹ, khuyên lơn người quá cố hãy luôn ở gần cha con anh như đã từng vỗ về mỗi khi giận hờn.
 
“Ngoan nhé đừng đi xa, Hãy quanh quất ở nhà.
“Khói hương và lời nguyện, Mỗi ngày một thiết tha”
                                           (Lời nguyện)
 
Từ đau thương dằng dặc anh đã đi vào suy niệm về biết bao ân huệ mà cuộc đời và tình yêu đã trao tặng anh, không có gì trả được, bài thơ Ơn Em là lời giãi bày như một tổng kết như một tri ân.
 
“Ta ơn đời một nửa, Còn một nửa ơn em.
“Giờ này tim còn lửa, Mà ta đã xa em”
“Em đến làm cơn lốc, Em đi chợt mùa đông.
“Tiễn em ta không khóc, Mà nước mắt lưng tròng”
 
Tình yêu tha thiết sâu sắc có khả năng bất tử hoá hình ảnh người mình yêu, đã thăng hoa cho các bộ môn nghệ thuật, để lại cho thế giới nhưng tác phẩm bất hủ ngợi ca vẻ đẹp tuyêt trần của nhan sắc và tâm hồn phụ nữ. Nhà thơ Trần Thương Bá cũng đi về miền sáng tạo ấy khi tạc tượng vợ hiền yêu dấu giữa thiên nhiên đất trời,như thánh thần cao cả, như nàng tiên diệu vợi
 
- “Áo em mờ ảo màu hoa,
Tóc em bay giữa bao la trời chiều”
                                     (Tiễn em)
 
“Lạy em, em ngủ cho êm,
Lời kinh này tiễn em lên cõi trời”
                          (Tình thiên thu)
 
Nếu chúng ta tin vào luân hồi, chúng ta sẽ cảm thông với nhà thơ Trần Thương Bá và mai sau sẽ gặp lại những ai còn duyên nợ với nhau.
 
- “Em ơi dù có bao giờ...
Nghe cung đàn ấy, xem thơ lời này..
Ngậm ngùi trong cuộc tình này,
Xin em một chút lệ cay muộn màng...”
                                             (Mai sau)
 
- “Anh biết rồi em sẽ trở về”
Nhẹ nhàng tư thế giới bên kia.
Bước êm như lúc em đi ngủ,
Ân ái thì thầm như thuở xưa”
                             (Không đề)
 
Trong hành trình thơ của Trần Thương Bá, TÌNH HUẾ là khúc dạo đầu, đứa con so đầu mang vào thi đàn một điệu ngân một giọng trữ tình dễ xúc động lòng người... Dù mang hình thức lục bát, bảy chữ, năm chữ thơ anh vẫn gieo vào lòng bạn hữu dấu ấn khó quên. Cái hồn của cảnh vật xứ Huế, cái tình người Huế, được chưng cất nhiều ngày tháng xa quê đã kết tinh lại trong nhiều bài thơ làm lay động lòng người. Đặc biệt là những bài thơ khóc thương người vợ dấu yêu ra đi về cõi xa khuất, Trần Thương Bá không như nhà vua Ân Độ Shah Jehan đã xây ngôi đền Taj Mahal bằng đá cẩm thạch trắng để thương tặng tương tiếc hoàng hậu Mumtaz Mahal tuyệt trần nhưng bạc mệnh. Ở đây Trần Thương Bá dựng tượng đài thơ bằng trái tim rướm máu của mình. Và cuối cùng đoạn kết cuộc tình đã đến, bao lời nguyện ước chung đôi thành tựu. Xin có lời chúc linh hồn anh chị ở cõi vĩnh hằng đoàn tụ trong tam thiên đại thiên thế giới.
 
Trong bài sau, chúng ta đi tiếp Hành trình thơ Trần Thương Bá, sẽ thưởng thức nhưng vần thơ mang khuynh hướng thi ca đượm màu sắc triết lí Tây và Đông phương qua hai đỉnh cao là:
La poesie candide. 1996. Nxb Trẻ
Vô ngôn kinh. 1996
 
                                              ĐỖ TƯ NHƠN

READ MORE - TÌNH HUẾ, TRONG HÀNH TRÌNH THƠ TRẦN THƯƠNG BÁ – Đỗ Tư Nhơn